Tải bản đầy đủ (.doc) (251 trang)

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của đảng bộ tỉnh thái bình từ năm 1998 đến năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 251 trang )

B QUC PHềNG
HC VIN CHNH TR

TRN VN RNG

CÔNG TáC XÂY DựNG Tổ CHứC CƠ Sở ĐảNG
Xã, PHƯờNG, THị TRấN CủA ĐảNG Bộ TỉNH
THáI BìNH
Từ NĂM 1998 ĐếN NĂM 2005

LUN N TIN S LCH S

H NI - 2018


B QUC PHềNG

HC VIN CHNH TR

TRN VN RNG

CÔNG TáC XÂY DựNG Tổ CHứC CƠ Sở ĐảNG
Xã, PHƯờNG, THị TRấN CủA ĐảNG Bộ TỉNH
THáI BìNH
Từ NĂM 1998 ĐếN NĂM 2005
Chuyờn ngnh:
Mó s:

Lch s ng Cng sn Vit Nam
92 29 015


LUN N TIN S LCH S

NGI HNG DN KHOA HC:
1. PGS, TS Nguyn Vn S
2. PGS, TS V Nh Khụi

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trình bày trong luận
án trung thực, có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng.

Tác giả luận án

TRẦN VĂN RẠNG


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.2
Khái quát kết quả của các công trình có liên quan đến đề tài
luận án và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH CỦNG CỐ TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
(1998 - 2000)
2.1.
Tính cấp bách củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
2.2.
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
2.3.
Đảng bộ tỉnh Thái Bình chỉ đạo củng cố tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn
Chương 3 ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY
DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH
(2001- 2005)
3.1.
Sự cần thiết đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức
cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
3.2.
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đổi mới, nâng cao
chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
3.3.
Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1.

Nhận xét công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005)
4.2.
Kinh nghiệm từ quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005)
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

5
10
10
25

30
30
46
56

77
77
83
94
115
115
135
159
162



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

163
184

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1.
2.
3.
4.
5.

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng nhân dân
Nhà xuất bản
Ủy ban kiểm tra
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
HĐND
Nxb
UBKT
UBND



5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: Xây dựng Đảng là
nhiệm vụ “then chốt”, quyết định sự phát triển của Đảng và thắng lợi của cách
mạng. Nằm trong vấn đề có tính quy luật đó, xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn có tầm chiến lược lâu dài; là công tác xây dựng “nền tảng” của
Đảng, xây dựng “hạt nhân chính trị”, bảo đảm sự tồn tại, phát triển và giữ vững
vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ở cơ sở.
Từ khi thành lập, do chăm lo công tác xây dựng Đảng, với bản lĩnh,
năng lực và uy tín của mình, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã lãnh đạo nhân dân
trong tỉnh làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần vào
thắng lợi chung của Đảng và dân tộc. Nhưng vào thập niên cuối thế kỷ XX,
Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã mắc phải khuyết điểm lớn: Buông lỏng công tác xây
dựng Đảng, nhất là ở cơ sở cấp xã. Hàng loạt yếu kém trong tổ chức đảng đã
bộc lộ; đáng báo động là tình trạng mất dân chủ, tham nhũng, quan liêu trong
bộ máy cấp ủy cơ sở diễn ra phổ biến, chậm được khắc phục. Lòng tin của
nhân dân đối với cấp ủy đảng bị suy giảm nghiêm trọng; khiếu kiện xảy ra ở
nhiều nơi, gây mất ổn định từ cục bộ đến diện rộng. Khá nhiều tổ chức đảng ở
cơ sở sa sút về phẩm chất, năng lực, thậm chí có những nơi cấp ủy tê liệt, mất
sức chiến đấu, không giữ được vai trò lãnh đạo. Mặc dù những tháng cuối năm
1997, Đảng bộ đã có giải pháp bước đầu hướng vào củng cố tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn, mang lại một số kết quả, nhưng chưa có tính toàn diện, và
trên thực tế vẫn chưa đủ sức để xoay chuyển tình hình.
Trước yêu cầu cấp bách đó, quán triệt chủ trương, sự chỉ đạo của Trung
ương, giai đoạn 1998 - 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã phát huy sức mạnh của
hệ thống chính trị ở địa phương để cùng vào cuộc, tập trung củng cố, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn. Mặc dù còn những hạn chế, thiếu sót,



