Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Giải pháp xoá đói giảm nghèo tại huyện cam lộ, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.63 KB, 117 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tài liệu sử dụng trong luận văn trích dẫn từ các nguồn đã được
công bố. Kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn trích rõ
ràng.

Tác giả luận văn

HOÀNG THỊ HOÀI AN


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI .................................................................... 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................ 2
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .................................................. 2
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................... 2
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI........................................................................................... 3

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO................................................. 4
1.1.1. Khái niệm và chuẩn đói nghèo............................................................ 4
1.1.2. Tác động của đói nghèo tới sự phát triển .......................................... 15
1.2. NỘI DUNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO .................................................. 17
1.2.1. Khái niệm về xóa đói giảm nghèo .................................................... 17
1.2.2. Nội dung của xóa đói giảm nghèo...................................................... 18


1.2.3. Các tiêu chí đánh giá kết quả công tác xóa đói giảm nghèo .............. 21
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGHÈO ĐÓI VÀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO ......................................................................................... 23
1.3.1. Nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội làm gia tăng nguy cơ nghèo đói........................ 24
1.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế không thuận lợi................................ 24
1.3.3. Nhóm nhân tố thuộc về xã hội .......................................................... 27
1.3.4. Nhóm nhân tố thuộc đường lối, chính sách Đảng và Nhà nước......... 30
1.3.5. Nhóm nhân tố thuộc về bản thân người nghèo, vùng nghèo.............. 32


1.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TRONG
NƯỚC VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO HUYỆN CAM LỘ, TỈNH
QUẢNG TRỊ ............................................................................................. 33
1.4.1. Một số kinh nghiệm trong nước về xóa đói giảm nghèo.................... 33
1.4.2. Những bài học rút ra đối với huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trong
xóa đói giảm nghèo .......................................................................... 36

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA
HUYỆN CÓ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGHÈO ĐÓI VÀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO ......................................................................................... 38
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................ 38
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội................................................................... 40
2.2. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO TẠI HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ........................... 47
2.2.1 Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo tại huyện Cam Lộ,
tỉnh Quảng Trị.................................................................................. 47

2.2.2 Thực trạng công tác xóa đói giảm ghèo tại huyện Cam Lộ,
tỉnh Quảng Trị.................................................................................. 54
2.3. KẾT QUẢ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA HUYỆN
CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ THỜI GIAN QUA................................. 60
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG................................................................................. 66


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TẠI HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ
3.1. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO........................ 71
3.1.1. Bối cảnh thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới. 71
3.1.2. Mục tiêu xóa đói giảm nghèo............................................................ 72
3.1.3. Nhiệm vụ chủ yếu công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới.. 73
3.2. GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN CAM LỘ,
TỈNH QUẢNG TRỊ .................................................................................. 74
3.2.1. Nhóm giải pháp tạo môi trường thuận lợi cho người nghèo .............. 74
3.2.2. Nhóm giải pháp tác động đến vùng nghèo ........................................ 80
3.2.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo............................. 97
3.2.4. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện 104
3.3. DỰ KIẾN KẾT QUẢ............................................................................... 107

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DTTS

Dân tộc thiểu số

ĐBKK

Đặc biệt khó khăn

ESCAP

Uỷ ban Kinh tế - xã hội châu Á - Thái Bình Dương

HDI

Chỉ số phát triển con người

KT-XH

Kinh tế - xã hội

LĐ-TB&XH

Lao động, thương binh và xã hội

TW

Trung ương


UBND

Ủy ban nhân dân

UNDP

Chương trình phát triển Liên hợp quốc

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Quy định về chuẩn nghèo đói theo chuẩn quốc gia

13


2.1

2.2

2.3

2.4

Một số chỉ số về điều kiện sống của huyện
Cam Lộ năm 2010
Phân bổ giá trị sản xuất theo lĩnh vực kinh tế
của huyện Cam Lộ 2006 - 2010
Cơ cấu nông nghiệp của huyện Cam Lộ
giai đoạn 2006 - 2010
Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo ở huyện Cam Lộ,
tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006 - 2010
Phân loại các thôn nghèo tại huyện Cam Lộ,

