Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Hồ chí minh với việc xây dựng và phát triển quan hệ việt nam liên xô thạc si khoa hoc chinh tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.18 KB, 129 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô trước đây) nay là nước Cộng hòa Liên bang Nga, là điểm dừng chân quan trọng trong
hành trình đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tại
đây, Người đã có thời gian học tập, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý
luận cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc, các nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu về xây
dựng chính quyền Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên đất nước của Lênin, Hồ
Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Chính trong quá trình học tập, nghiên cứu trên quê hương của những
người cộng sản Xô viết, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt
nền tảng quan hệ hữu nghị Việt Nam - Liên Xô. Lịch sử quan hệ Việt Nam
-Liên Xô (trước đây), quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga hiện nay, đã và sẽ
mãi mãi ghi nhớ những cống hiến không mệt mỏi của Hồ Chí Minh- Người
dày công vun đắp, xây dựng cho mối quan hệ giữa hai dân tộc Việt - Xô ngày
càng phát triển bền chặt.
Nhờ có sự giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô, sự ủng hộ chí
tình của nhân dân Liên Xô và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới,
nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi trọn vẹn trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, lập nên chiến công hào
hùng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta ở thế kỷ XX.
Mối quan hệ chính thức của hai nước Việt - Xô (nay là Việt - Nga) đã
trải qua gần 6 thập kỷ, trong những năm tháng khó khăn của cách mạng hai
nước, Đảng ta vẫn luôn khẳng định:


2



Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn
đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta…Gắn
bó chặt chẽ và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến
lược, đồng thời là tình cảm cách mạng. Đảng ta có nhiệm vụ giáo
dục các thế hệ người Việt Nam nắm vững nguyên tắc này, thấu suốt
chiến lược này, biến thành một động lực mạnh mẽ đưa sự nghiệp
cách mạng của chúng ta đến toàn thắng [27, tr. 142].
Hiện nay, tuy Hồ Chí Minh đã đi xa, Liên bang cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết đã tan rã, bối cảnh quan hệ quốc tế cũng có nhiều thay đổi,
nhưng tình hữu nghị Việt - Xô vẫn mãi mãi được nhắc đến như là một tình
cảm thiêng liêng, thân thiết, gần gũi, cao đẹp đối với mỗi người Việt Nam
chúng ta. Bởi tình cảm và mối quan hệ đặc biệt ấy, được hình thành từ sâu xa
trong quá khứ, được Hồ Chí Minh và những người anh em Xô viết tôi luyện,
phát triển trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, đã trở thành một tài sản
vô giá đối với nhân dân hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và sẽ mãi mãi là
nhà kiến trúc sư vĩ đại, là biểu tượng cao cả, trong sáng, đẹp đẽ nhất cho tình
hữu nghị đặc biệt của mối quan hệ mẫu mực giữa hai dân tộc Việt - Xô.
Nhằm góp phần nghiên cứu và tái hiện lại một thời kỳ hoạt động, cống
hiến của Hồ Chí Minh trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Liên Xô, qua đó góp
phần tăng cường tình đoàn kết, thắt chặt hơn mối quan hệ, hợp tác toàn diện
và truyền thống giữa 2 dân tộc Việt - Xô trước đây, Việt - Nga ngày nay,
chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: "Hồ Chí Minh với việc xây dựng
và phát triển quan hệ Việt Nam - Liên Xô" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình. Hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thêm những dữ liệu, sự kiện
lịch sử, góp phần cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc
tế được sâu sắc hơn, toàn diện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nói đến Hồ Chí Minh và quan hệ Việt - Xô, đã có một số công trình
của người Việt và người Nga nghiên cứu về những hoạt động, cống hiến của



3

Người, và một số đề tài nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Liên Xô cũng đề cập
đến vấn đề này.
Có thể kể tên một vài công trình của các học giả Xôviết đã trực tiếp
hoặc thông qua các sự kiện lịch sử trong quan hệ Việt -Xô nói về hoạt động
của Hồ Chí Minh trên đất nước Liên Xô.
- Ilya V. Gaiduk (1998), Liên bang Xôviết và chiến tranh Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Ép-ghê-nhi cô-bê-lép (2000), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.
- I. V. Bukharkin, Điện Kremli và Hồ Chí Minh 1945 - 1969, Lịch sử
cận hiện đại số 3/1998-tiếng Nga.
- X. A Mkhitarian (1986), Cách mạng Việt Nam những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Mátxcơva, tiếng Nga.
- M. P.Ixaép, A. X, Trécnưsép (1986), Lịch sử quan hệ Liên Xô - Việt
Nam 1917 - 1985, Nxb Quan hệ quốc tế Mátxcơva, tiếng Nga.
- Đào tạo những nhà cách mạng Việt Nam trong các trường đại học
cộng sản của nước Nga Xôviết vào những năm 1920 - 1930, Việt Nam truyền
thống, Kỷ yếu khoa học, tập 2, Mátxcơva, 1986 - tiếng Nga.
Các công trình nghiên cứu tại Việt Nam đề cập đến Hồ Chí Minh và
quan hệ Việt -Xô trước đây và Việt Nga hiện nay, có thể thấy một số công
trình tiêu biểu :
- Viện quan hệ quốc tế (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác
ngoại giao, Nxb Sự thật, Hà Nội.
- Phan Ngọc Liên (chủ biên) (1994), Hồ Chí Minh những hoạt động
quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

- Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Hữu Cát (đồng chủ biên) (1997), Về mối
quan hệ giữa Việt Nam - Liên Bang Nga trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.