6
song thành công của Đảng bộ trong công tác này là một trong những nhân tố giữ
vai trò quyết định đưa tỉnh Thái Bình ra khỏi tình trạng mất ổn định, tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới ở địa phương.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban hấp hành Trung Đảng khóa XI và Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đang được triển khai thực
hiện quyết liệt từ Trung ương đến các địa phương, trong đó có Đảng bộ tỉnh Thái
Bình. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn vẫn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, có những hạn chế, yếu
kém kéo dài, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và sự lãnh đạo
của Đảng trong thời kỳ mới. Vì vậy, rất cần có những khảo cứu chuyên sâu từ
địa phương, cơ sở, nhằm tìm kiếm kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo, kịp thời
bổ sung chủ trương, giải pháp mới, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đến nay, tuy đã có những công trình khoa học đề cập chung đến công tác
xây dựng tổ chức cơ sở đảng phạm vi cả nước và ở phạm vi một số đảng bộ địa
phương, song dưới góc độ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có công
trình nào nghiên cứu trực tiếp, hệ thống, chuyên sâu về sự lãnh đạo xây dựng tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
Từ những lý do đó, tác giả chọn đề tài“Công tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2005”
làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong xây dựng tổ chức cơ
sở đảng xã, phường, thị trấn giai đoạn 1998 - 2005, qua đó đúc rút kinh nghiệm có
giá trị tham khảo cho các đảng bộ địa phương và Đảng bộ tỉnh Thái Bình.



7
* Nhiệm vụ:
- Luận giải làm rõ tính cấp bách củng cố, đổi mới, nâng cao chất lượng
xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
trong những năm 1998 - 2005.
- Hệ thống hóa và làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái
Bình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
- Nhận xét, đánh giá về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2005 trên cả hai bình diện ưu
điểm và hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Sự lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của Đảng
bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005).
* Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và chỉ đạo xây dựng tổ
chức cơ sở đảng thuộc loại hình xã, phường, thị trấn (trong đó loại hình cơ sở xã
là chủ yếu - với tỷ lệ 95,43%), trên các lĩnh vực: tư tưởng; tổ chức - cán bộ, đảng
viên; kiểm tra, xử lý kỷ luật; đổi mới phương thức lãnh đạo và phát huy vai trò
của nhân dân tham gia xây dựng tổ chức đảng.
Không gian: Địa bàn tỉnh Thái Bình.
Thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2005. Đồng thời có mở rộng nghiên
cứu trước và sau khoảng thời gian đó.
Mốc mở đầu để nghiên cứu là năm 1998. Nếu trước đó, việc xây dựng tổ
chức đảng ở cơ sở bị buông lỏng, dẫn đến mất ổn định trên phạm vi rộng, thì từ
năm 1998, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã ưu tiên cho việc hoạch định chủ trương và
chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn và đã thành công trong
vấn đề này, góp phần đưa địa phương đi vào ổn định và tiếp tục phát triển.
Mốc thời gian kết thúc để nghiên cứu của luận án là năm 2005. Tính đến
thời điểm này, tình hình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của



