Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về những đặc trưng chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.85 KB, 131 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ sau cuộc khủng hoảng, đổ vỡ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội ra sức tấn công vào chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta,
hòng làm cho Việt Nam phải xa rời con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí
Minh và Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta khẳng định rõ: "Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [17,
tr. 56].
Vì vậy, để thực hiện quyết tâm đó của toàn Đảng, toàn dân trong sự
nghiệp đổi mới, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghiên cứu tư
tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa IX, Đảng ta nhấn
mạnh: "Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" [16,
tr. 134].
Rõ ràng việc nghiên cứu để nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh về
những đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nhiệm vụ to lớn, là yêu
cầu vừa cấp bách, vừa cơ bản. Do vậy, tác giả lựa chọn đề tài "Tư tưởng Hồ
Chí Minh về những đặc trưng chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới", nhằm góp phần làm sáng rõ
tính đúng đắn của con đường Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn,
đồng thời góp một phần nhỏ bé vào việc đi sâu, mở rộng nghiên cứu, giáo



2

dục, tuyên truyền và đưa tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hiện thực cuộc sống
trên đất nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một trong những vấn đề
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có thể nhìn nhận lịch sử vấn đề nghiên
cứu theo ba mảng chính sau đây:
Thứ nhất, các sách, giáo trình viết về tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Những vấn đề
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
của Nguyễn Duy Quý chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, của Võ Nguyên Giáp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của TS. Hoàng Trang và TS. Phạm
Ngọc Anh đồng chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000; Về định hướng xã
hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của GS.TS.
Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của
TS. Vũ Viết Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Về một tư tưởng lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, của GS.
Song Thành, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005; Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, của Hội đồng
Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, v.v..


3


Thứ hai, một số công trình, đề tài nghiên cứu về tư tưởng cách mạng
xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh: Đề tài KX02- 04, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, của TS. Phạm Vũ Quyết Thắng và
ThS. Vũ Viết Mỹ làm chủ nhiệm; Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX02:
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" (giai đoạn 1991 - 1995) trong đó có đề tài KX - 02.01:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam, của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp làm chủ nhiệm, v.v..
Thứ ba, các bài viết của các nhà nghiên cứu được đăng trên các báo,
tạp chí khoa học: Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, Tạp chí Thông tin lý luận, số 1-1995; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội và bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của
Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 4-1998; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7-1999; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, của Nguyễn Duy Quý, Tạp chí Triết học, số 3-2000; Đổi mới tư duy về
chủ nghĩa xã hội ở nước ta - Lược khảo lịch sử, Tạp chí Triết học, số 5-2000;
Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cần nắm vững để nghiên cứu thời kỳ quá độ ở Việt Nam, của Nguyễn
Văn Trung, Tạp chí Triết học, số 1-2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của Nguyễn
Thế Nghĩa, Tạp chí Triết học, số 8-2002; Nhận thức và thực tiễn về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, của
Đoàn Thế Hanh, Tạp chí Cộng sản, số 10-2006, v.v...
Các công trình nghiên cứu trên phản ánh được nhiều khía cạnh của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần làm sáng tỏ
nhiều vấn đề lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Song, chưa có một công trình chuyên khảo nào tập
trung vào trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc



4

trưng chủ nghĩa xã hội. Các công trình đó là những tài liệu quý, là cơ sở để
tác giả kế thừa, tiếp tục đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về những
đặc trưng chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Nghiên cứu làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sự nghiệp đổi mới.
* Nhiệm vụ
+ Phân tích một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những
đặc trưng chủ nghĩa xã hội.
+ Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
+ Phân tích sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đặc trưng chủ nghĩa xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng chủ nghĩa xã hội và Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp đổi mới
(1986 - 2006).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận



5

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, đặc biệt chú
ý tới phương pháp hệ thống, lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; phương
pháp so sánh, v.v...
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Từ xác định rõ khái niệm "đặc trưng chủ nghĩa xã hội", luận văn trình
bày có hệ thống cơ sở lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về những đặc trưng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đó của Đảng ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


6

Chương 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. KHÁI NIỆM ĐẶC TRƯNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Theo Từ điển tiếng Việt năm 1994 của Nhà xuất bản Khoa học xã hội:
"đặc trưng là dấu hiệu đặc biệt".
Theo Đại Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản
Văn hóa thông tin năm 1998: danh từ, đặc trưng là nét riêng và tiêu biểu nhờ

