1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, xây dựng, rèn luyện và lãnh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận dụng sáng tạo học thuyết xây
dựng Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước
ta. Là lãnh tụ của Đảng, Người đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho
dân tộc Việt Nam, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
Với nhận thức sâu sắc rằng cách mạng: "Trước hết phải có đảng cách
mệnh" [39, tr. 267] và "chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng biết vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì
mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã
hội chủ nghĩa đến thành công" [49, tr. 303], Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự cần thiết
phải có một chính đảng để "trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi" [39, tr. 267-628].
Suốt cả cuộc đời, Người đã thực sự quan tâm sâu sát, mong mỏi
thiết tha tới việc xây dựng một chính Đảng của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng thực sự trong
sạch, "xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân" [49, tr. 498]. Ngay từ nhận thức ban đầu về sự cần thiết phải có
một chính Đảng của giai cấp vô sản cho tới trước khi Người trở về với "thế
giới người hiền", Hồ Chí Minh đã dặn lại toàn Đảng, toàn dân ta vài việc,
vài lời trong đó "trước hết nói về Đảng" và "việc cần phải làm trước tiên là
chỉnh đốn lại Đảng" [49, tr. 503]. Có thể khẳng định rằng, Hồ Chí Minh đã
dành nhiều công sức, trí tuệ để vun đắp, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người đã xác định rõ nội dung và phương châm xây dựng Đảng đúng đắn
và phù hợp với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và phù
2
hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta, vốn là một nước có nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân nhỏ bé về số lượng, lại
luôn phải đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là một tư tưởng lớn,
được hình thành ngay sau khi Người tìm thấy con đường cứu nước. Tư
tưởng đó không ngừng được hoàn thiện trong quá trình Người lãnh đạo, chỉ
đạo cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn đã minh chứng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
được xác định như là một tất yếu lịch sử, một nhân tố quyết định, một lực
lượng duy nhất, dẫn đường đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Chính vì sự đòi hỏi khách quan ấy, Đảng ta dưới sự
trực tiếp lãnh đạo và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên
tự đổi mới, tự xây dựng và chỉnh đốn để đáp ứng với những yêu cầu và
nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Trong công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
công tác kiểm tra của Đảng. Theo Hồ Chí Minh: "Công tác kiểm tra của Đảng
có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ
đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó
mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức" [48, tr. 300].
Làm tốt công tác kiểm tra của Đảng sẽ góp phần xây dựng Đảng mạnh cả
về tư tưởng, chính trị và tổ chức; qua công tác kiểm tra của Đảng sẽ góp
phần "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng" [15, tr. 23].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng được trình
bày một cách có hệ thống trong những bài viết, bài nói của Người. Đó là sự
kế thừa trực tiếp và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là
tư tưởng về công tác kiểm tra Đảng của V.I. Lênin; đó còn là sự bổ sung
thêm nhiều luận cứ mới để khẳng định tính tất yếu của công tác kiểm tra
của Đảng; về mục đích, ý nghĩa, tác dụng; về nội dung và cách kiểm tra; về
yêu cầu đối với cán bộ thực hiện công tác kiểm tra của Đảng v.v...
3
Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra
Đảng nói riêng, trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn quan tâm đến
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Bởi vậy, qua
các kỳ Đại hội Đảng thì chức năng, nhiệm vụ cấp ủy, Ủy ban kiểm tra luôn
được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X (4/2006) một lần nữa tiếp tục khẳng
định vai trò, nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta. Đại hội đã tổng kết và rút ra các bài học kinh nghiệm của công tác xây
dựng Đảng trong 20 năm đổi mới toàn diện đất nước (1986-2006). Đại hội
chỉ ra thực trạng công tác kiểm tra của Đảng:
Công tác kiểm tra của Đảng còn yếu, chất lượng và hiệu
quả kiểm tra chưa được cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng
viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và khắc phục; chưa coi
trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực. Nhiều cấp
ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra và thi hành kỷ
luật trong Đảng [15, tr. 272].
Muốn thực hiện tốt một trong những phương hướng và giải pháp lớn
của công tác xây dựng Đảng là "đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng, góp phần phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót
khi mới manh nha" [15, tr. 302], cần thiết phải nghiên cứu, xem xét tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng một cách thấu đáo, toàn diện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng đã được
Đảng ta kế thừa, vận dụng, được các các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu đã và đang thu được kết quả bước đầu. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm
có tính nguyên tắc: Lãnh đạo phải có kiểm tra, lãnh đạo không kiểm tra coi
như không lãnh đạo; trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
4
càng sâu hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề tác động tiêu cực tới công
tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; hơn nữa qua thực tiễn
hoạt động, bên cạnh những ưu điểm, công tác kiểm tra của Đảng còn bộc lộ
nhiều hạn chế, cần phải khắc phục để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Tỉnh Hà Tây là một địa phương có vị trí địa lý rất quan trọng, thuộc
cửa ngõ phía Tây của thành phố Hà Nội (từ ngày 01/8/2008 đã sáp nhập
với thành phố Hà Nội), đang có tốc độ đô thị hóa rất nhanh. Có rất nhiều
vấn đề cần phải giải quyết như: vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vấn đề đô thị hóa; vấn đề giải
quyết việc làm và các vấn đề xã hội khác, đã và đang đặt ra cho Đảng bộ
tỉnh Hà Tây nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Đó
cũng là một yêu cầu mang tính cấp thiết đặt ra cho Đảng bộ tỉnh, nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh công tác
xây dựng Đảng về mọi mặt, trong đó có vấn đề đổi mới công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng. Thời gian gần đây, Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trong công tác xây dựng Đảng cũng như trong công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng vẫn còn bị động, bộc lộ những hạn chế, làm ảnh hưởng không nhỏ tới
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và sức mạnh vốn có của Đảng.