8
Đảng bộ tỉnh Thái Bình tuy có mặt còn hạn chế, song thành công đạt được là
rất căn bản, để lại những kinh nghiệm rất cần được tổng kết.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng, xây
dựng tổ chức cơ sở đảng và tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
* Cơ sở thực tiễn:
Là thực tiễn hoạt động xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005). Theo đó:
Luận án khai thác, sử dụng số liệu thống kê của Văn phòng Ban Tổ chức
Trung ương; các văn kiện và số liệu của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh Thái Bình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn và nội dung liên quan được lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Kho Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Tỉnh ủy Thái Bình.
Luận án dựa vào kết quả khảo sát thực tiễn và phỏng vấn nhân chứng
lịch sử ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình; các số liệu tổng hợp của các ban xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền thuộc Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thái Bình liên quan
đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu Khoa học Lịch sử,
trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic:
Phương pháp lịch sử được dùng chủ yếu trong chương 2 và chương 3,
có kết hợp với phương pháp lôgic nhằm làm rõ những yếu tố tác động từ điều
kiện lịch sử và nội dung các sự kiện liên quan trực tiếp đến chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn qua 2 phân đoạn: 1998 - 2000 và 2001 - 2005.

Phương pháp lôgic giữ vai trò chủ đạo, kết hợp với phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh, dùng để thực nhiệm vụ của chương 4, nhằm đưa ra những


9
nhận xét và đúc kết một số kinh nghiệm xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005.
Đồng thời với việc sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê, phỏng vấn,...
được sử dụng một cách linh hoạt để làm rõ các nội dung của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống, khái quát hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn từ năm 1998 đến năm 2005.
Đưa ra những nhận xét, đánh giá về quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh
đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 1998 - 2005.
Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh
đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn (1998 - 2005).
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc tổng kết công tác lãnh
đạo của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn trong thời
kỳ đổi mới (qua thực tiễn Đảng bộ tỉnh Thái Bình). Luận án góp thêm luận cứ
khoa học cho việc bổ sung, phát triển chủ trương, giải pháp xây dựng tổ chức
cơ sở đảng xã, phường, thị trấn trong thời gian tới.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Những kinh nghiệm được đúc rút trong luận án có giá trị tham khảo trong
công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn của đảng bộ cấp tỉnh.
Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, cũng như lịch sử đảng bộ địa phương trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (10 tiết), Kết luận, Danh mục các công
trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, Danh mục tài liệu
tham khảo và Phụ lục.


10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến những vấn đề chung về xây
dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước
Các nghiên cứu về vai trò, đặc điểm tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn:
Vấn đề này được tác giả Nguyễn Văn Cư (2000) bàn đến trong bài “Tổ
chức cơ sở đảng với việc giữ vững ổn định chính trị ở nông thôn” [32]. Bài
viết đã làm rõ vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng trong lãnh đạo
giữ vững ổn định chính trị ở địa bàn nông thôn Việt Nam. Từ việc khái quát
thực tiễn, tác giả khẳng định: “Tổ chức cơ sở đảng có vai trò quyết định đối với
sự ổn định chính trị ở nông thôn” [32, tr.38].
Liên quan đến vấn đề trên, tác giả Hoàng Chí Bảo (2002) đã có bài viết
“Vai trò của cơ sở và sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị cơ sở” [23]. Theo
tác giả, cơ sở (xã, phường, thị trấn) là hình ảnh của xã hội thu nhỏ; là nơi nảy sinh
từ thực tế biết bao kinh nghiệm có thể tổng kết được do thường xuyên phải giải
quyết những tình huống của cuộc sống đặt ra. Trong một công trình nghiên cứu
khác, năm 2005, bàn luận về “Đảng bộ xã lãnh đạo việc xây dựng hệ thống chính
trị ở cơ sở nông thôn hiện nay” [24], tác giả nhấn mạnh: “Công tác lãnh đạo xây
dựng hệ thống chính trị cơ sở của đảng bộ, chi bộ nông thôn được đặt ra như một
công tác có tầm quan trong đặc biệt và lâu dài” [24, tr.33].
Phác họa đặc điểm cơ sở xã, phường, thị trấn giữ vai trò chi phối thường
xuyên, trực tiếp đến tổ chức, hoạt động của tổ chức đảng ở cơ sở cấp xã, trong

bài viết “Mười cái nhất ở cơ sở” [90], tác giả Trần Hậu Thành (2007), đã chỉ
ra 10 nét tiêu biểu: 1 - Cơ sở là cấp có địa vị pháp lý thấp nhất trong hệ thống
chính trị; 2 - Cơ sở là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã hội, là nền tảng của
chế độ chính trị và đời sống xã hội; 3 - Hệ thống chính trị cơ sở có tổ chức bộ
máy đơn giản nhất; 4 - Cơ sở là cấp có bộ máy cán bộ biến động nhất, có trình