2.5

2.6
2.7
3.1

tỉnh Quảng Trị năm 2010
Số liệu cho vay hộ nghèo và các đối tượng
chính sách tại Cam Lộ qua 5 năm 2006 - 2010
Tỷ lệ nhập học của học sinh theo các cấp học
Dự kiến kế hoạch giảm nghèo hàng năm trong

giai đoạn 2011 - 2015

42

43

43

48

52

57
59
107


-1-

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây,
nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có
những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006 nước ta đã
chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO.
Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ
phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận
không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu
cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như
ăn, ở, mặc, đi lại ... Chính vì vậy, sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng

diễn ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của những nước có
nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà đối với nước ta khi nền kinh tế đang có sự
chuyển mình thì vấn đề phân hoá giàu nghèo càng được chú trọng hàng đầu. Để
có thể hoàn thành mục tiêu quốc gia là xóa đói giảm nghèo thì trước tiên phải rút
ngắn sự phân hoá giàu nghèo. Đây không chỉ là nhiệm vụ của bộ máy lãnh đạo
mà còn là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân.
Do vậy, đói nghèo đang là vấn đề mà toàn xã hội và các nước trên thế giới
quan tâm để tìm ra giải pháp nhằm hạn chế và tiến tới xóa bỏ nạn đói nghèo trên
phạm vi toàn thế giới. Xóa đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội
cơ bản hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ
tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để cho người
nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự
vươn lên thoát khỏi nghèo đói.
Trong xu thế đất nước hội nhập, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã và
đang chú trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với việc thực hiện xóa đói
giảm nghèo. Xóa đói giảm nghèo ở Cam Lộ đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong những năm qua. Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo ở huyện Cam Lộ vẫn


-2còn rất nghiêm trọng và công tác xóa đói giảm nghèo ở huyện Cam Lộ vẫn còn
nhiều vấn đề tồn tại và đối mặt với nhiều khó khăn trong tình hình mới .
Là một người con sinh ra ở huyện Cam Lộ, Tinh Quảng Trị, em rất thấu
hiểu những cảnh nghèo, đói mà người dân nơi đây đã, đang và sẽ đối mặt. Chính
vì thế, em chọn đề tài tốt nghiệp của mình là : “Giải pháp xóa đói giảm nghèo
tại Huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị”, với mong muốn sẽ đóng góp cho huyện
nhà những giải pháp xóa đói giảm nghèo phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương. Qua đó, góp phần nào đó giảm nhanh nghèo đói và nâng cao đời sống
cho bà con, nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khái quát hóa các vấn đề lý luận về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo,

đánh giá thực trạng, nguyên nhân đói nghèo và thực trạng công tác xoá đói giảm
nghèo tại Huyện Cam Lộ, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm góp phần
xóa đói giảm nghèo tại huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị trong thời gian tới.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
+ Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề nghèo đói và XĐGN.
+ Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình nghèo đói và
XĐGN trên địa bàn huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Việc phân tích thực trạng nghèo
đói và XĐGN chủ yếu từ 2005 đến nay. Các đề xuất giải pháp về XĐGN dự kiến
đến năm 2015 là chủ yếu.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để xem xét vấn đề nghèo đói và XĐGN một cách khách quan, khoa học và sát
thực tiễn, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nghèo đói và XĐGN, vấn đề dân tộc.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và xã hội học như: Phương pháp
thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, điều tra, tổng kết thực tiễn ... để đánh giá


-3và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương:
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đói nghèo và xóa đói
giảm nghèo
 Chương 2: Thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo tại
huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị
 Chương 3: Giải pháp xóa đói giảm nghèo tại huyện Cam Lộ,
tỉnh Quảng Trị