đó để phân biệt các sự vật hiện tượng, ví dụ: đặc trưng các loại hình nghệ
thuật chèo. Tính từ đặc trưng có tính chất riêng khác và tiêu biểu.
Từ điển tiếng Việt năm 2002, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin: danh
từ, đặc trưng là cái có khả năng nêu bật những đặc điểm khác biệt, ví dụ: đặc
trưng của nền văn hóa dân tộc. Tính từ, có tính chất riêng biệt, tiêu biểu, làm
cho phân biệt với những sự vật khác.
Từ lâu nay, khi nói về đặc trưng chủ nghĩa xã hội người ta vẫn coi chủ
nghĩa xã hội có 5 đặc trưng cơ bản: Chế độ công hữu, phân phối theo lao
động, kinh tế kế hoạch; chuyên chính vô sản và tư tưởng chỉ đạo là chủ nghĩa
Mác - Lênin; có khi còn thêm: năng suất lao động cao hơn xã hội tư bản chủ
nghĩa và văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức đó là cố gắng đi từ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
cả kiến trúc thượng tầng, để vạch rõ tính quy định đặc thù của chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, trước đây người ta không phân biệt chặt chẽ đâu là đặc trưng,
đâu là bản chất, do đó, thường dùng khái niệm đặc trưng là bản chất không có
tính chất quy phạm; nó có thể hiểu là bản chất, cũng có thể hiểu là đặc trưng.
Trong triết học Mác - Lênin, chất là tính quy định tồn tại hiện hữu, là sự
thống nhất của các thuộc tính; chất mang đặc điểm trực quan của nhận thức trực


7

tiếp. "Chất" của sự vật lại được thể hiện trong quan hệ qua lại với các sự vật
khác. Cái "chất" được thể hiện đó, được gọi là thuộc tính. Người ta có lúc cũng
đơn giản gọi thuộc tính là đặc trưng. Như vậy, thuộc tính hoặc đặc trưng là sự
tồn tại đặc thù của một phương diện nào đó của chất, vì vậy, khi người ta nhận
thức sự vật, bao giờ cũng thông qua thuộc tính hoặc đặc trưng của sự vật để
nhận thức chất của sự vật, từ đó đại thể nhận biết sự vật là cái gì, không phải
là cái gì.
Tuy nhiên, nhận thức lý tính không thể dừng lại ở chỗ thông qua thuộc

tính hoặc đặc trưng để đại thể nhận biết sự vật là cái gì. Nhận thức lý tính còn
cần đi sâu vào mối liên hệ tất nhiên và căn cứ của những yếu tố nội tại chứng
tỏ sự vật đã sản sinh, tồn tại và phát triển như nó đã có; cũng có nghĩa phải đi
sâu vạch rõ bản chất của sự vật. Vì vậy, cần phân biệt chặt chẽ chất và bản chất.
Quá trình từ chỗ nhận thức sự biểu hiện về nhiều mặt của mối liên hệ giữa
chất và sự vật khác, kể cả thuộc tính và đặc trưng, cho đến chỗ đi sâu nhận
thức bản chất sự vật, đó là quá trình vận động ngày càng đi sâu của nhận thức.
Trước đây, người ta thường dùng khái niệm đặc trưng đồng nghĩa với
bản chất để hiểu sai rằng, đặc trưng chủ nghĩa xã hội là bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Ngày nay người ta đã dựa trên cơ sở nhận thức của mọi người
đối với đặc trưng chủ nghĩa xã hội, để đi sâu hơn, khái quát bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Quá trình đó thực tế là quá trình tư duy từ cụ thể đến trừu tượng.
Nó nói lên quá trình đi sâu nhận thức đối với chủ nghĩa xã hội trong lịch sử
phát triển của chủ nghĩa Mác.
Bản chất chủ nghĩa xã hội không đồng nghĩa với đặc trưng chủ nghĩa
xã hội. Bản chất sâu sắc hơn, căn bản hơn đặc trưng. Nó quyết định sự tồn tại,
biến đổi và phát triển của đặc trưng chủ nghĩa xã hội. Khái quát về bản chất
chủ nghĩa xã hội là sự trừu tượng đối với những biểu hiện cụ thể về chất của
chủ nghĩa xã hội. Nhưng bản thân bản chất chủ nghĩa xã hội không phải là cái
tồn tại được trừu tượng mà là nằm ở trong đặc trưng chủ nghĩa xã hội, và
được biểu hiện bằng đặc trưng chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng của chủ nghĩa xã


8

hội mang tính chất trực tiếp hơn, cụ thể hơn so với bản chất của chủ nghĩa xã
hội, nó thể hiện cụ thể của bản chất chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực; sự tồn
tại và thay đổi của đặc trưng xét đến cùng là tùy thuộc bản chất chủ nghĩa xã
hội và phục vụ bản chất đó. Từ góc độ nhận thức luận, có thể thấy quá trình từ
nhận thức đặc trưng trực quan của chủ nghĩa xã hội đến khái quát bản chất