4

- Lê Văn Tích (1998), Nguyễn Ái Quốc với quốc tế cộng sản 1920 - 1943,
đề tài khoa học cấp bộ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Văn Thịnh (1999), Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô
trong giai đoạn 1930 - 1954, Luận án tiến sĩ lịch sử, Đại học quốc gia Hà Nội,
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
- Hồ Thị Tố Lương (2000), Mối quan hệ của Quốc tế cộng sản với
Đảng cộng sản Đông Dương, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Minh Trưởng (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh và những trang
đầu trong quan hệ ngoại giao Xô - Việt, Tạp chí Thông tin lý luận (5), tr.5-9.
- Trần Minh Trưởng (2001), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ
Chí Minh giai đoạn 1954 - 1969, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đặng Văn Thái (2002), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thời kỳ 1945 - 1954, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Hồng Hà (2008), Bác Hồ trên đất nước Lênin, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
- Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hoàng Giáp (đồng chủ biên) (2008), Hợp tác
chiến lược Việt - Nga những quan điểm, thực trạng và triển vọng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Văn Tích (chủ biên) (2009), Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế cộng
sản (1920 - 1943), Hà Nội.
- Phạm Xanh (2009), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa

Mác - Lênin vào Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.…
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây, ở những mức độ khác nhau
đã tiếp cận những hoạt động của Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian Người
học tập, nghiên cứu trên đất nước Liên Xô, hoặc về những cống hiến của


5

Người đối với việc thiết lập, phát triển quan hệ Việt - Xô, cũng như quan hệ
Việt - Nga hiện nay. Các tác phẩm, công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đã đề cập, lý giải nhiều khía cạnh, nhất là đã cung cấp hệ thống tư liệu
phong phú về Hồ Chí Minh trong quá trình học tập và nghiên cứu ở Liên Xô,
đó là cơ sở dữ liệu tin cậy, đồng thời gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề trong
quá trình nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn diện và có hệ thống về sự đóng góp
cống hiến của Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng và phát triển quan hệ Việt
Nam - Liên Xô trước đây và Việt - Nga ngày nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
+ Nghiên cứu và tái hiện một cách có hệ thống quá trình hoạt động,
học tập, nghiên cứu của Hồ Chí Minh trên đất nước Xô viết và quá trình đặt
nền móng cho việc xây dựng quan hệ Việt Nam - Liên Xô.
+ Phân tích lý giải vai trò, ý nghĩa những hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc trong quan hệ với Quốc tế Cộng sản và những người cộng sản Xô viết,
với Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng Việt Nam.
+ Khái quát đánh giá về những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc
xây dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt Nam Liên Xô.
+ Vận dụng tư tưởng và những bài học kinh nghiệm của Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng mối quan hệ đặc biệt Việt - Xô, để củng cố và phát triển
quan hệ, hợp tác toàn diện Việt - Nga trong bối cảnh hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng của luận văn:
+ Nghiên cứu hoạt động, cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc thiết
lập, xây dựng và phát triển quan hệ Việt - Xô.


6

+ Trên cơ sở chỉ đạo của Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ đặc
biệt Việt - Xô, vận dụng vào xây dựng mối quan hệ Việt - Nga trong bối cảnh
quan hệ quốc tế hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Những hoạt động, cống hiến của Hồ Chí Minh liên quan đến việc
thiết lập quan hệ Việt Nam - Liên Xô.
+ Toàn bộ hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp của Hồ Chí Minh liên
quan đến việc xây dựng và phát triển mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô (đến
1969).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Nhà nước.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp
lôgíc và lịch sử. Luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê,
so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Kế thừa thành quả của những công trình đã có và trên cơ sở những tư
liệu tập hợp được về hoạt động cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng và phát triển quan hệ Việt - Xô, luận văn khái quát lại một cách hệ thống
lịch sử quan hệ Việt Nam - Liên Xô.

- Khẳng định vai trò và những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước đây và ý
nghĩa của nó đối với quan hệ Việt - Nga hôm nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


7

Góp một phần hệ thống hóa tư liệu về hoạt động của Hồ Chí Minh ở
Liên Xô, phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập của sinh viên cao
đẳng, đại học và bạn đọc quan tâm.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương và 7 tiết.


8

Chương 1
NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TIÊN CỦA HỒ CHÍ MINH
TRÊN ĐẤT NƯỚC XÔ VIẾT ĐẶT CƠ SỞ NỀN TẢNG
CHO MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ

1.1. CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI VÀ LIÊN BANG XÔ VIẾT TRONG SỰ
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của V.I.Lênin
Từ khi rời bến cảng Sài Gòn năm 1911, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành đã bôn ba khắp châu Á, châu Phi sang châu Mỹ, rồi đặt

chân đến Pari - trung tâm văn hóa châu Âu. Ở thành phố phồn hoa tráng lệ
nhất châu Âu này, anh đã tận mắt chứng kiến sự phồn vinh giả tạo của chủ
nghĩa tư bản, thấy rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ngay sào
huyệt của nó. Người cũng nhận thấy nhân dân Pháp yêu tự do, dân chủ, đầy
tinh thần cách mạng. Pari đem đến cho Nguyễn Ái Quốc cảm nhận tình thương
giai cấp, rèn luyện người trong những trận chiến đấu công khai đầu tiên chống
chủ thực dân.
Năm 1920, trong khi còn đang mày mò tìm kiếm con đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp Sơ thảo luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Người sung sướng và cảm động khi tìm thấy ở đây con đường
giải phóng nhân dân mình. V.I. Lênin là người đầu tiên chỉ ra rằng, kẻ thù
chung của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức là chủ nghĩa đế quốc. Chỉ
có con đường đấu tranh cách mạng các dân tộc thuộc địa mới thoát khỏi xiềng
xích của chủ nghĩa thực dân, mới giành được độc lập tự do thật sự. Từ đây
Nguyễn Ái Quốc hòa cùng chí hướng đấu tranh của nhân dân Pari: "chặn tay
bọn phản động khát máu! Cách mạng tháng Mười Nga muôn năm!".