-4-

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
1.1.1. Khái niệm và chuẩn đói nghèo
Ngày nay, đói nghèo đang trở thành một vấn đề cấp bách của nhiều quốc
gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Muốn thực hiện phát triển xã hội bền
vững không thể không giải quyết vấn đề đói nghèo.
Nghèo đói đã, đang diễn ra trên quy mô lớn và hậu quả của nó tác động
đến mọi vấn đề trong đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, xã hội và môi
trường sinh thái. Nó có ảnh hưởng không chỉ đối với các quốc gia nghèo mà còn
có nguy cơ lan rộng và tác động toàn cầu như tàn phá môi trường sinh thái, vấn
đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực xã hội lan rộng v.v...Vì vậy, sự nghiệp chống
nghèo đói không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển.
Để giải quyết vấn đề nghèo đói cần thiết phải có quan niệm đúng về nghèo đói.
Tại khóa họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển XH, tháng
6 năm 2000 tại Genever - Thụy Sỹ, các thành viên đã thống nhất cam kết, phấn
đấu giảm một nữa số người nghèo trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc
tế đẩy mạnh chiến dịch "Tấn công vào nghèo đói" và khuyến nghị các quốc gia
cần có chiến lược toàn diện về XĐGN. Tại Hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9
năm 2000, Liên Hợp Quốc, một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một
trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI
[27, tr. 3]. Tuy nhiên, quá trình thực hiện XĐGN ở mỗi quốc gia có cách làm và
giải pháp khác nhau. Đó là do ở mỗi quốc gia có trình độ phát triển KT-XH, điều
kiện địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị khác nhau nên khả năng đáp
ứng các nhu cầu hưởng thụ vật chất, tinh thần cho dân chúng cũng khác nhau. Ngay
trong một quốc gia thì ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử thì khả năng đáp ứng các nhu

cầu trên cho dân chúng cũng không giống nhau. Điều đó dẫn đến quan niệm về


-5nghèo đói và giải pháp XĐGN của các quốc gia có sự khác nhau.
Trên thế giới vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như:
nghèo về văn hoá, nghèo về tri thức, nghèo về kinh tế … Dưới góc độ kinh tế, nghèo
cũng được xem xét với các lát cắt khác nhau như: nghèo về lương thực thực phẩm,
nghèo về điều kiện sinh hoạt, nghèo trong mối quan hệ với giàu, nghèo trong việc
bị hạn chế tiếp cận các nguồn lực phát triển; nghèo trong việc khó tiếp cận được thị
trường ... Vậy nghèo được hiểu như thế nào?
Abapiasen - chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho
rằng: nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng
[27, tr. 4].
UNDP đã đưa ra những định nghĩa về nghèo[17, tr. 27] như sau:
- Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người
như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.
- Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng
chi tiêu tối thiểu.
- Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương
thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này
hay nước khác.
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan), các quốc gia trong
khu vực đã thống nhất cho rằng: "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được
XH thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán của
từng địa phương” [12, tr. 8]. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ và bao quát nên
có thể coi đây là định nghĩa chung nhất và có tính hướng dẫn về phương pháp
nhận diện nét chính yếu phổ biến về đói nghèo của các quốc gia. Tuy nhiên, các

tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa chưa được xác định vì còn phải tính đến sự
khác biệt về mặt chênh lệch giữa các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển


-6của mỗi vùng, miền khác nhau.
Ưu điểm của khái niệm này là đã làm rõ được bộ phận dân cư nghèo đói là: "Tùy
theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán từng địa phương" ...
Liên Hợp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo là đói nghèo
tuyệt đối và đói nghèo tương đối.
Đói nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
những nhu cầu cơ bản tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống [19, tr. 304].
Đói nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng [19,tr. 306].
Nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu
về ăn, mặc, ở, sinh họat, vệ sinh, y tế và giáo dục. Ngoài những đảm bảo trên,
cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia các
quyết định của cộng đồng.
Ngân hàng Thế giới sử dụng mức chi tiêu 1USD/người/ngày (tính theo giá
trị sức mua thực tế) để so sánh mức nghèo khổ ở các nước khác nhau trên thế
giới [5, tr. 460].
Theo chuẩn quốc tế dụng cho các nước đang phát triển thì đói nghèo
được xem xét ở hai mức độ:
Đói nghèo về lương thực, thực phẩm là những người có mức chi tiêu cho
ăn uống dưới mức để đạt 2.100 Kcal/người/ngày [5, tr. 460].
Đói nghèo chung bao gồm cả măt lương thực, thực phẩm và phi lương
thực, thực phẩm.
Hiện nay, đang tồn tại nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về đói nghèo.
Tuy nhiên, về cơ bản các nhà khoa học Việt Nam thống nhất với nhau một số
khái niệm sau đây:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn

các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triền kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa
phương [5, tr. 457].