11
độ được đào tạo thấp nhất; 5 - Cơ sở là cấp gần dân nhất; 6 - Tổ chức và hoạt
động của cơ sở mang tính tự quản cao nhất; 7 - Cơ sở là nơi có nhiều cư dân sinh
sống nhất; 8 - Cơ sở là cấp nhiều việc nhất; 9 - Cơ sở là nơi có cán bộ, đảng viên
hưu trí nhiều nhất; 10 - Cơ sở là cấp mà các yếu tố có tính truyền thống, dòng
họ, văn hóa làng xã có thể tác động mạnh nhất [90, tr.45-46].
Các nghiên cứu liên quan đến xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn:
Trước tình trạng mất dân chủ xảy ra ở nhiều cơ sở làm suy yếu vai trò
lãnh đạo của tổ chức đảng, tác giả Lê Khả Phiêu (1998) trong bài “Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở”
[80], đã nhấn mạnh: Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Về phương châm và phương pháp tiến hành, tác
giả chỉ rõ: 1 - “Phải làm trong Đảng trước rồi mới ra dân”; 2 - “Phải làm từng
bước vững chắc, không làm lướt, ồ ạt”; 3 - “Phải qua tự phê bình trong nội bộ và
qua phê bình nhận xét của nhân dân mà biểu dương những cán bộ, đảng viên tốt,
gương mẫu và xử lý những cán bộ, đảng viên có sai phạm” [80, tr.6].
Trong “Tổng quan Hội thảo về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn” [86], Ban Biên tập Tạp chí Lịch sử
Đảng (2004) đã khái quát kết quả của Hội thảo: Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trước hết là ở việc lãnh đạo hoàn
thành nhiệm vụ chính trị, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở. Theo đó, cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là đội

ngũ cán bộ chủ chốt; Nâng cao chất lượng cấp ủy, chất lượng đội ngũ đảng
viên; Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng; Nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ; Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng; Tăng
cường công tác quần chúng; Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng đối với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng.
Tác giả Nguyễn Văn Giang (2006), khi nghiên cứu về “Kiện toàn và
đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội


12
X” [50] đã đề xuất các giải pháp: Thể chế hóa về mặt nhà nước vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; Xây dựng quy chế
làm việc, phân định rõ sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ với hoạt động quản lý
của chính quyền, sự tự quản của các đoàn thể; Tổ chức hoạt động của đảng
bộ, chi bộ theo chương trình công tác, tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời
những vấn đề bức xúc, mới nảy sinh; Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng
sinh hoạt đảng ở cơ sở, nhất là sinh hoạt chi bộ; Kiện toàn và tăng cường bồi
dưỡng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở; Tăng cường công tác kiểm tra đảng
viên; đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng…
Cuốn sách Một số vấn đề về xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay [51]
của tác giả Nguyễn Đức Hà (2010) đã dành một phần trọng tâm luận giải vấn
đề nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả đã nêu và phân tích
các nhiệm vụ và giải pháp một cách khá toàn diện: Tăng cường công tác giáo
dục chính trị tư tưởng; Gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; Thực hiện mạnh mẽ chủ
trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức
danh cán bộ; Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức cơ sở đảng theo
hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; Tăng cường
công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; Dựa vào dân để xây

dựng Đảng. Như vậy, dù đã bàn đến những vấn đề rất cơ bản, có ý nghĩa sâu
sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, nhưng tiếc rằng cuốn sách chưa
nêu ra được những kinh nghiệm về xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Cuốn sách của Vụ Cơ sở đảng - Ban Tổ chức Trung ương (2010), Về
công tác chi bộ ở xã, phường, thị trấn [20] đã chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ trực thuộc các đảng bộ xã, phường, thị trấn. Theo đó, chi bộ thôn (làng,
bản, ấp), tổ dân phố (khu phố, khu dân cư) “là hạt nhân chính trị ở địa bàn dân
cư, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, có chức năng lãnh đạo thực hiện