chủ nghĩa xã hội, là quá trình "trừu tượng" của tư duy; còn quá trình từ khái
quát bản chất chủ nghĩa xã hội đến trở lại nhận thức đặc trưng hiện thực của
chủ nghĩa xã hội, là quá trình đi lên của tư duy từ "trừu tượng" đến cụ thể.
Một mặt, chúng ta dựa vào bản chất chủ nghĩa xã hội, tức dựa vào căn cứ
khách quan và yêu cầu nội tại, phát triển của chủ nghĩa xã hội để xem xét lại
những nhận thức trước đây đối với đặc trưng chủ nghĩa xã hội, kết hợp hiện
thực để hiểu sâu đặc trưng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, trên cơ sở cố gắng
thực hiện sự thống nhất một cách lịch sử cụ thể, bản chất và đặc trưng chủ
nghĩa xã hội, kết hợp việc giữ vững bản chất chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện
đặc trưng chủ nghĩa xã hội, từ đó, làm cho đặc trưng chủ nghĩa xã hội có thể
thể hiện tốt hơn bản chất chủ nghĩa xã hội.
Từ sự phân tích trên chúng tôi có thể đưa ra khái niệm đặc trưng chủ
nghĩa xã hội như sau: Đặc trưng chủ nghĩa xã hội là chỉ thuộc tính riêng, tiêu
biểu của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhờ đó có thể phân biệt chế độ xã hội
chủ nghĩa với các chế độ xã hội trước đó.
1.2. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Chủ nghĩa xã hội được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
xem xét với ba tư cách:
+ Chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa cộng sản) với tư cách là lý tưởng về
một xã hội công bằng tốt đẹp.
+ Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một học thuyết khoa học.


9

+ Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội.
Trong luận văn chỉ đề cập đến một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội
với tư cách là một chế độ xã hội. Cũng xin nói thêm rằng, khi đề cập đến chủ

nghĩa xã hội, đôi chỗ C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin dùng thuật ngữ "chủ
nghĩa cộng sản" để chỉ "chủ nghĩa xã hội".
Trước hết, để trả lời câu hỏi: "Chủ nghĩa xã hội là gì?", C.Mác viết:
"Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải
sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng
ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái
hiện nay" [37, tr. 51].
Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng, không
ngừng, là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai
đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những sự khác biệt giai cấp
nói chung, xóa bỏ tất cả những quan hệ sản xuất làm cơ sở cho sự
khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ thích ứng với những
quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư tưởng nẩy
sinh ra từ những quan hệ xã hội đó [39, tr. 126].
Theo C.Mác, đó không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát
triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ
nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi
phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã
hội cũ mà nó lọt lòng ra.
Từ quan điểm trên của C.Mác, có thể rút ra ba nhận xét:
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội hiện thực có đặc trưng là xóa bỏ sở
hữu tư sản nhằm giải phóng con người.
- Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ tình
trạng xã hội phân chia thành giai cấp.


10

- Chủ nghĩa xã hội được sinh ra từ xã hội cũ, do đó bên cạnh tính ưu
việt của xã hội mới so với xã hội cũ (lực lượng sản xuất phát triển cao hơn

chủ nghĩa tư bản, tư liệu sản xuất thuộc về toàn xã hội, không có tình trạng
người bóc lột người), nhưng vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng về của cải xã
hội...
Tiếp tục trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển
cao hơn, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản, trước hết căn cứ vào trình độ và nhịp
độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội của chủ nghĩa xã hội hơn hẳn so
với chủ nghĩa tư bản. C.Mác đã khẳng định: "Sự phát triển ấy của những lực
lượng sản xuất…là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì tất
cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn" [37, tr. 49]. Theo luận điểm này, nếu không có sự
tăng trưởng cao hơn của lực lượng sản xuất (trong xã hội chủ nghĩa) thì không
thể nói tới việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917), nước Nga Xô viết bắt
tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin tiếp tục làm rõ thêm
"chủ nghĩa xã hội là gì?". Ông viết: "Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của
những sắc lệnh từ trên ban xuống. Tính chất máy móc hành chính và quan
liêu không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội
sinh động, sáng tạo, là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân" [30, tr.
64]; Và theo ông, chủ nghĩa cộng sản (chúng ta hiểu là chủ nghĩa xã hội) là
chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc.
Từ những luận điểm trên của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, chúng
tôi có thể khái quát lên một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc
trưng chủ nghĩa xã hội.
1.2.1. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu


11

C.Mác và Ph.Ăngnghen quan niệm rằng, mọi cuộc cách mạng xã hội

nhằm lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ mới bao giờ cũng phải "đưa vấn đề
chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể
là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào" [38, tr. 646]. Các ông giải thích
rằng, thủ tiêu chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về
việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội. Kết luận mà các ông đưa lại là: những
người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành
yêu cầu chủ yếu của mình; rằng những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận
của mình thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu.
Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nói rõ thêm: "Đặc trưng của chủ
nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế
độ sở hữu tư sản" [38, tr. 615]; "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái
khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước
bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác" [38, tr.
618]. Rõ ràng là, đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản (bao hàm trong nó chủ
nghĩa xã hội) không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế
độ sở hữu tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, xóa bỏ tư hữu là
xóa bỏ tư hữu tư bản vì nó là nguồn gốc đẻ ra mọi áp bức bóc lột và bất bình
đẳng. Đấy là vấn đề nguyên tắc rút ra từ thực tiễn. Tuy nhiên, các ông cũng
không có tư tưởng cực đoan trong vấn đề này, trong "Nguyên lý chủ nghĩa
cộng sản" đã nêu lên tư tưởng, việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải là một quá
trình lâu dài, có từng bước từ thấp đến cao dưới nhiều hình thức nếu không
muốn đảo lộn sản xuất.
Kế thừa những tư tưởng đó của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã
nhận thấy tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và
khẳng định: chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của
mọi công dân mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở hữu của các địa chủ và tư bản.
Ông coi đó là điều cốt yếu. Các nhà kinh điển từ C.Mác, Ph.Ăngghen và