-7Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cồng đồng tại địa phương đang xét.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa
mãn các nhu cầu tối thiểu cơ bản nhằm duy trì cuộc sống.
Nhu cầu cơ bản tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu những nhu cầu
thiết yếu về ăn, mặc, ở và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm văn hóa, giáo dục, đi
lại, giao tiếp.
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về mặt vật chất để duy trì cuộc
sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng,
thường vay mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng [5, tr. 458].
Tùy thuộc vào khả năng đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm để duy
trì cuộc sống trong năm mà phân loại hộ đói thành hộ thiếu đói và hộ đói thường
xuyên.
Ở Việt Nam, nghèo đói được phân theo hai cấp độ: Đói và nghèo.
- Quan niệm về đói: Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có
mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất
để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến
hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng.
Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần túy là đói ăn, nằm trọn trong
phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hóa, thuộc
phạm trù văn hóa tinh thần. Khái niệm đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói
cấp tính (đói gay gắt).
+ Đói kinh niên: Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm
đang xét.

+ Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều
nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét.
+ Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không
được học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát...


-8- Quan niệm nghèo của Việt Nam: Về cơ bản quan niệm nghèo của Việt
Nam thống nhất với khái niệm nghèo của ESCAP. Quan niệm nghèo ở đây có 2
dạng là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối
thiểu đó là mức bảo đảm tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, nước sinh hoạt, y tế, giáo
dục và vệ sinh môi trường. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc
gia và cũng được mở rộng dần.
- Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Nghèo tương đối gắn liền
với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống trung
bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo tương đối là hiện
tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách
chênh lệch giàu - nghèo.
Khái niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng để so sánh mức độ nghèo khổ
giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm quốc gia nghèo là đất
nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở
hạ tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng
đồng quốc tế. Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng khái niệm
nghèo tương đối. Như vậy, nghèo đói là khái niệm mang tính chất tương đối cả
về không gian và thời gian.
Xem xét quan niệm nghèo và đói cho thấy: đói là khái niệm dùng để phân
biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Giữa đói và nghèo cũng có quan

hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác nhau, "nghèo là một
kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo".
Nghèo ở Việt Nam được chia làm 3 cấp độ: người nghèo, hộ nghèo và
vùng nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000 của
Việt Nam đã căn cứ vào các cấp độ trên để đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ


-9nghèo, vùng nghèo v.v... và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể.
- Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không
đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở
hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch v.v... trình độ dân trí
thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
- Vùng nghèo: Là địa bàn nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao
thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất
và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính
trị, văn hóa và trình độ phát triển KT-XH của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc
điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm
kiếm đồng bộ các giải pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp
và nông thôn hiện nay.
*

Tiêu chí xác định nghèo đói và chuẩn nghèo đói
Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây:
Tiêu chí có nghĩa là: tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại

một sự vật, một khái niệm [31, tr. 990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính.
Chuẩn có nghĩa là: Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó
mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường; cái được

công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen trong xã hội [31, tr. 151].
Chuẩn mang tính định lượng. Vậy, nếu lấy thu nhập làm tiêu chí xác định nghèo thì
có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế quy định về
mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, còn ai vượt qua
giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có
quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại.
*

Tiêu chí xác định nghèo và chuẩn nghèo của thế giới
Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối

"thu nhập" theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối


- 10 thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó
không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà
chia đều cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một
nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao
gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào những
năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi
20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy, nhóm giàu nhất gấp 59 lần nhóm nghèo
nhất [18, tr. 11].
Hiện nay, Ngân hàng thế giới đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu,
nghèo của các quốc gia dựa vào mức "thu nhập quốc dân" bình quân tính theo
đầu người trong một năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính
theo tỷ giá hối đoái và tính bằng đô la Mỹ. Phương pháp PPP (purchasing power
parity), là phương pháp tính theo sức mua tương đương và cũng tính bằng đô la
Mỹ.
Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các
nước trên toàn thế giới làm 6 loại:

+ Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu.
+ Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu.
+ Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu.
+ Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình.
+ Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo.
+ Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo.
Theo phương pháp thứ hai, muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung trên cơ
sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả hàng hóa, thực hiện phương
pháp tính "rổ hàng hóa" sức mua tương đương để tính được mức thu nhập dân cư
giữa các quốc gia có thể so sánh. Ngân hàng thế giới đã tính mức năng lượng tối
thiểu cần thiết cho một người để sống là 2.100calo/ngày. Với mức giá chung của
thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1USD/người/ngày. Với mức
trên, ước tính hiện có trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong nghèo đói.