Bước đầu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra
của Đảng một cách có hệ thống sẽ góp phần làm tốt hơn nhiệm vụ mang
tính "then chốt" - xây dựng Đảng, trong đó có Đảng bộ tỉnh Hà Tây. Với ý
nghĩa đó, tác giả mạnh dạn chọn: "Đổi mới công tác kiểm tra ở Đảng bộ
tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm
chủ đề nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng
được thể hiện trong các sản phẩm khoa học chủ yếu sau:
5
* Hệ thống các giáo trình, giáo khoa
- Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các
môn học khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình
tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Văn Lý (chủ biên) (2003), Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Mạch Quang Thắng (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2001), Tập bài giảng tư tưởng Hồ
Chí Minh (hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phân viện Hà Nội - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1995),
Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2004), Giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh (Dùng cho hệ cao cấp lý luận), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
* Công trình nghiên cứu khoa học
- Đề tài khoa học mang mã số: KHXH 05.01 thuộc Chương trình
khoa học cấp Nhà nước,"Tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" do PGS Lê Văn Lý làm chủ
nhiệm;
- Đề tài khoa học mang mã số: KHXH 03.07 thuộc Chương trình
khoa học cấp Nhà nước: "Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật của Đảng" do GS.TS Nguyễn Thị Doan làm chủ nhiệm.
* Các công trình chuyên khảo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
xây dựng Đảng
6
- Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh (2001), Công tác xây dựng Đảng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Lao
động, Hà Nội.
- Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh (2006), Một số vấn đề trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
- Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh (2007), Vận dụng và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Văn Lý (chủ biên) (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Biều (chủ biên)(2005), Giáo trình Xây dựng Đảng
(Chương trình cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Trần Đình Huỳnh, Phan Hữu Tích (chủ biên) (1998), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng cầm quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trần Đình Huỳnh (chủ biên) (1993), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Các bài viết đăng tải trên báo, tạp chí
- Lê Đức Bình (2003), "Kiểm tra - một khâu quan trọng của quá
trình lãnh đạo", Tạp chí Cộng sản, số 7.
- Nguyễn Thị Doan (2002), "Một số vấn đề cần lưu ý khi thực hiện
công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng", Tạp chí Cộng sản, số 16.
7
- Phạm Văn Đồng (1984), "Về công tác kiểm tra của Đảng", Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 4.
- Trần Đình Huỳnh (1992), "Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về Đảng cầm quyền", Tạp chí Cộng sản, số 7.
- Nguyễn Thị Xuân Mỹ (1998), "Tăng cường hơn nữa công tác
kiểm tra của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Kiểm tra, số 5.
- Đặng Đình Phú (1999), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm
tra và thi hành kỷ luật - sự vận dụng của Đảng ta trong tình hình hiện nay",
Tạp chí Kiểm tra, số 5& 6.
Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu công tác kiểm tra của
Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Về hệ thống sách giáo khoa, giáo trình nêu trên đều có: 01 bài
hoặc 01 chương đề cập tới vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản bao gồm: Cơ sở hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam; nguyên tắc tổ
chức, hoạt động, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng, các nguyên tắc xây
dựng Đảng v.v… Tuy nhiên, nội dung công tác kiểm tra của Đảng thì chưa
đề cập đến hoặc đề cập chưa có hệ thống, chưa sâu sắc, chưa đặt thành nội
dung chủ yếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng để nghiên cứu.
- Về hệ thống các sách chuyên khảo: Đã ít nhiều đề cập đến công tác
kiểm tra của Đảng nhưng nhìn chung cũng chưa thành một hệ thống theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, chưa chỉ ra sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về công tác này.
- Ngay cả ở kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học cấp Nhà
nước cũng mới chỉ đề cập một cách khái quát công tác kiểm tra của Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể, coi công tác kiểm tra của Đảng là một
trong những phương thức lãnh đạo của Đảng, giành một phần thích đáng
cho việc nghiên cứu công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật của Đảng như:
8
mục đích, nội dung, cách thức của công tác kiểm tra của Đảng v.v… Vì
thế, đề tài mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu khoa học đã công bố; các kết quả nghiên cứu đã đạt được
chỉ là cơ sở tham khảo hữu ích, giúp chúng tôi hoàn thành vấn đề nghiên
cứu này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh
về công tác kiểm tra của Đảng;
- Đề xuất các quan điểm, nội dung, giải pháp đổi mới công tác kiểm
tra của Đảng ở Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận trực tiếp hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác kiểm tra của Đảng;
- Nêu và phân tích hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về
công tác kiểm tra của Đảng;
- Đánh giá thực trạng công tác kiểm tra của Đảng ở Đảng bộ tỉnh
Hà Tây trong giai đoạn từ năm 2000 - 2005;
- Đề xuất các quan điểm, nội dung và giải pháp đổi mới công tác
kiểm tra của Đảng ở Đảng bộ tỉnh Hà Tây theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
9
Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của
Đảng qua các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh, qua thực tiễn chỉ đạo công
tác kiểm tra Đảng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam; Công tác kiểm tra của Đảng bộ tỉnh Hà Tây.
* Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu các quan điểm của Hồ Chí Minh được thể hiện
trong các bài nói, bài viết của Người về công tác kiểm tra của Đảng, được
thể hiện trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai vào
năm 2000;
- Khảo sát thực trạng công tác kiểm tra của Đảng ở Đảng bộ tỉnh Hà
Tây vào khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2005.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Đề tài sử dụng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng một số phương pháp như: phương pháp văn bản học, phương
pháp lịch sử, lôgic, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, trên cơ sở
những tác phẩm của Hồ Chí Minh, gắn nghiên cứu tác phẩm với thực tiễn
chỉ đạo của Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp như: Khảo sát thực
tế công tác kiểm tra ở Đảng bộ tỉnh Hà Tây; phân tích, tổng hợp các báo cáo
tổng kết công tác kiểm tra của Đảng v.v…
6. Cái mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn bước đầu đã chỉ ra một cách có hệ thống các quan điểm
của Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng, qua đó đề xuất một số
giải pháp đổi mới công tác kiểm tra của Đảng, góp phần nhỏ bé vào việc
10
nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay ở
một địa phương cụ thể.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
11
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRỰC TIẾP HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người đã tìm thấy ở đó con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Trên
cơ sở nghiên cứu và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công
một chính Đảng của dân tộc Việt Nam, dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Có được những thành công ấy là công
sức, trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công, xây dựng và vun đắp.
Vậy, cơ sở lý luận nào để Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng trong
công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra Đảng nói riêng.
Qua nghiên cứu cho thấy, cơ sở lý luận trực tiếp hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác kiểm tra của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt
là những tư tưởng về kiểm tra Đảng của V.I. Lênin.
Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định công tác kiểm tra,
giám sát là tất yếu khách quan, một biểu hiện nghiêm túc của hoạt động có
ý thức trong mọi tổ chức và mỗi con người trong xã hội. Bằng sự nghiên
cứu, tiếp cận của thế giới quan và phương pháp luận mác-xít đã chỉ ra rằng
hoạt động kiểm tra, giám sát xuất hiện ngay sau khi xuất hiện loài người
với nhiều biểu hiện khác nhau, với nhiều hình thức khác nhau. Khi nào có
hoạt động mang tính ý thức của con người thì ở đó có hoạt động kiểm tra,
giám sát. Kiểm tra, giám sát đã thẩm thấu vào các hoạt động của con người
12
trong xã hội. Tự nó đã trở thành một đòi hỏi mang tính khách quan trong
cuộc sống và hoạt động của con người. Cùng với sự tiến bộ của xã hội,
công tác kiểm tra, giám sát ngày càng phát triển và không ngừng đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn. Trước tiên, đó là các hoạt động mang tính kiểm tra,
giám sát một cá nhân cụ thể, dần dần phát triển thành hoạt động của các tổ
chức trong xã hội với nhiều hình thức, quy mô và cấp độ ngày càng đa
dạng và phong phú. Kiểm tra là một quy luật tất yếu trong hoạt động của
mọi tổ chức, mọi hoạt động có ý thức của con người. Theo C.Mác, để đạt
được mục đích do mình đề ra, các tổ chức và con người phải có những
phương thức hành động đa dạng; kiểm tra là một trong những phương thức
hành động quan trọng để thực hiện mục đích ấy.
Trước khi hành động, các tổ chức và con người đều phải suy nghĩ,
xác định rõ ý định, chủ trương, cách thức tiến hành, kế hoạch cụ thể v.v…
Song, thực tiễn luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật
khách quan, do đó các ý định chủ quan của mỗi con người, mỗi tổ chức dù
có tài giỏi, dự đoán tốt đến đâu cũng vẫn xảy ra những thiếu sót, thậm chí
là sai lầm. Nhận thức một sự vật hiện tượng bao giờ cũng là một quá trình.
Một cá nhân, một tổ chức dù có vững mạnh đến đâu, dù có tài giỏi đến đâu,
dù có công cụ hỗ trợ tối tân đến đâu cũng không thể ngay một lúc hiểu được
mọi vấn đề, mọi bản chất của sự vật, hiện tượng một cách đầy đủ và chính
xác nhất. Vì vậy, con người và tổ chức phải thường xuyên kiểm tra, giám
sát, nghĩa là phải xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét, để điều
chỉnh, bổ sung nhằm đảm bảo thực hiện đúng mục đích đặt ra. Kiểm tra là
việc so sánh, đối chiếu từ kế hoạch và mục đích để xem xét trên thực tiễn ở
toàn bộ các hoạt động thực tiễn. Kiểm tra giúp phát hiện ra những thiếu sót,
sai lầm, nguyên nhân và rút ra những phương pháp khắc phục những khiếm
khuyết của quá trình hoạt động của mỗi con người, mỗi tổ chức.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải rõ tính tất yếu khách quan của
kiểm tra, giám sát đối với con người và tổ chức do con người lập ra, là
13
phương thức hành động quan trọng để thực hiện các mục tiêu đã đề ra; đã
khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng, công cụ hữu hiệu và
phương thức, nội dung lãnh đạo, quản lý quan trọng của tổ chức đảng và cơ
quan nhà nước. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn
cách mạng và xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh thì những người cộng
sản phải nắm chắc công cụ kiểm tra, giám sát, coi đó là "những nhiệm vụ
đã trở thành tự nhiên đối với những người xã hội chủ nghĩa sau khi đã
giành được chính quyền" [29, tr. 298]. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, V.I. Lênin rất coi trọng vấn đề kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát. Người
coi đó là một công cụ, phương tiện hữu hiệu không thể thiếu đối với Đảng
và bộ máy Nhà nước. V.I. Lênin cho rằng, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ
đảng cầm quyền là xây dựng kinh tế, nhưng để đảm bảo cho chính quyền đó
đứng vững và phát triển thì Đảng Cộng sản phải nắm chắc công tác kiểm
tra, kiểm kê, kiểm soát. Ngay trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng",
V.I.Lênin viết: "Từ nay cho đến khi giai đoạn "cao" của chủ nghĩa cộng sản
xuất hiện, những người xã hội chủ nghĩa yêu cầu xã hội và Nhà nước kiểm
soát thật nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu dùng" [28, tr. 119]. Trong
tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xôviết", V.I. Lênin
khẳng định vai trò to lớn và có ý nghĩa quan trọng của công tác kiểm tra, kiểm
soát: "không có chế độ kế toán và kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản
phẩm, thì những mầm mống của chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt" [29, tr. 225].