12


V.I.Lênin đều khẳng định cuối cùng việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Các ông đều quan niệm rằng, việc
thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ mang lại cho xã hội một loạt
hệ quả mà trước hết là tạo ra cho nó khả năng điều tiết một cách có kế hoạch
nền sản xuất xã hội và tạo điều kiện để xoá bỏ sản xuất hàng hoá.
Khi chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với nền sản xuất đại cơ khí đã bị
công hữu hóa, do xã hội làm chủ thì sẽ không còn hiện tượng do chạy theo lợi
nhuận mà làm cho sản xuất rơi vào tự phát gây ra khủng hoảng kinh tế.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen
nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những
quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có
thể bóc lột những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ
không phải xem xét trên cả một chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột giai cấp,
tầng lớp khác. Chính V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích sau một thời gian áp dụng
"Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng thu lương thực... do yêu cầu phục vụ
chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ chính sách này khi nước Nga bước
vào thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện "chính
sách kinh tế mới" (NEP) với kinh tế hàng hóa 5 thành phần và tự do lưu thông
hàng hóa trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của
thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội. Việc xóa bỏ một cách nóng vội
những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối
thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm của V.I.Lênin
về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản
xuất công nghiệp hiện đại


13


Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi chế độ xã hội
đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng, phản ánh trình độ phát triển
kinh tế - kỹ thuật của nó. Đó là sự phản ánh trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất bao gồm một tổng hợp những sự biến đổi và phát triển của công cụ
và kỹ thuật sản xuất, của phân công lao động xã hội (chuyên môn hóa, xã hội
hóa) và năng lực thực tiễn của con người trong quá trình lao động sản xuất.
Theo đó, cơ sở vật chất của một chế độ xã hội được tạo lập từ sự phát triển
khoa học, kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phát triển con người của xã hội
do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử xác định.
Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của
các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Cuộc cách mạng kỹ thuật mà giai cấp tư
sản thực hiện ở thế kỷ XVIII đã chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ thủ
công lên trình độ cơ khí, đánh dấu một bước nhảy vọt lớn của sản xuất xã hội,
tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội
là xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Vào các thế kỷ XVIII - XIX,
chủ nghĩa tư bản chiếm địa vị thống trị và chi phối ở nhiều nước, nó thâu tóm
cả nền tiểu sản xuất, làm phá sản nhiều tầng lớp dân cư, do đó quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành cái hình thức chật hẹp và trở thành xiềng
xích đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã xã hội hóa rộng lớn. Vì
thế, xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập sở hữu xã hội chủ nghĩa
để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội trở thành một yêu
cầu khách quan. Tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và sự xuất hiện chế
độ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ căn nguyên sâu xa đó của sự phát triển lực
lượng sản xuất. Xã hội chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa sinh thành với tính cách là sự phủ định biện chứng đối với chủ nghĩa tư
bản. Như vậy, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội phải là nền đại công nghiệp
cơ khí phát triển và hoàn thiện trên một trình độ cao hơn.



14

Cũng như C.Mác và Ph.Ăngghen, ngay sau Cách mạng tháng Mười
thành công, dù nước Nga mới phát triển trung bình và còn là nhà tù của các
dân tộc, nhưng ý thức rất rõ vai trò cơ sở vật chất - kỹ thuật đối với sự phát
triển xã hội, V.I.Lênin đã sớm nhận thức chức năng nền tảng của nền đại công
nghiệp cơ khí đối với chủ nghĩa xã hội. Ông đánh giá rất cao những thành tựu
của chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt những thành tựu
công nghiệp của Đức và Mỹ. Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến vai trò điện lực
đối với công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới. Ông coi điện lực là cơ sở kỹ
thuật mới cho công cuộc xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa. Chính vì vậy,
V.I.Lênin đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng: "Chủ nghĩa cộng sản là chính
quyền Xôviết cộng với điện khí hóa toàn quốc" [32, tr. 195].
Như vậy, ngoài yếu tố là chính quyền Xôviết, thì chủ nghĩa xã hội
theo V.I.Lênin phải thỏa mãn một điều kiện nữa: đó là điện khí hóa toàn quốc,
có nghĩa là thiết lập được nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại. Khẳng định vai trò
của nền đại công nghiệp là cơ sở của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: "Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể là nền đại công nghiệp... một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật
hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp, đó là điện khí hóa cả nước" [34,
tr. 11].
Vào thời V.I.Lênin, điện khí hóa toàn quốc là trình độ phát triển rất
cao của đại công nghiệp mà chưa có nước nào trên thế giới đạt tới. Nhưng
ngày nay, thế giới đã có những biến chuyển to lớn và đã phát triển ở trình độ
cao hơn nhiều so với yêu cầu điện khí hóa toàn quốc như V.I.Lênin đã hình
dung. Đó là điều bình thường và cũng hợp với lẽ tự nhiên của tiến trình phát
triển. Vấn đề là ở chỗ, tư tưởng nêu trên của các nhà kinh điển về cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục soi sáng cho chúng ta đi tới

quan niệm đúng đắn rằng, chủ nghĩa xã hội nhất định phải là một xã hội phát
triển hiện đại với khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Chỉ có cơ sở vật