9

Nghiên cứu Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã học hỏi được nhiều điều, trước hết phải biết đánh giá
đúng tình hình lịch sử cụ thể để có phương pháp vận động quần chúng làm
cách mạng; phải nhận thức được lợi ích của giai cấp công nhân bị áp bức và
nhân dân lao động đang bị chà đạp, bị bóc lột một cách dã man, bởi bọn tư
bản, thực dân. Đồng thời Lênin cũng vạch rõ; Hòa ước Vécxay (1919), đã
thúc đẩy sự tan vỡ của những ảo tưởng dân tộc tiểu tư sản về khả năng chung
sống hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. V.I.
Lênin nhấn mạnh: chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và

tất cả các nước đoàn kết với nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung,
nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản; các phong trào giải phóng dân tộc ở
thuộc địa phải gắn chặt với cuộc đấu tranh và chiến thắng của chính quyền Xô
viết đối với chủ nghĩa đế quốc thế giới; các Đảng cộng sản phải trực tiếp ủng
hộ phong trào cách mạng của các dân tộc thuộc địa,...[49, tr. 198-200].
Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến những điều kiện kết nạp vào Quốc
tế cộng sản được Đại hội II của Quốc tế cộng sản thông qua ngày 6-8-1920,
đặc biệt là Điều thứ 8:
Về vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức thì các đảng trong
các nước mà giai cấp tư sản có thuộc địa và áp bức các dân tộc khác,
phải có một đường lối đặc biệt rõ ràng, minh bạch. Đảng nào muốn
gia nhập Quốc tế III đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn
xảo trá của bọn đế quốc "nước mình" trong các thuộc địa, ủng hộ trên
thực tế - chứ không phải bằng lời nói - mọi phong trào giải phóng ở
thuộc địa; đòi hỏi phải trục xuất bọn đế quốc nước mình ra khỏi các
thuộc địa ấy; gây trong lòng công nhân nước mình thái độ anh em
chân thành với nhân dân lao động các nước thuộc địa và các dân tộc bị
áp bức; và tiến hành tuyên truyền một cách có hệ thống trong quân đội
nước mình chống mọi sự áp bức các dân tộc thuộc địa [49, tr. 252].


10

Từ chỗ nghiên cứu nội dung Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã có những hiểu biết bước đầu về nguyên lý cách mạng vô sản theo chủ
nghĩa Mác - Lênin, Người khẳng định con đường cách mạng giải phóng của
các dân tộc thuộc địa, tất yếu phải là con đường cách mạng vô sản.
Tháng 12 - 1920, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp, Người đã phát biểu ý kiến tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực
dân, ủng hộ Quốc tế III - Quốc tế của Lênin. Nguyễn Ái Quốc nói: "Thưa các

đồng chí, lẽ ra hôm nay, tôi đến đây là để cùng các đồng chí góp phần vào sự
nghiệp Cách mạng thế giới, nhưng với một nổi đau buồn sâu sắc, tôi đến đây
với tư cách là Đảng viên Xã hội, để phản ánh tội ác ghê tởm trên quê hương
tôi". Người lên tiếng mạnh mẽ tố cáo tội ác và thủ đoạn áp bức, bóc lột nhân
dân Đông Dương - thuộc địa của Pháp và yêu cầu Đảng Xã hội Pháp hoạt
động thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức. Đồng thời, yêu cầu
Đảng phải tuyên truyền ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc
địa, phải đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa, phải quan sát tại
chỗ và đề ra những việc cần làm... Cuối cùng, Người kêu gọi sự đoàn kết,
nhất trí của cả phái tả và phái hữu trong vấn đề thuộc địa: "Nhân danh toàn
thể loài người, nhân danh tất cả Đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả,
chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi" [58, tr. 23-24].
Như vậy, từ khi đọc Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
hướng niềm tin của mình vào Lênin và quốc tế III, cũng tức là đặt vận mệnh
giải phóng dân tộc mình theo đường lối chính trị và tổ chức của Quốc tế cộng
sản, theo con đường cách mạng vô sản - con đường của Cách mạng Tháng
Mười. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt quyết định trong đời hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng
sản.
Hành động của Nguyễn Ái Quốc chẳng những đã đặt nền móng cho sự
liên minh giữa giai cấp vô sản Pháp với nhân dân các dân tộc thuộc địa, mà còn


11

gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kêu gọi nhân dân các dân tộc
thuộc địa cùng với giai cấp vô sản thế giới tiến công vào chủ nghĩa đế quốc. Bốn
mươi năm sau, nhìn lại sự kiện tham dự Đại hội Tua, Hồ Chí Minh đã viết:
"Riêng về cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh
liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của

Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ
một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa" [67, tr. 241].
Từ nhận thức đến hành động, sau khi trở thành người Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc đã đẩy mạnh hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp nhằm
hướng Đảng này chú ý đến việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các
nước thuộc địa, mở rộng ảnh hưởng của Quốc tế cộng sản. Đồng thời nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và các nghị quyết của quốc tế cộng sản để xây
dựng tư tưởng chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc truyền về Việt Nam.
Tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa
(tháng 7 năm 1921); ra báo Người cùng khổ (Le Paria) và làm Trưởng tiểu
ban nghiên cứu vấn đề Đông Dương trong Ban nghiên cứu thuộc địa của
Đảng Cộng sản Pháp.
Những đóng góp lớn lao của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ: "...Trong sự
vận động phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, tư tưởng và tổ chức ở Pháp
lúc đó, với trí tuệ minh mẫn hiếm có, anh đã phân biệt rõ cái đúng và cái sai,
cái thật và cái giả, tìm thấy được chân lý để noi theo và hành động. Trong
những người Việt Nam yêu nước có mặt ở pháp lúc đó, không có ai ngoài
Nguyễn Ái Quốc có đủ sáng suốt, nghị lực và phẩm chất để làm được như
thế" [39, tr. 85]. Nhìn lại những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, dù
chỉ là những hoạt động đầu tiên, nhưng đã góp phần quan trọng vào việc thay
đổi quan điểm của Đảng Cộng sản Pháp đối với cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa. Chính những hoạt động lý luận dưới ánh sáng tư tưởng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã góp phần quan trọng định hướng lý tưởng và


12

khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là đi theo con đường Cách mạng
Tháng Mười, hướng Nguyễn Ái Quốc đến với Liên Xô.
1.1.2. Quá trình phát triển nhận thức về cách mạng vô sản đưa