Người viết: "Và vì vậy, kiểm kê và kiểm soát phải được đặt thành vấn đề
nổi bật trong toàn bộ việc quản lý nhà nước" [29, tr. 166].
Để hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế, tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội, V.I. Lênin cho rằng, nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất của
các cơ quan Đảng, Chính quyền Xôviết lúc này không phải là ban hành cho
nhiều chỉ thị, nghị quyết..., không phải là tiến hành các cuộc "cải tổ", lập
thêm nhiều ban, bệ mới..., mà cần phải: "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo
các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc
14
lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt" [32, tr. 450].
Như vậy, V.I. Lênin đã vạch rõ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nhất là nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền kinh tế thì việc đòi hỏi phải lựa
chọn, đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra đội ngũ cán bộ thực thi công tác kiểm
tra là một việc làm hết sức quan trọng. Theo V.I. Lênin, làm tốt công tác kiểm
tra của Đảng sẽ đẩy mạnh được cuộc đấu tranh "chống chủ nghĩa quan liêu
nhằm mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ
và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui vào Đảng" [31, tr. 109].
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định công tác kiểm tra của Đảng vừa
là chức năng vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Công tác
kiểm tra của Đảng được xem xét một cách hữu cơ trong một chỉnh thể
thống nhất từ việc chuẩn bị đường lối, chủ trương, chính sách cho đến việc
quán triệt, tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách đó và việc tổ chức,
thực hiện trong thực tiễn. Việc một Đảng Cộng sản có lãnh đạo thành công
hay không trước hết tùy thuộc vào sự đúng đắn hay không của đường lối
chính trị. Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Một cương lĩnh mới thì giống như
một ngọn cờ người ta vừa mới treo lên trước mắt mọi người và chính là căn
cứ vào cương lĩnh đó mà người ta đánh giá Đảng" [36, tr. 587]. Muốn lãnh
đạo thắng lợi cách mạng, Đảng phải có một đường lối, chính sách đúng
đắn, xuất phát từ thực tiễn và tôn trọng quy luật khách quan. Đó là yếu tố
có tính chất quyết định, là điều kiện tiên quyết để dành thắng lợi. Đường
lối là sự phản ảnh năng lực nhận thức, nắm bắt quy luật khách quan, vận
dụng phù hợp vào thực tiễn cách mạng. Nếu một đảng nào đó mang trong
mình bệnh quan liêu, xa rời thực tiễn hoặc chủ quan, duy ý chí thì không
thể nào nói đến tính cách mạng và tính khoa học của đường lối. Trong tác
phẩm "Thà ít mà tốt", V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: "... phải nghĩ đến chuyện
kiểm tra lại những chủ trương mà chúng ta tuyên bố hàng giờ, quyết định
hàng phút, rồi từng giây chứng minh tính chất không vững chắc, không
kiên định và khó hiểu của những chủ trương đó" [33, tr. 443]. Trong quá
15
trình tổ chức, thực hiện đường lối, chính sách V.I. Lênin đã chỉ ra nội dung
của công tác kiểm tra đó là kiểm tra năng lực của nhân viên công tác, kiểm
tra sự chấp hành trên thực tế. Người nhấn mạnh:
… Những nhiệm vụ chủ yếu của ta về chính sách đối nội,
nhất là về chính sách kinh tế đã thay đổi. Cái chúng ta cần, không
phải là pháp lệnh mới, các cơ quan mới, hay các biện pháp đấu
tranh mới. Chúng ta cần kiểm tra năng lực của nhân viên công
tác, kiểm tra chấp hành thực tế... Kiểm tra nhân viên công tác và
kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ
công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy và
chỉ có ở đấy [33, tr. 19].
V.I. Lênin yêu cầu: Phải giành chín phần mười thời gian vào việc
lựa chọn người và kiểm tra sự chấp hành, nếu không làm như thế thì tất cả
mọi mệnh lệnh và quyết nghị sẽ trở thành mớ giấy lộn.