- 11 Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu
nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền KT-XH và sức
mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập (tính theo USD)
cũng khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo
được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaixia là
28USD/người/tháng, của Srilanca là 17USD/người/tháng, còn của Bangladet là
11USD/ người/ tháng...
Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính hiện nay
nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu - nghèo. Tuy
nhiên, nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như văn hóa, chính trị,
xã hội. Trong thực tế nhiều nước phát triển có thu nhập bình quân theo đầu người
cao nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề nghèo. Ở các nước phát triển tình
trạng thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường và những bất công
khác vẫn còn khá phổ biến, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng lên. Như vậy,
có thể thấy nghèo khổ trong xã hội không chỉ là hậu quả của mức thu nhập thấp

hay cao mà còn là kết quả của phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã hội.
Chính vì vậy, để đánh giá vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân
bình quân, UNDP còn đưa ra chỉ số con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ
tiêu: tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người
trong năm. Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển
và trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nhìn nhận các nước giàu, nghèo tương đối
chính xác và khách quan [22, tr. 135].
*

Tiêu chí xác định nghèo và chuẩn nghèo của Việt Nam
Trong những năm qua để đánh giá được nghèo đói ở Việt Nam, Tổng cục

thống kê và Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra tiêu chí và một số phương pháp xác định
chuẩn nghèo, đói như sau:
Phương pháp xác định đường đói nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân
hàng thế giới
Tổng cục thống kê đã cùng Ngân hàng thế giới áp dụng phương pháp


- 12 xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường "mức sống" của Ngân hàng
thế giới được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam
(các năm 1992 - 1993 và 1997 - 1998) để xây dựng đường đói nghèo.
Đường đói nghèo ở mức thấp là đường đói nghèo về lương thực, thực
phẩm, được xác định bởi chi phí cần thiết để mua rổ lương thực, thực phẩm cung
cấp đủ lượng calo tiêu dùng bình quân 1người/ngày (2.100 Kcalo). Đường đói
nghèo ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm các mặt hàng
lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). Trên cơ sở xây dựng
đường đói nghèo thì Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn
nghèo đói của Việt Nam như sau:
- Chuẩn nghèo đói về lương thực, thực phẩm năm 1993 là 750 nghìn

đồng/người/năm và năm 1998 là 1.287 nghìn/người/năm tương đương 92 USD.
- Chuẩn nghèo đói chung năm 1993 là 1.160 nghìn/người/năm và năm
1998 là 1.788 nghìn/người/năm tương đương 128 USD.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau:
+ Phương pháp này sử dụng rổ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đã hơn 17
năm nên không thể phản ánh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân
Việt Nam; tính toán phức tạp, chi phí điều tra tốn kém.
+ Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị,
nông thôn và chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể
xác định và lập danh sách hộ nghèo cụ thể cho từng địa phương.
Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia.
Bộ LĐ-TB&XH là cơ quan thường trực của chương trình XĐGN đã tiến
hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc đầu nghèo được xác định tiêu chí
đánh giá là dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang chỉ tiêu thu nhập, kết
quả là đã 4 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn khác nhau (bảng
1.1).


- 13 Bảng 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói theo chuẩn quốc gia
Chuẩn nghèo đói qua các
giai đoạn

Phân loại người nghèo đói
Đói (KV nông thôn)

Mức thu nhập
BQ/người/tháng
Dưới 8Kg

1993-1995 (Mức thu nhập Đói (KV thành thị)


Dưới 13Kg

qui ra gạo)

Nghèo (KV nông thôn)

Dưới 15Kg

Nghèo (KV thành thị)

Dưới 20Kg

Đói (Tính cho mọi khu vực)

1996-2000 (Mức thu nhập
qui ra gạo tương đương với
số tiền)

Nghèo (KV nông thôn miền
núi, hải đảo)
Nghèo (KV nông thôn, đồng
bằng trung du)
Nghèo (KV thành thị)
Nghèo (KV nông thôn miền