15

chất kỹ thuật như thế, chủ nghĩa xã hội mới có thể phát triển mạnh mẽ về kinh
tế và văn hóa, mới thể hiện được bản chất ưu việt của mình.
1.2.3. Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xóa bỏ sản xuất
hàng hóa
(Quan niệm này về sau đã được điều chỉnh với chính sách kinh tế mới
của V.I.Lênin).
Theo quan niệm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học
thì việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa thiết lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất sẽ dẫn tới việc thủ tiêu, xoá bỏ sản xuất hàng hoá. Tư tưởng
về thủ tiêu sản xuất hàng hóa đã được Ph.Ăngghen trình bày một cách rõ ràng
trong tác phẩm Chống Đuyrinh. Ông giải thích rằng, do xóa bỏ chế độ tư hữu
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, sản xuất được tiến hành theo một kế
hoạch chung, không còn cơ sở để sản xuất hàng hóa, cho nên không tồn tại
sản xuất hàng hóa. Tư tưởng này được rút ra một cách hợp lôgíc đối với nền
sản xuất thuần túy tư bản chủ nghĩa được trừu tượng hóa cao độ.
Trong "Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản" Nga, tháng 2 năm 1919,
V.I.Lênin cho rằng, nhà nước phải kiên quyết thay thế việc buôn bán bằng chế
độ phân phối sản phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên quy mô toàn
quốc, thực hiện những biện pháp triệt để nhằm chuẩn bị cho việc thủ tiêu tiền
tệ,... Quan điểm này của V.I.Lênin về tính phi hàng hóa của nền kinh tế, về vai
trò ngày càng giảm đi của tiền tệ trong chủ nghĩa xã hội một phần là do, như
V.I.Lênin nói: "Cho đến nay, chúng ta vẫn phải sống trong những điều kiện
chiến tranh ác liệt và gay go chưa từng thấy, đến nỗi cả trong lĩnh vực kinh tế,
chúng ta không còn cách nào khác ngoài cách hành động theo lối quân sự"

[33, tr. 76].
Sau khi tự phê phán một cách nghiêm khắc những sai lầm mắc phải
trong quá trình cải tạo nền kinh tế trong thời kỳ cộng sản thời chiến, V.I.Lênin đã


16

kiên quyết chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP). Tinh thần căn bản của
(NEP) do chính V.I.Lênin khởi xướng là chú trọng giải phóng mọi tiềm năng của
sản xuất xã hội, coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực và đòn bẩy
kích thích sản xuất phát triển, do đó, cần thiết phải thực hiện những biện pháp
mở rộng thị trường, khai thông những ách tắc trong lưu thông, phân phối, trao
đổi sản phẩm hàng hóa trên thị trường để khắc phục sự trì trệ, tạo ra sự năng
động trong sản xuất, kinh doanh vì lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng
cũng như lợi ích chung của xã hội. Trong nội dung của NEP còn bao hàm cả tư
tưởng sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để kiến thiết chủ nghĩa xã hội, đi
xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tới chủ nghĩa xã hội; đồng thời chủ nghĩa
xã hội là một xã hội của những người lao động hợp tác văn minh. Đây là những
quan niệm lý luận mang ý nghĩa cách tân lớn về chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin.
Tư duy về kinh tế hàng hóa, về giá trị, về thị trường và cạnh tranh nhằm tạo ra và
khai thác các động lực bên trong (các nội lực) của chủ nghĩa xã hội làm cho chủ
nghĩa xã hội thực sự sống động trong đời sống thực tiễn, nhất là thực tiễn sản
xuất - kinh tế là nét chủ đạo của NEP và nó còn có giá trị và ý nghĩa cho tới
ngày nay.
1.2.4. Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động, kỷ luật lao
động mới và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
Sau khi người lao động được thoát khỏi áp bức giai cấp và nô dịch dân
tộc, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng công việc tổ chức
lao động và kỷ luật lao động mới trong sự nghiệp kiến thiết chế độ mới xã hội
chủ nghĩa, chống lại tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ và

xây dựng thái độ lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao
động.
Các ông cho rằng, chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật lao động
nghiêm ngặt mới dẫn chúng ta tới chủ nghĩa xã hội.