V.I. Lênin đã phê phán nghiêm khắc những cán bộ và cơ quan chỉ
"bù đầu, bù tai" vào những công việc vụn vặt, chìm ngập trong cái biển
giấy tờ và vũng lầy của chủ nghĩa quan liêu mà lãng quên nhiệm vụ trọng
tâm của thời kỳ Đảng cầm quyền xây dựng kinh tế, lựa chọn cán bộ kiểm
tra và thực hiện. Trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội XI của Đảng
Cộng sản (b) Nga, V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Chúng ta phải tổ chức kiểm tra
nghiêm ngặt công tác của chúng ta..., phải có kiểm tra thật sự..., kiểm tra
trên quan điểm của nền kinh tế quảng đại quần chúng" [33, tr. 94-95].
Trong quá trình lãnh đạo Đảng, V.I. Lênin rất coi trọng vấn đề thực
hiện dân chủ trong công tác kiểm tra. Người cho rằng, nhiệm vụ lãnh đạo
thực sự là:
Không nên "tự mình" làm "tất cả", làm quá sức mà vẫn
không kịp, làm một lúc cả hàng hai chục việc mà không được
một việc nào ra trò, mà phải kiểm tra công việc của hàng chục,
16
hàng trăm người phụ giúp, tổ chức kiểm tra công việc của họ từ
dưới lên, nghĩa là tổ chức sự kiểm tra của quần chúng chân
chính [31, tr. 293].
V.I. Lênin đã vạch ra cách thức xây dựng đội ngũ cán bộ thực hiện
công tác kiểm tra, Người viết:
Một trong những quyết nghị quan trọng của Ban chấp
hành Trung ương các Xôviết toàn Nga mà tôi cho là cần thiết phải
hết sức chú ý đến, đó là quyết nghị về việc đấu tranh chống chủ
nghĩa quan liêu trong các cơ quan của chúng ta. Một trong những
biện pháp đó là việc Ban Chấp hành Trung ương các Xôviết toàn
Nga quyết định cải tổ cơ quan kiểm tra Nhà nước thành cơ quan
kiểm tra công nông hay cơ quan thanh tra công nhân [30, tr. 145146].
Như vậy, V.I. Lênin đã chỉ ra lực lượng tham gia công tác kiểm tra
là đông đảo quần chúng nhân dân lao động, Người viết: "Cần phải làm sao
cho công nhân thâm nhập vào tất cả các cơ quan Nhà nước, kiểm soát được
tất cả bộ máy Nhà nước…, Cần phải làm sao cho đông đảo quần chúng
không đảng phái kiểm tra được mọi công việc Nhà nước và học tập tự quản
lý lấy Nhà nước" [30, tr. 146].
Về vai trò, vị trí của công tác kiểm tra: V.I. Lênin đã xác định công
tác kiểm tra, kiểm soát là một công cụ hữu hiệu và là một nội dung lãnh
đạo quan trọng đối với tổ chức đảng, cơ quan nhà nước. Theo V.I.Lênin,
kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn bao giờ chính trị cũng là biểu
hiện tập trung của kinh tế. Mục tiêu đấu tranh của Đảng là dùng bạo lực
cách mạng lật đổ giai cấp tư sản thống trị phản động, giành lấy chính quyền.
Đây là nhiệm vụ khó khăn, song sau khi giành được chính quyền từ tay giai
cấp tư sản thì việc giữ chính quyền và xây dựng chính quyền vững mạnh,
xây dựng và phát triển kinh tế còn khó khăn gấp bội. Muốn làm tốt các việc
17
này, V.I. Lênin đã khẳng định: Để chính quyền vô sản non trẻ đứng vững
và phát triển thì những người cộng sản phải nắm chắc công cụ kiểm tra,
kiểm soát. Coi đó như là những nghiệp vụ đã trở thành tự nhiên đối với
những người xã hội chủ nghĩa sau khi giành được chính quyền. Người còn
nhấn mạnh, mọi ý kiến và lời chỉ dẫn mặc dầu rất quan trọng, nhưng không
thể thiếu được việc tổ chức kiểm tra trong thực tiễn để biến lời nói thành
hành động.
Tóm lại, kiểm tra, giám sát cần thiết cho mọi tổ chức và con người
trong xã hội, đặc biệt là đối với chính Đảng của giai cấp vô sản và những
người cộng sản. Trong di sản của mình, C. Mác đã đề cập đến vấn đề kiểm
tra như là một phương thức hành động mang tính quy luật để thực hiện
mục đích. Nhưng vấn đề kiểm tra Đảng thì cả C. Mác và Ph. Ăngghen đều
chưa bàn tới. Cho đến khi sáng lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
và trực tiếp lãnh đạo, xây dựng đảng cầm quyền, V.I. Lênin đã đặc biệt coi
trọng công tác kiểm tra của Đảng và đặt nó cùng với hệ thống thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và chính quyền. Chủ nghĩa Mác - Lênin,
đặc biệt là những tư tưởng của V.I. Lênin đã chỉ ra những vấn đề cơ bản
của công tác kiểm tra Đảng, được thể hiện tập trung ở một số nội dung
như: Tính tất yếu phải kiểm tra, thanh tra, kiểm soát các hoạt động của
Đảng; những nội dung, chủ thể, đối tượng của công tác kiểm tra; những
yêu cầu về hình thức tổ chức, phương thức tiến hành và đội ngũ cán bộ
thực hiện công tác kiểm tra.
Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng một chính Đảng nói chung và về
công tác kiểm tra Đảng, mà đặc biệt là tư tưởng của V.I. Lênin về công tác
kiểm tra Đảng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và bổ sung
thêm nhiều luận cứ mới và đó là cơ sở lý luận trực tiếp, quan trọng, trong
quá trình hình thành và hoàn thiện tư tưởng của Người về công tác kiểm
tra Đảng.
18
Bên cạnh đó, ta thấy trong quá trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi nhiều nơi, tham gia nhiều tổ
chức, khảo cứu nhiều phong trào cách mạng của các dân tộc trên thế giới.
Từ chỗ, nhận thức được việc cần thiết phải có một chính Đảng để lãnh đạo
phong trào cách mạng, đến việc Người đã quan tâm chăm lo tới công tác
xây dựng Đảng. Đặc biệt, Người đã có thời gian tham gia tổ chức và hoạt
động thực tiễn ở Đảng Cộng sản Pháp, ở Quốc tế Cộng sản. Tất cả những
hoạt động thực tiễn sinh động ấy, những kinh nghiệm học hỏi được từ các
Đảng Cộng sản, từ Quốc tế Cộng sản về cách thức tổ chức, hoạt động, xây
dựng một chính Đảng đã được Hồ Chí Minh tổng kết, đúc rút thành những
bài học quý báu cho công tác xây dựng Đảng. Thực tiễn tổ chức, lãnh đạo
và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tích cực vận dụng
những kinh nghiệm quý báu ấy và dần bổ sung, hoàn thiện trong việc xây
dựng một Đảng cách mạng, chân chính.
Trên thực tế, để lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong các
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây cũng như trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, yếu tố quyết
định trước hết là Đảng phải có đường lối, chính sách đúng đắn. Không
những thế, Đảng còn phải có tổ chức vững mạnh; có phương pháp cách
mạng khoa học; có năng lực tổ chức thực hiện cao và phải kiểm tra việc
thực hiện đường lối, chính sách đó một cách thường xuyên, kịp thời, có
hiệu quả. Có kiểm tra thì Đảng mới nắm được tình hình thực hiện đường
lối, chính sách; thấy được những nơi làm tốt, những kinh nghiệm hay và
nhân tố mới để phổ biến, phát huy, thấy được những cơ quan, đơn vị, địa
phương còn có nhiều thiếu sót, lệch lạc để kịp thời uốn nắn, khắc phục.
Trong quá trình hoạt động của mình, ngay từ những ngày đầu khi
mới thành lập, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công
tác kiểm tra và giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Điều lệ Đảng năm 1930 đã quy
định: tất cả đảng viên đều phải chấp hành các nghị quyết của quốc tế, của
19
đại hội, của Trung ương và thượng cấp cơ quan. Các cấp ủy có thể đặt ra
Ủy ban đặc biệt để xem xét những vấn đề vi phạm đến kỷ luật Đảng. Đến
tháng 11/1939, trong nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương, Đảng ta
lại khẳng định, phải củ soát sự thi hành nghị quyết. Con đường chính trị và
nghị quyết của Đảng đưa ra có khi vì đồng chí không hiểu biết hết, thiếu
năng lực mà làm sai, có khi vì nạn khiêu khích, phá hoại của mật thám mà
bị phá hoại, cũng có khi vì sự xung đột cá nhân trong các đồng chí chấp
hành hoặc vì thói độc đoán, quan liêu, hủ bại của một vài người phụ trách
mà chậm trễ, hư hỏng. Tất cả những điều hư hỏng ấy, nếu không có sự củ
soát thì không thấy ngay được mà sửa đổi cho kịp để tránh những sai lầm
to tát, những thất bại đau đớn và nếu không có sự củ soát thì những nghị
quyết dù đúng đến đâu nhiều khi cũng không làm gì. Tiếp đó, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng chỉ thị: Củ soát là một công việc rất cần của các đồng
chí chấp hành. Các ban chấp hành phải năng phái người xuống cấp dưới
mà củ soát sự thi hành nghị quyết và chỉ thị của Đảng.
Kiểm tra vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là phương thức, quy trình
lãnh đạo của Đảng: đề ra đường lối, chính sách - tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách - kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách - rồi lại đề
ra đường lối, chính sách (bao gồm cả việc sửa đổi, bổ sung đường lối,
chính sách). Kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu được trong quá
trình lãnh đạo của Đảng, nó góp phần biến đường lối, chính sách của
Đảng thành hành động thực hiện, trở thành sức mạnh vật chất để thúc đẩy
xã hội phát triển.