13
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ do đảng ủy xã, phường, thị trấn giao và các công việc
của cộng đồng dân cư đặt ra trong thực tiễn” [20, tr.16].
Tác giả Nguyễn Trọng Phúc (2012) trong cuốn Lịch sử công tác xây dựng
Đảng (1930 - 2011) [82], đã trình bày có hệ thống chủ trương và những sự kiện
nổi bật trong công tác xây dựng Đảng gắn liền với sự ra đời, phát triển và quá
trình lãnh đạo cách mạng của Đảng; qua đó, đã dựng lại bức tranh tổng quát về
công tác xây dựng Đảng từ khi Đảng ra đời đến năm 2011, làm rõ một số vấn đề
lý luận, thực tiễn về xây dựng Đảng. Trong cuốn sách này, vấn đề xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong thời kỳ đổi mới, được tác giả trình bày với tư cách là một
nội dung công tác, một nhiệm vụ cụ thể trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Cuốn sách của tác giả Dương Trung Ý (2013) đề cập khá toàn diện vấn
đề Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn [200]. Thành công của tác giả là đã xây
dựng tiêu chí, đánh giá thực trạng, nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm;
xác định phương hướng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng các đảng bộ
xã. Từ thực tiễn xây dựng các đảng bộ xã, tác giả đã khái quát 8 kinh nghiệm:
1 - Nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và đặc điểm, tiềm năng thế mạnh của xã để đề ra nhiệm vụ đúng đắn, sát

hợp; 2 - Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân; 3 - Phát huy nội lực, tinh thần chủ động, sáng tạo ở cơ sở,
kết hợp sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ
xã; 4 - Kết hợp chặt chẽ hoạt động xây dựng tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo
phát triển kinh tế - xã hội; 5 - Coi trọng công tác cán bộ, đảng viên, phát huy
vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị của đảng bộ; 6 - Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc; 7 Đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt các chi bộ trực thuộc; 8 - Tập trung


14
lãnh đạo, chỉ đạo dứt điểm từng nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm theo kế
hoạch, coi trọng và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát.
Nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức cơ sở đảng cấp
xã” [61], tác giả Phạm Mạnh Khởi (2013) đã đem đến cái nhìn tổng thể về tổ
chức cơ sở đảng cấp xã. Vào thời điểm này, tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn chỉ chiếm 19,3% tổng số tổ chức cơ sở đảng, nhưng lại chiếm tới
64,5% số chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở, với 61,4% số đảng viên của toàn
Đảng, trực tiếp lãnh đạo hơn 80% dân số cả nước. Tác giả khẳng định:
“Muốn nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trước hết phải
chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng cấp xã”
[61, tr.26]. Từ thực tiễn xây dựng tổ chức cơ sở đảng cấp xã thập niên đầu thế
kỷ XXI, tác giả rút ra 4 kinh nghiệm: Coi trọng công tác chính trị tư tưởng;
Đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách công tác của cấp ủy; Xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở; Tăng cường kiểm tra,
giúp đỡ các chi bộ và đảng viên còn hạn chế, khuyết điểm.
1.1.2. Các nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở
đảng (có liên quan đến tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn) ở một số đảng bộ tỉnh, thành phố
Một số nghiên cứu về củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém:
Trong nghiên cứu “Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở Hải

Dương” [184], tác giả Lê Văn Tuyến (2004) đã nêu thực trạng, phân tích vai
trò của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hải Dương trong tham mưu cho Tỉnh ủy tổ chức
thực hiện các biện pháp nhằm giải quyết cơ sở đảng yếu kém, nâng cao chất
lượng đồng đều của các tổ chức đảng, tập trung vào: Thứ nhất, khảo sát, đánh
giá thực trạng tổ chức cơ sở đảng; Thứ hai, đẩy mạnh các phong trào thi đua
xây dựng tổ chức cơ sở đảng; Thứ ba, giải quyết dứt điểm các cơ sở đảng yếu
kém; Thứ tư, thực hiện phân công nhiệm vụ cho đảng viên; Thứ năm, kiện
toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên [184, tr.21-22].