17

Trong vấn đề này, các nhà kinh điển, nhất là V.I.Lênin đã nhấn mạnh
cần phải tiếp thu những kinh nghiệm hay trong lao động và quản lý sản xuất
dưới chủ nghĩa tư bản. Chẳng hạn, phương pháp Taylo ở Mỹ nhằm nâng cao
năng suất và hiệu quả vì lợi ích của xã hội. Như vậy, để có được cách thức tổ
chức quản lý mới, cần phải nghiên cứu và tiếp thu những tiến bộ mới nhất của
chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin khẳng định, điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn
của chủ nghĩa xã hội chính là ở chỗ, giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được
kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Nếu kỷ luật của
chế độ nô lệ và phong kiến là kỷ luật roi vọt, kỷ luật của chủ nghĩa tư bản là
kỷ luật đói, thì kỷ luật của chủ nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác.
Kỷ luật tự giác và tự nguyện trong lao động của đông đảo quần chúng
là nguồn sức mạnh, là điều kiện bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn của chủ
nghĩa xã hội. Nó là sản phẩm tất yếu của việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, của việc điều hành
nền sản xuất xã hội theo một kế hoạch chung, thống nhất lợi ích chung của
toàn xã hội. Nó cũng đồng thời là kết quả của giáo dục, rèn luyện lâu dài,
công phu trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng cộng sản, Nhà
nước xã hội chủ nghĩa tiến hành đối với đông đảo quần chúng lao động được
giải phóng và trở thành người chủ xã hội mới. Nhờ chất lượng của kỷ luật lao
động mới bắt nguồn từ lợi ích thiết thân của người lao động, chủ nghĩa xã hội
mới có thể tạo ra được năng suất lao động xã hội cao hơn gấp bội so với chủ
nghĩa tư bản. Lẽ dĩ nhiên, đạt tới mục tiêu đó là cả một quá trình lịch sử lâu dài,

tiến lên từng bước, vừa dựa vào tiến bộ kỹ thuật, vừa dựa vào ý thức người lao
động, vừa dựa vào cơ chế quản lý và chính sách ngày càng hoàn thiện, qua đó
vừa cải tạo triệt để xã hội cũ, vừa từng bước xây dựng và hoàn thiện chế độ xã
hội mới.
Khi bàn về phân phối, C.Mác vạch rõ: trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu
dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội.


18

Phân phối theo lao động không có nghĩa là được hưởng hết bấy nhiêu. Trái
lại, tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân phối cho cả
tiêu dùng cá nhân, cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cả tiêu dùng công
cộng của xã hội. Những phần không phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân
của người lao động thì vẫn thuộc về họ, vẫn nhằm bảo đảm lợi ích cơ bản, lâu
dài, chung cho mọi thành viên trong xã hội.
Nguyên tắc phân phối theo lao động buộc mọi người có sức lao động
phải lao động. Nguyên tắc này thể hiện sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà
vẫn còn chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định
giữa các thành viên trong xã hội. Mặc dù vậy, đây vẫn là cách phân phối thích
hợp nhất. Sở dĩ như vậy là vì, trong chủ nghĩa xã hội của cải làm ra chưa đạt
tới mức thật dồi dào, lao động còn là nghĩa vụ, chứ chưa trở thành nhu cầu
bậc nhất của đời sống như dưới chủ nghĩa cộng sản.
1.2.5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân,
với nền dân chủ vô sản, dân chủ kiểu mới, dân chủ với nhân dân lao động
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng đề cập tới khái
niệm chuyên chính vô sản khi xác định bản chất, chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước kiểu mới, nhà nước được xác lập trong thắng lợi của cuộc cách mạng xã

hội giành chính quyền của giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói đến
nhà nước thực hiện chức năng của chuyên chính vô sản trong những điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử xác định của thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản tới xã hội cộng
sản.
Thực chất của chuyên chính vô sản là nhằm xác lập, bảo vệ và phát
triển nền dân chủ vô sản (hay nền dân chủ xã hội chủ nghĩa) để đem lại quyền
lực dân chủ, trước hết là dân chủ cho đông đảo quần chúng lao động. Do đó,
nó tất yếu phải thực hiện trấn áp đối với các thế lực phản cách mạng đi ngược
lại lợi ích của quần chúng lao động và của cả xã hội. Nhà nước cách mạng ấy


19

còn là công cụ để quần chúng nhân dân thể hiện và thực hiện sức mạnh sáng
tạo của mình trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước.
V.I.Lênin làm sáng tỏ thêm nhiều phương diện cụ thể thuộc về bản
chất và chức năng của nhà nước đó. Ông nhấn mạnh rằng, đó là nhà nước
kiểu mới, nhà nước nửa nhà nước, nhà nước không còn hoàn toàn theo nghĩa
đen của nó nữa.
Sự khác biệt về nguyên tắc, về bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
so với tất cả các nhà nước đã có trong lịch sử, kể cả nhà nước tư sản mà nó
trực tiếp phủ định là ở chỗ, trấn áp bằng bạo lực tuy vẫn là một chức năng nhà
nước có tính phổ biến đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng chức năng
này không còn là chủ yếu và cũng không phải là duy nhất. Nó hướng chủ yếu
vào lĩnh vực tổ chức và xây dựng xã hội mới, làm cho chủ nghĩa xã hội tỏ rõ
tính ưu việt của nó bởi tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đây mới
là mặt chủ yếu, là bản chất quan trọng nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo V.I.Lênin, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi thực hiện chức
năng của chuyên chính vô sản nó hướng trọng tâm vào các lĩnh vực tổ chức,
xây dựng chế độ xã hội mới.