Nguyễn Ái Quốc đến với quê hương Cách mạng Tháng Mười
Từ chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin, từ đây Người khẳng định: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể chỉ
ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc và đồng thời thực hiện được ba
cuộc giải phóng vốn là mơ ước từ lâu của nhân loại là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người" [98, tr. 24]. Nguyễn Ái Quốc luôn
theo dõi trên báo chí những sự kiện chính trị đang diễn ra trên thế giới. Đó là
Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản với sự có mặt của M.Casanh và Phrốtxa,
đại biểu của Đảng xã hội Pháp và Đại hội I của các dân tộc phương Đông họp
ở Ba Cu (Liên Xô). Các văn kiện đó được Đảng xã hội Pháp đăng đều đặn và
chi tiết.
Tiếp đó, ngày 11 - 8 - 1920, Casanh và Phrốtxa từ nước Nga trở về
Pari trước sự đón tiếp của hàng vạn công nhân. Ngày 13 - 8 - 1920, đoàn tổ
chức một cuộc mít tinh lớn tại rạp xiếc ở Pari. Nguyễn Ái Quốc có mặt trong
cuộc mít tinh đó lắng nghe những lời chân thật của những người từ đất nước
Lênin trở về: "Thật là sung sướng vô cùng cho một người xã hội chủ nghĩa
giàu mơ ước đã 30 năm mới nhìn thấy một xã hội ở đó lao động không còn bị
bóc lột, chỉ có lao động là có quyền và tất cả mọi quyền, đó là nước Nga".
Nguyễn Ái Quốc đã cùng một vạn người dự mít tinh nhất trí tán thành nghị
quyết:
Một vạn nam, nữ công nhân hội họp ngày 13 tháng 8 ở rạp
xiếc tại Pari, theo lời kêu gọi của Đảng xã hội, cảm ơn Phrốtxa và
Casanh về những việc đã làm với sứ mệnh của mình ở nước Nga.


13

Những người dự cuộc họp ra tuyên bố đoàn kết với cuộc cách mạng
vô sản Nga.
Cam kết chống lại tất cả những lực lượng của một cuộc
chiến tranh mới, là đối tượng ủng hộ bọn phiêu lưu được bọn tư bản

nuôi dưỡng.
Bày tỏ nguyện vọng biết ơn Chính phủ nước Cộng hòa
Xôviết. Gửi lời chào anh em và tỏ lòng quý mến đến những người
vô sản Nga [98, tr. 26].
Đại hội lần thứ I các dân tộc phương Đông nhằm phổ biến các nghị
quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản và tư tưởng đoàn kết phương Tây vô
sản và phương Đông bị áp bức. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu
lần đầu tiên đưa ra trong đại hội: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại!". Biên bản của Đại hội được Quốc tế cộng sản in bằng
nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Pháp, được gửi đến Pháp, đã thu hút sự chú
ý của tất cả những ai quan tâm đến phương Đông, trong đó có Nguyễn Ái
Quốc.
Cùng với quá trình phát triển về nhận thức cách mạng vô sản theo lý
luận của học thuyết Mác - Lênin, những sự kiện chính trị và trào lưu phát
triển của cách mạng thế giới đã góp phần củng cố thêm niềm tin và lập trường
chính trị của Nguyễn Ái Quốc vào V.I.Lênin, vào Quốc tế Cộng sản, vào nước
Nga Xô viết. Từ đây Người tham gia một cách tích cực vào cuộc đấu tranh về
mặt lý luận trong Đảng xã hội Pháp, đứng về phía các đại biểu ủng hộ Quốc tế
Cộng sản.
Trong các ý kiến phát biểu của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tỏ rõ lập
trường kiên định, kiên quyết đứng về phía học thuyết và tổ chức cách mạng
nào thực sự quan tâm đến cuộc sống và quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị
áp bức, bênh vực, ủng hộ và chỉ ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc.


14

Đây là sự lựa chọn phù hợp với chân lý của thời đại, khi chủ nghĩa Mác-Lênin
trở thành học thuyết tiên tiến nhất, cách mạng nhất, khi mà cách mạng giải
phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đây

chính là điểm gặp gỡ quan trọng giữa Nguyễn Ái Quốc, dân tộc Việt Nam với
chủ nghĩa Mác- Lênin.
Năm 1922, như một sự sắp đặt của lịch sử, tại Đại hội II của Đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gặp đồng chí Manuinxki, đại diện của
Quốc tế Cộng sản tham dự Đại hội. Đồng chí Manuinxki đã biết ít nhiều về
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, nhưng đặc biệt có cảm tình khi được trực
tiếp nghe những ý kiến của một đảng viên xuất thân từ một nước thuộc địa,
rất nhiệt tình, hăng hái và sắc xảo về những vấn đề dân tộc, thuộc địa. Đồng
chí Manuinxki đã đề xuất và giới thiệu Nguyễn Ái Quốc là đại biểu đi dự Đại
hội V Quốc tế Cộng sản. Kể từ cuộc gặp định mệnh này, Liên xô - đất nước
của Lênin, nơi đặt trụ sở của Quốc tế Cộng sản, như chân trời đầy ánh sáng
mà Nguyễn Ái Quốc ngày đêm mơ ước được đặt chân đến sắp trở thành hiện
thực.
Mùa hè năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Pháp sang Liên xô
dưới sự theo dõi gắt gao của bọn mật thám Pháp. Tuy nhiên, được sự giúp đỡ
của Đảng Cộng sản Pháp, hành trình lịch sử đến với đất nước của Lênin, đến
nước Nga quê hương của Cách mạng Tháng Mười của Nguyễn Ái Quốc đã thành
công.
1.2. NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TIÊN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRÊN
ĐẤT NƯỚC LIÊN XÔ (1923 - 1924)

1.2.1. Nguyễn Ái Quốc với các hoạt động nhằm thiết lập mối quan
hệ giữa cách mạng Việt Nam với Quốc tế cộng sản và Nhà nước Xô viết
Vượt qua mạng lưới mật thám Pháp, Nguyễn Ái Quốc đáp xe lửa từ
Pari đến Béclin, các đồng chí ở cơ quan đại diện của Chính phủ Liên Xô đón