2001-2005 (Mức thu nhập
tính bằng tiền)

núi, hải đảo)

Nghèo (KV nông thôn đồng
bằng trung du)
Nghèo (KV thành thị)

Dưới 13Kg
(45.000 đồng)
Dưới 15Kg
(55.000 đồng)
Dưới 20Kg
(70.000 đồng)
Dưới 25Kg
(90.000 đồng)
Dưới 80.000 đồng

Dưới 100.000 đồng
Dưới 150.000 đồng

2006-2010 (Mức thu nhập Nghèo (KV nông thôn)

Dưới 200.000 đồng

tính bằng tiền)

Dưới 260.000 đồng

Nghèo (KV thành thị)

2011-2015 (Mức thu nhập Nghèo (KV nông thôn)

Dưới 400.000 đồng


tính bằng tiền)

Dưới 500.000 đồng

Nghèo (KV thành thị)

Nguồn: Bộ LĐ-TB và XH, chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN qua các giai
đoạn từ 1993-2015
Ưu điểm của phương pháp này là đảm bảo từng bước thỏa mãn nhu cầu
của con người (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa...), tính toán đơn giản. Chuẩn
được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện sống của


- 14 người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu và thu nhập của người dân. Mặt khác
theo phương pháp xác định này, tạo điều kiện cho các địa phương, cơ sở có thể tính
được có bao nhiêu hộ nghèo, trên cơ sở đó có giải pháp và hỗ trợ cần thiết.
Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận này có hạn chế là chưa tính toán đầy đủ
nhu cầu tiêu dùng (chỉ chú ý một số nhu cầu lương thực, thực phẩm và một số
nhu cầu phi lương thực, thực phẩm). Độ tin cậy chưa cao do không có điều kiện
điều tra diện rộng, thu thập thông tin về thu nhập của người dân nông thôn và
miền núi rất khó chính xác. Tuy còn có một số hạn chế nhưng cách tính chuẩn
nghèo của Bộ LĐ-TB&XH là tương đối phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện
nay.
Về tiêu chí xác định xã nghèo
Năm 1998, ủy ban Dân tộc và Miền núi đã ban hành quy định xã đặc biệt
khó khăn (thuộc chương trình 135) là xã có đủ 5 tiêu chí sau:
- Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu công
nghiệp, trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10 Km.
- Không có đường ôtô vào xã; các công trình điện, thủy lợi, nước sạch,

trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ
và thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu, không có thông tin.
- Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn; số hộ không có đất và thiếu
đất sản xuất trên 20%, số hộ có người làm thuê trên 20%.
- Số hộ nghèo đói trên 30%. Đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình trạng
đói giáp hạt.
Năm 2002, Bộ LĐ-TB&XH có Quyết định số: 587/2002/QĐ-BLĐTBXH
quy định xã nghèo (ngoài chương trình 135) là xã có đủ 2 tiêu chí sau:
- Có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
- Chưa có đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu, cụ thể như sau:
+ Dưới 30% số hộ được sử dụng nước sạch.
+ Dưới 50% số hộ được sử dụng điện sinh hoạt.


- 15 + Chưa có đường ôtô tới trung tâm xã, ôtô không đi lại được cả năm.
+ Số phòng học mới đáp ứng dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc
phòng tạm bằng tranh, tre, nứa, lá.
+ Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng nhà tạm.
+ Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
* Luận văn lựa chọn cách xác định tiêu chí và chuẩn nghèo quốc gia do
Bộ LĐ-TB&XH đưa ra để thực hiện quá trình nghiên cứu của mình.
1.1.2. Tác động của đói nghèo tới sự phát triển
Đói nghèo cản trở tăng trưởng kinh tế vì đói nghèo thường đi đôi với tình
trạng sức khoẻ yếu kém, trình độ dân trí thấp đẫn tới năng suất lao động thấp, sản
phẩm kém chất lượng, thị trường hàng hoá không phát triển. Để có thể tăng
trưởng kinh tế ổn định và bền vững thì xoá đói giảm nghèo là một nội dung quan
trọng. Tuy nhiên, trong ngắn hạn – khi phân phối một phần đáng kể trong thu
nhập xã hội cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng
kinh tế có thể bị ảnh hưởng. Song xét một cách toàn diện và dài hạn thì kết quả