Chế độ nhà nước đó chính là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, một
nền dân chủ lần đầu tiên trong lịch sử hướng tới thực hiện và bảo vệ dân chủ
cho đa số, dân chủ cho đông đảo quần chúng lao động.
1.2.6. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con người
thoát khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội
Là những người sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu tiên trong
lịch sử loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại lời giải đáp có cơ sở khoa
học về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Đề cập tới đặc trưng tiêu
biểu nhất của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, ngay từ năm 1844, C.Mác
đã viết:


20

Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích
cực chế độ tư hữu - sự tha hóa ấy của con người - và do đó với tính
cách là sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con
người và vì con người, do đó với tính cách là việc con người hoàn
toàn quay trở lại chính mình với tính cách là con người xã hội,
nghĩa là có tính chất người [41, tr. 167].
Tư tưởng xem mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa cộng sản
là giải phóng con người được phát triển đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn trong các
tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" và về sau, trong một loạt tác phẩm
khác. Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
"Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó,
xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mọi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [38, tr. 628].
Kế thừa và phát triển hơn nữa những dự đoán của C.Mác và Ph.Ăngghen
về đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai, ngay từ năm 1895, trong những tác
phẩm lý luận đầu tiên của mình, V.I.Lênin đã khẳng định rằng:

Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp
những nhà tư bản là một cuộc đấu tranh chống tất cả các giai cấp
sống bám vào lao động của người khác và chống mọi ách bóc lột.
Cuộc đấu tranh này chỉ có thể chấm dứt, khi chính quyền chuyển
vào tay giai cấp công nhân, khi tất cả ruộng đất, công cụ lao động,
công xưởng, máy móc và hầm mỏ đã được trao lại cho toàn thể xã
hội để tổ chức nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, là nền sản xuất trong
đó tất cả những gì do công nhân sản xuất ra và tất cả những sự cải
tiến trong sản xuất đều phải làm lợi cho bản thân người lao động
[29, tr. 98].


21

Song, con đường đi tới giải phóng con người lại diễn ra một cách biện
chứng, nó trải qua nhiều bước quá độ khác nhau. Trên con đường biện chứng đó,
ở một giai đoạn nhất định, trong những điều kiện nhất định, một bộ phận giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lại cần biết chấp nhận những bước vòng như là
một điều kiện để rút ngắn khoảng cách tới đích, làm cho yêu cầu giải phóng
con người được thực hiện thuận lợi hơn. Khi đề ra chính sách kinh tế mới,
V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của những bước vòng đó.
Như vậy, với việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất và với việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, tiến tới một xã hội
không còn giai cấp, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sẽ xóa bỏ cái tai
họa lớn nhất của loài người là tình trạng người bóc lột người. Sự thay thế
nhau của các xã hội trước chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là sự thay thế của
hình thức áp bức, bóc lột này bằng hình thức áp bức, bóc lột khác. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có khả năng giải phóng con người khỏi các hình thức áp bức
và bóc lột đó. Việc xóa bỏ tình trạng người bóc lột người sẽ góp phần giải
phóng con người khỏi các tai họa khác như sự nô dịch, áp bức dân tộc; góp

phần tạo ra sự bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen coi việc xây dựng xã hội công bằng và bình
đẳng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó vừa phản ánh bản chất của
chủ nghĩa xã hội, xu thế phát triển của lịch sử, vừa thể hiện được khát vọng
bao đời của quần chúng lao động. Khi đưa ra quan niệm của mình về chủ
nghĩa xã hội, các ông quan niệm rằng, công bằng và bình đẳng là những chân
giá trị của xã hội chủ nghĩa và nó phải trở thành hiện thực trong cuộc sống
của nhân dân lao động, đem lại tự do và hạnh phúc cho người lao động.
Các ông khẳng định rằng, bình đẳng là cơ sở, là căn cứ chính trị và là
một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, với
cách nhìn duy vật biện chứng về sự phát triển của lịch sử, với quan điểm lịch