15

tiếp và làm thủ tục cho người vào nước Nga. Trong hành trình này, Người phải

lưu lại ở trên đất nước Đức từ ngày 18 đến ngày 22 - 3 năm 1923, chờ tàu đi
Liên Xô. Nhưng sắp đến ngày lên đường, thì công nhân ở cảng Hănbuốc
(Hambourg) bãi công, mọi hoạt động bị ngừng trệ, nên Nguyễn Ái Quốc phải
xin gia hạn lưu trú. Ngày 27 - 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc được đưa xuống con
tàu mang tên nhà cách mạng Các Liếpnếch, rời Hămbuốc đến bến cảng
Pêtơrôgrát. Ngày 30 - 06 - 1923, làm xong thủ tục nhập cảnh, ít ngày sau
Nguyễn Ái Quốc được bố trí lên xe lửa đi Mátxcơva.
Vào thời gian này, ở đất nước Lênin bắt đầu triển khai công cuộc xây
dựng đất nước theo nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cộng sản
Bônsêvich Nga.
Đến Mátxcơva được ít ngày, tháng 7 - 1923, Nguyễn Ái Quốc gửi thư
cho Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, lưu ý cần có sự quan tâm đúng mức
đến vấn đề thuộc địa. Người nhắc lại ý nghĩa và tác dụng của nghị quyết Đại
hội lần thức II Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa. Người cho rằng, mặc dù
Đảng Cộng sản Pháp đã thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa và đã có mục đưa
tin về phong trào đấu tranh của nhân dân thuộc địa trên báo L'Humanité,
nhưng cần phải có sự ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa đối với nhân dân thuộc địa.
Cần phải coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng. Đề nghị Đảng cộng sản
Pháp tiếp tục gửi tài liệu và tin tức có giá trị cho các tổ chức cách mạng thuộc
địa. Bởi các hoạt động ấy "đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của
nhân dân các thuộc địa và mang lại nỗi lo lắng cho chủ nghĩa đế quốc thực
dân và báo chí của nó" [58, tr. 195].
Nguyễn Ái Quốc đồng tình và hoan nghênh chuyến công tác của các
đồng chí P. Vayăng Cutuyariê và Ăngđrê Béctông qua Angiêri và Tuynidi,
đồng thời cũng phê bình báo chí của Đảng Cộng sản Pháp đưa tin rất ít và rất
chậm về tình hình các nước thuộc địa. Người khẳng định, chúng ta không thể
vô ích nếu buộc tội quá khứ và tiếc rẻ thời gian đã mất. Điều chúng ta quan tâm


16


là phải biết sử dụng tốt thời gian trong hiện tại và tương lai như thế nào. Người
đề xuất với Đảng Cộng sản Pháp tám nhiệm vụ cụ thể cần được triển khai ngay
nhằm thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội II Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa.
Trong những ngày đầu sống trên đất nước Nga, vừa tìm hiểu tình hình,
vừa học tiếng Nga, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn hết sức chú ý đến những sự
kiện chính trị. Người tham gia nhiều diễn đàn của các tổ chức chính trị thuộc
Quốc tế Cộng sản.
Phát biểu tại phiên khai mạc Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái
Quốc không chỉ tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân mà còn xác định vai trò
to lớn của giai cấp nông dân thuộc địa, của liên minh công nông và đặc biệt là
vai trò lãnh đạo của công nhân trong công cuộc đấu tranh chống tư bản đế
quốc. Kết thúc bài phát biểu người kêu gọi: "Thưa các đồng chí, khi các đồng
chí được tổ chức lại, các đồng chí cần phải nêu gương cho chúng tôi, giúp đỡ
chúng tôi, dang rộng cách tay anh em đón chúng tôi để chúng tôi cũng có thể
bước vào gia đình vô sản quốc tế" [58, tr. 208]. Đây là sự thể hiện nhận thức
về liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Người đã
chỉ rõ tình trạng bị hai tầng bóc lột, áp bức của nông dân các thuộc địa. Có thể
nói, lần đầu tiên trên một diễn đàn hội nghị chính thức, tiếng nói bênh vực
nhân dân thuộc địa đã được đề cập đến.
Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị là sự vận dụng
sáng tạo khẩu hiệu chiến đấu "Vô sản và nhân dân lao động các nước đoàn kết
lại". Những đóng góp của Người có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn. Thể
hiện trình độ hiểu biết đi sâu, đi sát vào quần chúng của Nguyễn Ái Quốc, vừa
hiểu rõ vị trí, vai trò của nông dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, vừa nắm
vững đặc điểm của nông dân. Người yêu cầu cần tổ chức để liên kết họ lại đặt
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Với uy tín và những đóng góp tích
cực đó, Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị Quốc tế nông dân bầu vào Hội đồng