giảm đói nghèo sẽ tạo ra tiền đề cho tăng trưởng ổn định và bền vững hơn trong
tương lai.
Đói nghèo là một trong những nguyên nhân làm tăng quy mô dân số, điều
này thể hiện rõ ở những nước nghèo, kém phát triển và trong từng hộ gia đình
nghèo. Đa số hộ nghèo thường đông con, đặc biệt là con nhỏ. Có thể do nghèo
nên cần nhiều lao động, có thể do nghèo nên không có điều kiện tiếp cận các dịch
vụ y tế kế hoạch hoá gia đình, vị thế người phụ nữ trong gia đình không được coi
trọng, nếp nghĩ và phong tục tập quán lạc hậu do trình độ của người nghèo
thấp,… đói nghèo gia tăng thì kèm theo đó là sự gia tăng dân số, gia tăng bất
bình đẳng giới.
Đói nghèo không những tăng quy mô dân số mà còn làm giảm chất lượng
dân số. Chất lượng dân số thể hiện ở nhiều khía cạnh trong đó có hai khía cạnh
cơ bản là trí lực và thể lực. Những hộ gia đình nghèo không có điều kiện cho con
em họ đến trường, người nghèo phải giành thời gian nhiều cho việc kiếm sống


- 16 không có thời gian để học tập để nâng cao hiểu biết. Ngay cả những trẻ nghèo
được đến trường thì kết quả học tập của các em cũng không tốt do phải lo phụ
giúp gia đình kiếm sống sau thời gian đến lớp. Mặt khác, việc sử dụng các dịch
vụ y tế, chăm sóc sức khỏe của các hộ nghèo là rất ít, ngay cả với việc khám và
chữa các bệnh thông thường. Người nghèo thường có sức khỏe không được tốt,
thường hay ốm đau và mắc các bệnh truyền nhiễm đe dọa đến sức khỏe của cộng
đồng. Dân trí thấp và tình trạng sức khỏe yếu kém kéo theo chất lượng dân số
thấp.
Không những thế đói nghèo làm gia tăng các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch
như HIV/AIDS,… lây lan và truyền nhiễm. Tỷ lệ phạm tội và mắc các bệnh dịch
cao hơn ở người nghèo, cũng như đa phần những trẻ em và những người lang
thang đường phố có xuất thân từ gia đình nghèo.
Bất bình đẳng xã hội có xu hướng tăng lên ở các quy mô khác nhau, từ
quy mô giữa các khu vực trong một quốc gia, giữa các quốc gia, giữa nông thôn

và thành thị, giữa người giàu và người nghèo. Người nghèo bất bình vì họ thường
bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, khó mà thoát nghèo chứ chưa nói
đến việc thoát nghèo và vươn lên mức sống cao hơn, trong khi người giàu được
hưởng lợi lớn từ quá trình phát triển, họ đã giàu càng giàu hơn. Điều này chính là
nguyên nhân dễ gây ra những bất ổn trong xã hội, đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu
hoá đang diễn ra ngày càng sâu rộng và lợi ích từ quá trình phát triển không được
phân phối công bằng, khoảng cách giàu nghèo không giảm mà ngày càng tăng
lên.
Đói nghèo gây tác động xấu tới môi trường, diện tích rừng ngày càng
giảm một phần vì những tập tục canh tác lạc hậu, đốt nương làm rẫy của những
cộng đồng các dân tộc thiểu số nghèo. Người nghèo không nhận thức đựơc
những hậu quả của việc suy thoái môi trường hay những lợi ích dài hạn mà việc
bảo vệ môi trường, trồng và bảo vệ rừng mang lại. Đối với họ đảm bảo bữa ăn
hàng ngày và duy trì cuộc sống là mục tiêu hàng đầu bất chấp những tác động
xấu tới môi trường. Ở những thành phố lớn, những căn hộ chung cư cao cấp,