Để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình, Đảng ta luôn luôn chú
trọng tới công tác xây dựng Đảng, cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán
bộ. Muốn xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội quân
ưu tú có đủ năng lực và sức chiến đấu để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải
thường xuyên kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên. Có
kiểm tra thì Đảng mới thấy được tình hình tư tưởng trong Đảng, thấy được
20
những điểm hợp lý và chưa hợp lý về tổ chức bộ máy, thấy được thực trạng
đội ngũ đảng viên (những mặt mạnh, mặt yếu, mặt tốt, mặt xấu, những vi
phạm của đảng viên trong chấp hành kỷ luật, Điều lệ Đảng và pháp luật
của Nhà nước), từ đó đề ra chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng đúng
đắn, phù hợp. Qua kiểm tra còn phát hiện và loại ra khỏi Đảng những đảng
viên thoái hóa, biến chất, cơ hội, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt quan tâm đến công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Lý luận
về kiểm tra, kỷ luật Đảng luôn được bổ sung và hoàn thiện, hoạt động kiểm
tra, xử lý kỷ luật trong Đảng cũng luôn được đổi mới. Điều đó được thể
hiện trong Báo cáo Chính trị, Điều lệ Đảng qua các kỳ Đại hội của Đảng và
các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, cũng như thực tiễn thực hiện nhiệm vụ kiểm tra thời gian qua. Đảng
ta luôn khẳng định: Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh
đạo; kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội
dung quan trọng của phương thức lãnh đạo của Đảng, là một nội dung
không thể thiếu của công tác xây dựng Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành
công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của Đảng;
kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm minh, kỷ luật sắt. Kiểm tra và giữ gìn
kỷ luật Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Đồng thời Đảng nhấn mạnh phải:
tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của Ủy ban kiểm tra các cấp,
tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết, chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân
chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện,
nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam thời
kỳ dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng
công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng. Từ nhận thức tới hoạt động thực
21
tiễn, đã thành lập được một cơ quan chuyên trách của Đảng thực hiện công
tác kiểm tra Đảng (16/10/1948). Từ thực tiễn sinh động ấy dần trở thành
nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra Đảng. Sau khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (02/9/1969), Đảng ta tiếp tục kế thừa và bổ
sung tư tưởng của Người về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Trải qua
các thời kỳ khác nhau Đảng ta đã luôn bổ sung về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của công tác kiểm tra Đảng dần nâng công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng lên tầm tư duy lý luận.
1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG
TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam
trong điều kiện và hoàn cảnh hoàn toàn khác với nước Nga, Hồ Chí Minh
đã quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà đặc biệt là tư tưởng của V.I. Lênin về công tác kiểm tra của
Đảng, phù hợp với điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời có
những luận giải, những luận cứ mới làm phong phú thêm lý luận về công
tác kiểm tra Đảng.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra Đảng là hệ
thống những quan điểm của Người về công tác kiểm tra bao gồm: Vị trí,
vai trò của công tác kiểm tra Đảng trong xây dựng Đảng; những nguyên
tắc, phương pháp tiến hành công tác kiểm tra Đảng; những nội dung kiểm
tra và những yêu cầu cụ thể đối với đội ngũ cán bộ thực hiện công tác kiểm
tra Đảng. Tiến hành thống kê di sản của Người, qua bộ sách Hồ Chí Minh
toàn tập xuất bản lần thứ hai, năm 2000 cho thấy, Hồ Chí Minh thường sử
dụng những khái niệm: kiểm tra, kiểm soát, kiểm tra Đảng, kiểm thảo, đôn
đốc v.v... với tần xuất xuất hiện khá nhiều (xem thêm ở phần Phụ lục). Điều
đó cho thấy, Hồ Chí Minh đã thực sự quan tâm tới công tác kiểm tra của
Đảng.
22
1.2.1. Vị trí, vai trò của kiểm tra trong công tác xây dựng Đảng
Kiểm tra là một tất yếu khách quan, là biểu hiện nghiêm túc của hoạt
động có ý thức của mọi tổ chức và con người. Trước khi hành động, các tổ
chức và con người đều phải suy nghĩ, xác định rõ mục đích, chủ trương, kế
hoạch, biện pháp rồi mới thực hiện chủ trương, kế hoạch, biện pháp đó.
Nhưng thực tiễn luôn luôn vận động và biến đổi nên những chủ trương, kế
hoạch, biện pháp đã được xác định dù là kết quả của việc nghiên cứu, cân
nhắc kỹ lưỡng, thì vẫn có thể có những thiếu sót, sơ hở. Vì vậy, muốn đạt
được kết quả cao trong hoạt động thực tiễn thì phải kiểm tra toàn bộ các
hoạt động, từ việc đề ra cho đến việc thực hiện các chủ trương, kế hoạch,
biện pháp để kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa đổi những chỗ thiếu
sót, chưa phù hợp và uốn nắn những lệch lạc, sai lầm trong thực hiện.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Kiểm tra (đgt) là: "Xem xét thực chất,
thực tế" [72, tr. 937]; còn kiểm soát (đgt) là: "Kiểm tra, xem xét nhằm ngăn
ngừa những sai phạm các quy định".
Công tác kiểm tra của Đảng xét về bản chất là sự tác động sâu sắc,
có hệ thống và có định hướng vào quá trình giải quyết các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... và công tác xây dựng Đảng.
Nội hàm khái niệm công tác kiểm tra Đảng thường được xem xét và
luận giải chủ yếu ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, công tác kiểm tra Đảng như là một công cụ quan trọng,
như là một nguyên tắc chính của sự lãnh đạo, của công tác xây dựng Đảng.
Thứ hai, công tác kiểm tra Đảng như là một phương tiện nhằm đảm
bảo vai trò lãnh đạo, vai trò tiên phong của Đảng.
Thứ ba, công tác kiểm tra Đảng như là một phương tiện có hiệu quả
để giải quyết những vấn đề trong nội bộ Đảng.
Từ những xem xét, luận giải theo các nội dung nêu trên có thể rút
ra: Công tác kiểm tra Đảng - đó chính là hoạt động của các cấp ủy, các ban
23
chức năng của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng và các đảng viên, hướng vào
mục tiêu xây dựng, thực thi các các nghị quyết, chỉ thị; giải quyết các vấn đề
trong sinh hoạt và nội bộ Đảng; hoàn thiện quy trình lãnh đạo; giữ gìn kỷ
luật của Đảng với mục đích là thực hiện thắng lợi những quyết định đã đặt ra.