17

Quốc tế nông dân (52 ủy viên). Tại kỳ họp đầu tiên của Hội đồng Quốc tế
nông dân (17 - 10 - 1923), Nguyễn Ái Quốc đã được bầu vào Đoàn Chủ tịch
Hội đồng Quốc tế nông dân gồm 11 ủy viên.
Tháng 7 - 1924, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Quốc tế Công hội
đỏ với tư cách là đại biểu Đông Dương. Tại Hội nghị này, Người đã trình bày
bản tham luận quan trọng, nêu lên một cách cụ thể tình hình công nghiệp, số
lượng nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, đường sắt, hải cảng ở Đông Dương và tình
hình công nhân làm việc tại cơ sở công nghiệp lớn. Nguyễn Ái Quốc tố cáo
chế độ bóc lột thuộc địa nặng nề và sự áp bức tàn bạo của thực dân Pháp,
Người nói: "Với sự giúp đỡ hào hiệp của chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Đông
Dương thật ra đã phục hồi chế độ nô lệ" [58, tr. 291]. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ
giai cấp công nhân ở Việt Nam chưa có một tổ chức công nhân nào cả và đề
nghị Quốc tế công hội đỏ, các tổ chức công nhân các nước, trước hết là giai cấp
công nhân Pháp cần phải tích cực giúp đỡ phong trào công nhân Đông Dương
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đề xuất giải pháp: "Tình
hình không phải là không có lối thoát, bởi vì với sự giúp đỡ của các tổ chức
cách mạng gần gũi với Quốc tế công hội đỏ, chúng tôi quyết đập tan lực
lượng của chủ nghĩa đế quốc châu Âu áp bức chúng tôi" [58, tr. 292 - 293].
Có thể nói, bằng những hoạt động sôi nổi của mình, những ngày tháng
đầu tiên trên đất nước Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã bước đầu giới thiệu cho
các đồng chí trong Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân, Quốc tế Công hội đỏ
và đại biểu của giai cấp vô sản ở các nước châu Âu, châu Á...và nhân dân
Xôviết biết đến tình cảnh lầm than của nhân dân các dân tộc thuộc địa dưới sự
áp bức của chủ nghĩa thực dân, trong đó nhấn mạnh đến tình cảnh nhân dân Đông
Dương.
Từ ngày 17 - 6 đến ngày 8 - 7 - 1924, tại Mátxcơva diễn ra Đại hội lần
thứ V Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội, vấn đề dân tộc và thuộc địa chiếm một



18

phần rất quan trọng trong chương trình nghị sự. Nguyễn Ái Quốc tham dự
Hội nghị với tư cách là đại biểu tư vấn. Người đã trình bày nhiều lần trước
diễn đàn Đại hội về vấn đề dân tộc và thuộc địa, cuộc đấu tranh nhằm giải
phóng các dân tộc bị áp bức. Người đã đem đến Đại hội lời phát biểu về vai
trò to lớn của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng ở chính quốc. Người
phát biểu vào ngày 23 - 6 - 1924 như sau:
Tôi đến đây để không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến
một sự thật là: Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế
Cộng sản thấy rằng: Cách mạng, ngoài vấn đề tương lai của các
thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa. Song, tôi thấy rằng
hình như, các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng cho
rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh
của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Vì vậy, tôi sẽ tận
dụng mọi cơ hội có được, sẽ gợi ra những vấn đề và nếu cần tôi sẽ
thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa [58, tr. 273]. Vì vậy,
người cộng sản cần phải hiểu những thành công của họ là phải liên
hệ chặt chẽ với việc giải quyết vấn đề thuộc địa, rằng họ cần phải
"thức tỉnh" và nghiên cứu nghiêm túc hơn về vấn đề thuộc địa.
Trong phiên họp thứ 22 Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, ngày 1 7 - 1924, nhân danh đảng Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã phê bình
Đảng Cộng sản Pháp, Đảng cộng sản Anh và Đảng cộng sản một số nước
chưa hành động nhiều vì công cuộc giải phóng thuộc địa. Người khẳng định:
…sẽ không phải là quá đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng
Pháp và Đảng Anh chúng ta chưa thi hành một chính sách thật tích
cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề cập đến quần chúng
các nước thuộc địa, thì toàn bộ chương trình rộng lớn của hai đảng



19

đó vẫn không có hiệu quả gì. Chương trình ấy sẽ không có hiệu quả
gì vì nó trái với chủ nghĩa Lênin [58, tr. 277].
Đây là lần đầu tiên tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhưng với bản
lĩnh chính trị và lập trường cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tỏ rõ thái
độ kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện của tư tưởng cơ hội, cải
lương, dân tộc hẹp hòi, thẳng thắn phản đối những nhận thức mơ hồ, chưa đúng
của một số Đảng cộng sản. Người nói: "Đề ra những luận cương dài dằng dặc và
thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng như từ
trước vẫn làm thì chưa đủ. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể" [58, tr. 281].
Nguyễn Ái Quốc khẩn thiết đề nghị Quốc tế Cộng sản cần có biện pháp cụ thể
để khắc phục những nhược điểm trên trong nhận thức và hành động về vấn đề
dân tộc và thuộc địa. Người đã kêu gọi những người mác-xít: "Vì chúng ta tự
coi mình là học trò của Lênin, cho nên chúng ta cần phải tập trung tất cả sức
lực và nghị lực để thực hiện trên thực tế những lời di huấn quý báu của Lênin
đối với chúng ta về vấn đề thuộc địa cũng như các vấn đề khác" [58, tr. 282].
Trong bản tham luận đọc tại phiên họp thứ 25, ngày 3 - 7 - 1924,
Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên cuộc sống cơ cực, tình hình thiếu tổ chức, thiếu
lãnh đạo của nhân dân Đông Dương cũng như nhân dân các thuộc địa của Pháp.
Người phát biểu: "Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng,
sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi.
Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm
trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì
nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo" [58, tr. 289].
Vậy phải làm gì? Nguyễn Ái Quốc đề nghị: "Quốc tế Cộng sản cần phải giúp
đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con
đường đi tới cách mạng và giải phóng" [58, tr. 289].
Thông qua các bài phát biểu trên diễn đàn Đại hội V- Quốc tế cộng

sản, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng: những người cộng sản trên thế giới cần