- 17 trung cấp và bình dân không có chỗ cho người nghèo mà chỗ của họ là ở những
khu ổ chuột, tạm bợ và ô nhiễm mà họ lại là tác nhân của tình trạng này. Còn ở
nông thôn, người nghèo không đủ tiền để xây hố xí hợp vệ sinh, các công trình
phụ trợ để giảm ô nhiễm từ hoạt động chăn nuôi hay sản xuất. Họ vào rừng,
xuống sông, ra biển đánh bắt tất cả những gì có thể bán cho các thương lái, cho
dù đó là động vật quý hiếm thuộc sách đỏ thế giới mà không hề biết đó là hành
động phá hoại môi trường, phá hoại hệ sinh thái.
1.2. NỘI DUNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.2.1. Khái niệm về xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách của nhà nước và
xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện đói nghèo nhằm tạo điều kiện
để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được
những nhu cầu thối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo trong quy định theo từng địa

phương, khu vực, quốc gia.
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người
nghèo giảm. Nói một cách cụ thể hơn, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân
cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ
tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn
để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa đói và cũng giống như khái
niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể tái sinh
mỗi khi quan niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Hoặc có những biến động
khác tác động đến như: khủng hoảng, lạm phát, thiên tai vv...Vì vậy, việc đánh
giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian và thời gian nhất
định.
Ở Việt Nam hiện nay, không còn chế độ bóc lột như trước đây mà do nền
kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển


- 18 sang nền kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều trình độ
sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi đó trình độ
sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo, thay thế trình độ sản xuất
cũ. Do đó, dẫn đến có sự giàu-nghèo khác nhau trong các tầng lớp dân cư.
Như vậy, ở góc độ quốc gia, XĐGN ở nước ta chính là từng bước thực
hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã
hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người
nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất,
trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn để từng bước thoát ra khỏi tình
trạng nghèo.
1.2.2. Nội dung của xóa đói giảm nghèo
- Thứ nhất là tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh giá

vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa chọn
phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Nhìn chung các quốc gia
đều căn cứ vào chỉ tiêu chính là thu nhập để đánh giá. Như vậy, tăng thu nhập
cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm nhất đối với công tác
XĐGN.
Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu nhập
từ sức lao động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ tiền lương hay từ những
hình thức lao động khác. Sức lao động của người nghèo chỉ có thể được sử dụng
để đem lại thu nhập khi họ kiếm được việc làm.Việc làm ổn định và việc làm tốt
là cơ sở để người nghèo có thu nhập ổn định và nâng cao thu nhập đảm bảo cuộc
sống của mình. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay, XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế
bền vững; ngược lại chỉ có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững mới có sức mạnh
vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
Mặt khác nếu lao động có sức khoẻ, được đào tạo, bồi dưỡng tốt cùng tinh thần
làm việc hăng say, môi trường kinh tế của vùng nghèo được cải thiện thì năng


- 19 suất lao động sẽ tăng lên, từ đó thu nhập của người nghèo sẽ khá hơn, dễ có cơ
hội để vươn lên thoát nghèo.Tuy nhiên, trong thực tế tình trạng thiếu việc làm và
năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là khá phổ
biến đối với người nghèo. Vì vậy, tăng năng suất lao động, tạo việc làm và tăng
thu nhập cho người nghèo, đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng nghèo phải là nội
dung quan trọng trong các giải pháp XĐGN ở nước ta hiện nay.
- Thứ hai là tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển và dịch vụ
công đối với người nghèo, vùng nghèo.
+ Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là vùng
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường là xa các trung tâm kinh tế
và dịch vụ xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với những vùng
khác. Phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu thông

tin, thiếu chợ đầu mối, thiếu vốn, đất sản xuất và thị trường, giao thông đi lại khó
khăn v.v.. Do đó, năng suất lao động thấp, giá cả của sản phẩm do người sản xuất
bán lại rẻ vì vận chuyển khó khăn. Chính vì vậy cơ hội tự vươn lên của người nghèo
ở những vùng này là rất khó khăn. Điều này cho thấy việc giải quyết bài toán
XĐGN không hề dễ, đòi hỏi phải có thời gian.
+ Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp. Do nghèo mà không có điều
kiện đầu tư cho con cái học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp thì
không có khả năng tiếp thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản
xuất và không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ, văn minh của nhân loại
nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để giảm
nghèo phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người nghèo là
giải pháp có tính chiến lược lâu dài.
+ Một nội dung quan trọng nữa của công tác XĐGN là phải tạo điều kiện
để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính,
tín dụng và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.vv...
+ Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt
hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là


×