Hồ Chí Minh có cách tiếp cận, tìm ra những luận cứ mới để khẳng
định tính tất yếu khách quan của công tác kiểm tra Đảng. Nếu như V.I. Lênin
khẳng định tính tất yếu khách quan của công tác kiểm tra Đảng là do những
yêu cầu từ các đối tượng lãnh đạo, như trọng tâm của nhiệm vụ cách mạng
chuyển từ "tước đoạt" sang quản lý, xây dựng; do nền kinh tế kiệt quệ, do
những tiêu cực xã hội, do sự yếu kém của bộ máy nhà nước v.v… thì Hồ
Chí Minh còn bổ sung thêm và khẳng định công tác kiểm tra Đảng là một
nội dung, một khâu không thể thiếu trong quy trình hoạt động lãnh đạo của
Đảng. V.I. Lênin cho rằng, khi đường lối chính trị và chính sách đã được
xác định; phương hướng đã được thông qua, thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện
phải đặt lên hàng đầu và vấn đề then chốt là phải chuyển trọng tâm từ việc
soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra
sự thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định:
Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn
gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh.
Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hay thất bại của
chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và
do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy mà sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích [42, tr. 520].
Người chỉ rõ: ''Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và
lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán
bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời..." [42, tr. 521].
Như vậy, từ chỉ dẫn của V.I. Lênin về công tác kiểm tra Đảng có tác
dụng "chống chủ nghĩa quan liêu nhằm mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng
24
kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui
vào Đảng" [31, tr. 109] thì Hồ Chí Minh đã chỉ ra: "công tác kiểm tra của
Đảng có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm
vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó
mà góp phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ chức" [48, tr. 300].
Muốn lãnh đạo cách mạng thắng lợi, điều kiện tiên quyết là Đảng
phải định ra được đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn. Muốn đưa
đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn ấy vào cuộc sống phải có tổ
chức Đảng vững mạnh, có phương pháp cách mạng khoa học, có năng lực
tổ chức thực tiễn cao và phải kiểm tra một cách thường xuyên, kịp thời,
hiệu quả. Hồ Chí Minh đã chỉ ra tầm quan trọng đặc biệt của công tác kiểm
tra Đảng. Người viết: "Công việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều,
muốn hoàn thành tốt mọi việc thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng và muốn như vậy thì
các cấp ủy phải tăng cường công tác kiểm tra" [48, tr. 300].
Như vậy, để nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi tất yếu
phải nâng cao chất lượng từng khâu, từng hoạt động và toàn bộ quy trình
lãnh đạo của Đảng. Để làm được điều đó, một trong những vấn đề hết sức
quan trọng là Đảng phải thường xuyên nâng cao tính khoa học trong mọi
hoạt động lãnh đạo, trong đó có kiểm tra - một chức năng lãnh đạo của
Đảng, một bộ phận cơ bản trong toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng và
công tác xây dựng Đảng. Nói đến lãnh đạo mà không nói đến kiểm tra hoặc
tách kiểm tra ra khỏi lãnh đạo đều là không đúng và sẽ dẫn đến làm suy
yếu sự lãnh đạo của Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn quan tâm đến công tác
kiểm tra, giám sát. Bởi vậy, trong các kỳ Đại hội Đảng thì chức năng,
nhiệm vụ cấp ủy, Ủy ban kiểm tra luôn được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử. Đảng ta nhấn mạnh: "Lãnh đạo mà không kiểm
25
tra thì coi như không có lãnh đạo" [13, tr. 123]. Kiểm tra là một trong
những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một khâu quan trọng của tổ chức
thực hiện. Đó cũng là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu.
Tầm quan trọng và hữu ích to lớn về nhiều mặt qua kiểm tra đã rõ, song để
công tác kiểm tra của Đảng thực sự có hiệu quả và phát huy được vai trò
tác dụng của nó đòi hỏi quá trình tiến hành phải quán triệt, nâng cao tính
khoa học của công tác kiểm tra.
Thông qua công tác kiểm tra Đảng sẽ giúp những nhà lãnh đạo, quản
lý biết được chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn
đời sống ra sao? Có được thực thi đúng, đầy đủ hay không? Cũng thông
qua công tác kiểm tra Đảng, các nhà lãnh đạo, quản lý có được những
thông tin phản hồi từ thực tiễn vô cùng phong phú, đó là cơ sở quan trọng
giúp hoạch định, chủ trương, đường lối đúng đắn và sát hợp với thực tiễn
của Đảng. Do đó, nâng cao tính khoa học trong công tác kiểm tra là một
biện pháp cơ bản góp phần bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng được xác định và được chấp hành triệt để ở các cấp. Có kiểm tra
một cách khoa học thì mới nắm chắc được tình hình các tổ chức đảng, đội
ngũ cán bộ, đảng viên, phát hiện chính xác những ưu điểm, khuyết điểm
trong quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các
nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không, muốn
biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm
soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa,
kiểm soát khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi [42, tr. 287].
Tóm lại, xuất phát từ thực tiễn, từ tính tất yếu của công tác kiểm tra
Đảng, Hồ Chí Minh đã vạch ra vai trò, vị trí của công tác kiểm tra Đảng
đối với quá trình xây dựng Đảng và thực hiện lãnh đạo cách mạng Việt