20

phải kiên định, bảo vệ tư tưởng của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa. Phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, cơ hội trong phong
trào cộng sản và công nhân thế giới. Trên diễn đàn của Đại hội, tội ác của chủ
nghĩa thực dân bị tố cáo, phơi bày thông qua những chứng cứ cụ thể, điều đó
chẳng những góp phần làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh của nhân dân các
nước thuộc địa, mà còn kêu gọi sự đoàn kết quốc tế rộng rãi chống chủ nghĩa
thực dân của nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ nhân dân các nước thuộc
địa trong cuộc đấu tranh chung. Vấn đề thuộc địa và cách mạng giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa được đại biểu Nguyễn Ái Quốc đặt ra một
cách thẳng thắn, tích cực trên diễn đàn chính thức của Đại hội, sự phê bình
thẳng thắn, có sức thuyết phục và những đề nghị cụ thể đối với các Đảng cộng
sản có tác dụng tích cực đến Đại hội, đó là việc bổ sung và điều chỉnh đường
lối của nhiều Đảng cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc
địa nói chung, ở Đông Dương nói riêng.
Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội V Quốc tế Cộng
sản còn có ý nghĩa giới thiệu với các Đảng cộng sản trong đó có Đảng Cộng
sản Liên Xô, những người đứng đầu Nhà nước Xôviết về xứ thuộc địa Đông
Dương, biết đến đại biểu An Nam Nguyễn Ái Quốc - người lúc đó đã trở
thành cán bộ Ban Phương Đông Quốc tế cộng sản.
Thời gian sau Đại hội, Nguyễn Ái Quốc còn đi xuống một số nông
trang tập thể vùng ngoại ô Mátxcơva, để tìm hiểu mô hình, cách thức tổ chức
sản xuất và tìm hiểu về đời sống của các gia đình nông trang viên; thăm một
số nhà trẻ, trường mẫu giáo ở Mátxcơva.
Nhìn lại thời gian hoạt động với tư cách là cán bộ của Ban Phương
Đông Quốc tế Cộng sản (1923 - 1924), Nguyễn Ái Quốc đã học tập và tích

lũy được những bài học và kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân các nước
thuộc địa cũng như các nước tư bản để vận dụng và chỉ đạo cách mạng nhân
dân Đông Dương sau này. Nhờ hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà Quốc tế


21

Cộng sản và các Đảng cộng sản anh em biết đến tình hình Đông Dương, ủng
hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương, giúp đỡ nhân dân Đông Dương
vượt qua mọi khó khăn trước sự khủng bố, đàn áp vô cùng dã man của chủ
nghĩa đế quốc Pháp.
Chính hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã có
nhiều điều kiện hoàn chỉnh thêm nhận thức tư tưởng chính trị và thực tiễn của
mình, trước hết là tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Người được trực tiếp chứng
kiến trên đất nước Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc là người đưa đến Quốc tế Cộng
sản biết về tình trạng thiếu hiểu biết đầy đủ về tình cảnh thuộc địa nói chung
và nông dân thuộc địa nói riêng. Điều này làm cho những vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin đề ra, vấn đề mà Quốc tế Cộng sản chủ trương vẫn còn
nằm trong chương trình nghị sự, trên giấy tờ khởi động để đi vào thực tiễn.
Nguyễn Ái Quốc đã cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
hiểu rõ về bản chất chủ nghĩa thực dân, không chỉ là kẻ thù trực tiếp của nhân
dân các nước thuộc địa, mà còn là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới. Người đi đến khẳng định: Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới,
có quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản ở chính quốc như "một trong
những cái cách của cách mạng vô sản". Người đã đưa đến luận điểm quan
trọng: Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc, nó có tính độc lập, chủ động, nên trong những điều kiện nhất định, cách
mạng ở thuộc địa có thể nổ ra trước và thành công trước cách mạng vô sản ở
chính quốc. Luận điểm này là quan điểm độc lập, sáng tạo của Nguyễn Ái

Quốc có giá trị lý luận và thực tiễn rất lớn. Với quan điểm này, Nguyễn Ái
Quốc đã góp phần quan trọng vào việc bổ sung và phát triển luận điểm của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, góp phần quan trọng vào việc xây dựng


22

đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Quốc tế Cộng sản trong các giai
đoạn tiếp theo.
Quan điểm bao trùm nhất của Người về tổ chức lực lượng cách mạng
trong cách mạng giải phóng dân tộc, là phải huy động được sự tham gia của
tuyệt đại bộ phận nhân dân trong cộng đồng dân tộc. Trong quá trình hoạt
động thực tiễn về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, ngoài việc vận dụng
quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
và liên minh công nông là nòng cốt cách mạng của từng giai cấp, tầng lớp.
Người khẳng định vai trò sứ mệnh của giai cấp nông dân ở thuộc địa, do đó
cần phải khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực
lượng yêu nước, lấy công nông làm gốc, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
"Cách mạng là sự nghiệp chung của dân chúng chứ không phải là việc riêng
của một vài người. Làm cách mạng phải lâu dài, phải quyết tâm, phải bền gan
chiến đấu. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" [59, tr. 268].
Những luận điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa
ngay từ đầu những năm XX. Những luận điểm đã phân tích trên đã được
truyền vào Việt Nam. Nó là tư tưởng cách mạng hướng phong trào dân tộc
vào các tổ chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cơ sở cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính nhờ những ý kiến phát biểu mang tính xây dựng, bổ sung vào
chương trình, nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội V của Nguyễn Ái

Quốc, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã có sự điều chỉnh về mặt chủ
trương, đường lối. Nhiều cán bộ, thanh niên yêu nước của Việt Nam và các
nước khác đã được nhận đào tạo tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô).
Đó là tiền đề, cơ sở cho quan hệ giữa phong trào cách mạng Việt Nam với


23

Quốc tế Cộng sản nói riêng, với Đảng Cộng sản Liên Xô, Nhà nước và nhân
dân Xôviết nói chung.
1.2.2. Các hoạt động học tập, nghiên cứu của Hồ Chí Minh tại
Trường Đại học Phương Đông
Thời kỳ thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc đến sống và làm việc tại Liên Xô
chỉ khoảng một năm rưỡi (từ tháng 7 - 1923 đến cuối năm 1924) nhưng đây là
thời kỳ làm việc sôi nổi và tích cực học tập trau dồi lý luận cách mạng của
Người. Chính những kết quả của quá trình học tập lý luận và hoạt động thực
tiễn phong phú đã tạo đà để Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam sau này.
Mục đích Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô giữa năm 1923 là để tìm gặp
V.I.Lênin và tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, nhưng vì Lênin
đang ốm nặng, Đại hội phải hoãn họp, nên Người đã tranh thủ vào học lớp
ngắn hạn của Trường Đại học Cộng sản của những người lao động Phương
Đông, gọi tắt là Trường Đại học Phương Đông. (Trường Đại học Cộng sản
của những người lao động Phương Đông được thành lập ngày 21 - 4 - 1921.
Nhiệm vụ của trường là đào tạo cán bộ cách mạng cho các nước phương
Đông và các nước Cộng hòa Trung Á của Liên Xô).
Ở đây, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đã được thấy một mô hình đào tạo
cán bộ kiểu mới. Trường được tổ chức theo chế độ tự quản, học viên tự bầu ra
đại biểu của mình tham gia quản lý kinh tế và hành chính của trường, luân phiên
nhau làm công việc phục vụ. Nhà trường trang cấp cho học viên về ăn mặc, hàng