15
Từ thực tiễn tình hình giải quyết tổ chức cơ sở đảng yếu kém ở tỉnh Yên
Bái, tác giả Đổng Công Thuận (2004) trong bài “Củng cố cơ sở đảng yếu kém ở
Yên Bái - Giải pháp đồng bộ, cụ thể” [92] đã thể hiện sự đầu tư nghiên cứu thông
qua việc phân tích, lập luận có căn cứ, chỉ rõ cả thành công và hạn chế của địa
phương trong củng cố, giải quyết các tổ chức cơ sở đảng yếu kém thuộc các
huyện, thị xã trên địa bàn Tỉnh; từ đó, rút ra 5 kinh nghiệm: Một là, đánh giá đúng
thực trạng, xác định rõ nguyên nhân yếu kém của từng cơ sở; Hai là, phải đề ra
được chương trình, kế hoạch với giải pháp đồng bộ về tư tưởng, tổ chức, kinh tế;
Ba là, kiện toàn cấp ủy, bố trí lại cán bộ; Bốn là, sau củng cố phải xây dựng, thực
hiện nghiêm quy chế, giữ vững vai trò hạt nhân chính trị của đảng bộ cơ sở; Năm
là, đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ [92, tr.28].
Tác giả Phạm Thu Huyền (2005) khi nghiên cứu về “An Dương giải
quyết cơ sở đảng yếu kém” [59] đã khái quát đặc điểm chi phối và tình hình xây
dựng tổ chức cơ sở đảng ở An Dương; khẳng định tính hiệu quả của các giải
pháp giải quyết cơ sở đảng yếu kém đã được Đảng bộ huyện An Dương (Thành
phố Hải Phòng) thực hiện: 1 - Kiểm tra để xác định rõ nguyên nhân; 2 - Kiện
toàn đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt; 3 - Chấn chỉnh việc thực hiện
chế độ, nguyên tắc sinh hoạt đảng; 4 - Huyện ủy sâu sát với cơ sở [59, tr.17, 20].
Các nghiên cứu có tính hệ thống về xây dựng tổ chức cơ sở đảng liên

quan đến xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn:
Trong Luận án tiến sĩ lịch sử: Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội từ năm 1996 đến năm 2005 [55], tác giả Trần Thị
Thu Hằng (2012) đã phân tích đặc điểm, thực trạng tổ chức cơ sở đảng ở Hà
Nội, khái quát quan điểm của Đảng, trình bày chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng
bộ Thành phố Hà Nội về xây dựng tổ chức cơ sở đảng những năm 1996 - 2000
và 2001 - 2005. Trên cơ sở đó, tác giả nhận xét ưu, khuyết điểm, đồng thời rút
ra 4 kinh nghiệm xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Thành phố Hà Nội.
Một là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, quan điểm của Đảng vào điều
kiện cụ thể của Thành phố Hà Nội, nắm vững và phát huy thế mạnh, lợi thế,