22

sử cụ thể áp dụng vào việc phân tích trình độ phát triển hiện thực của chủ
nghĩa xã hội, các ông đã làm sáng tỏ một nhận thức khoa học là, dưới chủ
nghĩa xã hội, bình đẳng không có nghĩa là ngang bằng nhau về mọi phương
diện, vì con người trong xã hội không có điều kiện như nhau, thí dụ người
khỏe, người yếu, người trẻ, người già, người có ít con, người có đông con,
người lao động chân tay, người lao động trí óc, v.v.. do đó đóng góp của mỗi
người cho xã hội cũng khác nhau và nhu cầu của mỗi người cũng khác nhau.
Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được sự bình đẳng về
mọi mặt, đặc biệt là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của các cá nhân. Theo
V.I.Lênin, nói tới bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội thì cần hiểu rằng, đó là sự
bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Chủ nghĩa xã hội
chưa thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn về mọi phương diện, vì dưới
chủ nghĩa xã hội vẫn phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, vẫn
còn sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động
chân tay và lao động trí óc. Những khác biệt đó cho thấy còn tồn tại những

bất bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội. Cho nên, trong chủ nghĩa xã hội do còn
sự phát triển chưa cao của lực lượng sản xuất và sự không đều về nhiều mặt
giữa con người nên bình đẳng ở đây chỉ là định hướng và thể hiện trong một
số mặt vẫn còn bất bình đẳng. Những bất bình đẳng này sẽ dần dần được khắc
phục trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Những đặc trưng cơ bản nói trên của chủ nghĩa xã hội là những phán
đoán khoa học đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu lên trên cơ sở phân tích
những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu
phát triển nhất vào cuối thế kỷ XIX mà đặc trưng của nó là chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh. Qua những nội dung cơ bản trên cho ta thấy, C.Mác và
Ph.Ăngghen mới chỉ vạch ra những phương hướng phát triển chủ yếu của chủ


23

nghĩa xã hội nhằm khẳng định tính ưu việt của nó so với chủ nghĩa tư bản.
Với sự vận động của lịch sử, với thành tựu khoa học công nghệ của loài
người, với kinh nghiệm của thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã qua và
hiện nay, trong những luận điểm đó, có điểm ngày nay đã được nhận thức lại
cho phù hợp với thực tế. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen, để tránh cho những
người đi sau không rơi vào dập khuôn, giáo điều, ngay trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, trước khi nêu lên 10 biện pháp xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa có thể áp dụng khá phổ biến ở các nước tiên tiến nhất, hai ông đã căn
dặn: "Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác
nhau rất nhiều" [38, tr. 627].
Đến V.I.Lênin, người đã phát triển về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
mới: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc. V.I.Lênin đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản bấy giờ: mâu thuẫn giữa giai cấp

vô sản với tư sản, xuất hiện mâu thuẫn mới ngày càng gay gắt giữa dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đồng thời, đã phát hiện ra quy luật
phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, khẳng định cách mạng có thể
thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước. V.I.Lênin là người trực tiếp
lãnh đạo Cách mạng tháng Mười và xúc tiến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga. Như vậy, đến V.I.Lênin, chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở
thành hiện thực. Ông là người đóng góp vào việc bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác trong thời kỳ quá độ, về giai đoạn thấp và giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản, qua đó làm rõ thêm những đặc trưng chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng chủ nghĩa xã hội nêu trên của các nhà kinh điển Mác
- Lênin là bộ khung tư tưởng quan trọng về chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của
những người mácxít là trên cơ sở tư tưởng của các ông về những đặc trưng
chủ nghĩa xã hội để bổ sung và phát triển nó trong những điều kiện lịch sử
mới. Những dân tộc đi theo con đường phát triển của chủ nghĩa xã hội cần căn
cứ vào sự phát triển của thực tiễn thế giới, trong nước để đổi mới, bổ sung,


24

phát triển, phù hợp với hiện thực khách quan. Với sự nghiệp cách mạng của
nước ta, học thuyết Mác - Lênin và lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ
trường tồn, vì nó là cái "cẩm nang" thần kỳ, là ngọn hải đăng soi đường cho
các dân tộc trên thế giới phá tan xiềng xích của chủ nghĩa thực dân, đế quốc,
để đi đến độc lập, tự do và hạnh phúc. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý
luận quyết định bước phát triển về chất trong sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng Việt Nam, vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


25


Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. CÁCH TIẾP CẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA HỒ CHÍ MINH

2.1.1. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ giá trị tư tưởng, văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam
Truyền thống tư tưởng, văn hóa của dân tộc Việt Nam thấm vào Hồ
Chí Minh một cách tự nhiên và càng thấm sâu hơn, nhuần nhuyễn hơn, sinh
động hơn khi Hồ Chí Minh tự giác, chủ động chọn lọc và tiếp thu các giá trị
truyền thống của dân tộc. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã chú ý đến các giá trị tư tưởng, văn hóa
truyền thống của dân tộc, coi đó là nhân tố đặc biệt quan trọng làm nên sức
mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Người nói:
Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam [47, tr. 221]
"Sử ta" là lịch sử của dân tộc ta, là quá trình dân tộc ta hình thành và
phát triển, là các giá trị tư tưởng, văn hóa truyền thống kết tinh và củng cố
trong quá trình ấy.
Trong các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đặc
biệt chú ý đến chủ nghĩa yêu nước. Người viết: "Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" [50, tr. 171].



×