tháng còn được lĩnh tiền tiêu vặt. Các học viên thuộc cùng một dân tộc hoặc
cùng sử dụng quen một thứ tiếng được ở chung, học tập chung để có điều kiện
thông cảm, hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy các học viên thuộc 62 dân tộc khác
nhau nhưng đoàn kết và giúp đỡ nhau như anh em trong đại gia đình cách mạng.
Trường có một đội ngũ giáo sư giỏi, phụ trách dạy các môn khoa học
xã hội và khoa học tự nhiên, lịch sử các cuộc cách mạng, lịch sử phong trào


24

công nhân, duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học… Trong 20 năm tồn tại,
Trường Đại học Phương Đông đã đào tạo cho các nước phương Đông hàng
nghìn cán bộ, trong đó có nhiều người về sau trở thành cán bộ lãnh đạo có uy
tín, sự nghiệp cách mạng của nhiều nước. Một số cán bộ lãnh đạo tiền bối của
Đảng ta như Trần Phú, Hà Huy Tập ...cũng đã học trường này.
Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên vào học Trường Đại học
Phương Đông, được tham gia trực tiếp công việc của Ban Phương Đông Quốc
tế Cộng sản, được thâm nhập thực tế nước Nga Xô viết… Do vậy, chỉ trong
một thời gian ngắn, nhận thức của Người được nâng cao, giàu tính khái quát,
tổng kết thành hệ thống quan điểm. Điều đó được phản ánh ở những tham
luận, bài viết, tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc trong thời kỳ này. Đặc biệt ở các
bản tham luận tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V và Báo cáo về Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ. Có thể nói, đây chính là lần đầu tiên trong quá trình tìm
đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc được học tập lý luận chủ nghĩa Mác Lênin tại trường lớp chính thức. Như Người đã phát biểu:
Việc thành lập Trường đại học Bônsêvich đã mở ra một thời
đại mới trong lịch sử các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, và nhà
trường đã dạy chúng tôi nguyên lý đấu tranh giai cấp, và nhà trường
đã đặt mối liên hệ giữa chúng tôi với các dân tộc phương Tây và
trang bị cho chúng tôi - những người nô lệ, khả năng hoạt động chặt
chẽ [58, tr. 483].

Vào hàng năm, nhà trường tổ chức kỷ niệm ngày thành lập. Ngày 21 4 - 1924, kỷ niệm lần thứ ba ngày thành lập, Nguyễn Ái Quốc được mời tham
dự. Sau lễ kỷ niệm, Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Pêtơrốp, Bí thư Ban
Phương Đông về những cảm nghĩ của mình. Người viết:
Trường Đại học Phương Đông hiện nay đang dung nạp 62
dân tộc phương Đông. Con số này sẽ ngày càng tăng thêm tùy theo
sự hoạt động và công tác tuyên truyền của Quốc tế mỗi ngày một


25

mở rộng. Trường Đại học này là một cái lò đào tạo những cán bộ
tuyên truyền đầu tiên cho các nước phương Đông... Để cho công tác
được dễ dàng, chúng ta đã lập nhóm Latinh, nhóm Ăngglôxắcxông,
v.v., vậy vì lẽ gì chúng ta lại không lập nhóm châu Á.
Vậy tôi đề nghị là trước ngày các sinh viên tốt nghiệp lên
đường và trước cuộc Đại hội thế giới, một TIỂU BAN PHƯƠNG
ĐÔNG sẽ được các đồng chí triệu tập để chuẩn bị việc thành lập
NHÓM CHÂU Á đó [58, tr. 264].

Quan tâm nhiều đến việc đào tạo cán bộ cách mạng cho các nước
thuộc địa, ngay trong thời gian đầu ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều
bài báo để giới thiệu nhà trường và cổ vũ, lựa chọn những cán bộ Việt Nam
đến học tại Trường Đại học Phương Đông.
Trong thời kỳ học tập tại Trường, Nguyễn Ái Quốc đã viết hàng chục
bài đăng trên các báo "Người cùng khổ", "Đời sống công nhân", "Nhân đạo",
"Sự thật", "Đoàn kết"… và các tạp chí "Thư tín Quốc tế", "Quốc tế nông
dân".
Được học tập và hoạt động tại Mátxcơva - trung tâm của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, bên cạnh những nhà lãnh đạo cộng sản quốc tế
- những đại biểu của nhiều dân tộc anh em vừa có thực tiễn phong phú lại vừa

có lý luận cách mạng tiên tiến G. Dinôviép, Đ. Manuinxki, F. Pêtơrốp, Z.
Vôtinxki (Liên Xô), Katayama Xen (Nhật Bản), Ruth Ficher (Đức), Chu Ân
Lai, Trương Thái Lôi (Trung Quốc), M. Rôi (Ấn Độ)... Nguyễn Ái Quốc có
nhiều ảnh hưởng tích cực, tư duy lý luận trưởng thành nhanh chóng. Đặc biệt
từ khi được làm sinh viên Trường Đại học Phương Đông và sau khi trở thành
cán bộ Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc càng có điều
kiện hoạt động mạnh trên cả phương diện thực tế và lý luận.
Sự trau dồi và trưởng thành trên phương diện lý luận được thể hiện
qua tầm nhìn, trình độ tổng kết, khái quát lý luận và những dự kiến về xu


×