16
tiềm năng, khắc phục hạn chế, đề ra chủ trương, giải pháp phù hợp đẩy mạnh
công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo,
quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Thành ủy về
tổ chức cơ sở đảng. Ba là, khẳng định vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của tổ
chức đảng ở cơ sở, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng. Bốn là, nhận thức đúng tầm quan trọng của mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa tổ chức cơ sở đảng với nhân dân [55, tr.184-195].
Hai tác giả Đỗ Ngọc Ninh và Đinh Ngọc Giang (2013) có sự phối hợp
trong nghiên cứu một số công trình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở Hà Nội và
Bắc Giang. Cuốn sách Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tổ dân phố của các
quận ở Thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay [78], do 2 tác giả đồng chủ
biên, đã chỉ ra khái niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng, yêu cầu, điều kiện nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ. Từ đánh giá thực trạng, nguyên nhân, đúc rút kinh
nghiệm, xác định những vấn đề đặt ra, các tác giả đã đề ra yêu cầu, giải pháp nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tổ dân phố trên địa bàn các quận của Thành phố
Hà Nội. Trên phương diện lịch sử, một nội dung rất đáng quan tâm là những kinh
nghiệm được các tác giả thể hiện trong cuốn sách: Thứ nhất, quán triệt sâu sắc và

thực hiện nghiêm chỉnh các chỉ thị, hướng dẫn của Đảng và Thành ủy, quận ủy,
tranh thủ sự giúp đỡ của đảng ủy phường về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thứ hai, xác định rõ trọng tâm, trong điểm để tập trung thảo luận; coi trọng sinh
hoạt chi bộ theo chuyên đề, nâng cao ý thức trách nhiệm của đảng viên để ra được
nghị quyết đúng đắn. Thứ ba, chọn và bố trí đúng bí thư chi bộ. Thứ tư, thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Thứ năm, tăng cường chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra của cấp ủy cấp trên. Thứ sáu, coi trọng bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác Đảng cho đội ngũ bí thư, phó bí thư chi bộ, chi ủy viên [78, tr.112-119].
Nghiên cứu “Những kinh nghiệm của Tỉnh ủy Bắc Giang về nâng cao
năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng” (2013) [79], các tác giả
Đỗ Ngọc Ninh và Đinh Ngọc Giang đã khái lược sự lãnh đạo, nêu lên 6 kinh
nghiệm về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng của


17
Tỉnh ủy Bắc Giang những năm 2008 - 2013: 1) Tạo sự chuyển biến về nhận thức
và hành động trong cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên về đánh giá, phân loại tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên; 2) Tập trung cao độ củng cố các tổ chức cơ sở
đảng yếu kém; 3) Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt; 4) Nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng bộ cơ sở và sinh
hoạt chi bộ trực thuộc; 5) Tăng cường công tác tư tưởng trong đảng bộ và trong
nhân dân; 6) Tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ của Tỉnh ủy, sự kiểm tra giám sát
của cấp ủy huyện, thành phố, đảng ủy khối đối với tổ chức cơ sở đảng.
Tác giả Vũ Thị Duyên (2016) với Luận án tiến sĩ Lịch sử: Công tác xây
dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm
2010 [33] đã hệ thống hóa chủ trương và quá trình chỉ đạo xây dựng tổ chức
cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2010 trên các
nội dung chủ yếu: Về tư tưởng chính trị; Về tổ chức; Về phát triển đảng viên;
Về công tác cán bộ; Về công tác kiểm tra. Tác giả đã nhận xét thành công,
hạn chế, khuyết điểm và đúc kết 5 kinh nghiệm: 1) Nhận thức đúng vai trò,

tầm quan trọng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng trong từng giai
đoạn lịch sử. 2) Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, các cấp ủy đảng
chú trọng và thường xuyên nâng cao chất lượng công tác đánh giá, phân loại
tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. 3) Luôn chú trọng nâng cao chất lượng, số
lượng đội ngũ đảng viên ở cơ sở ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. 4) Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy cấp
trên có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của tổ chức cơ sở
đảng. 5) Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, coi trọng công
tác tư tưởng trong đảng bộ và nhân dân [33, tr.131-146].
Nếu như số lượng các nghiên cứu có tính hệ thống về xây dựng tổ chức
cơ sở đảng chưa nhiều, thì các nghiên cứu trên từng mặt của công tác này ở các
địa phương lại rất đa dạng. Về công tác tư tưởng, tác giả Nguyễn Thành Công
(2002) có bài “Công tác tư tưởng trong các đảng bộ xã ở tỉnh Hòa Bình” [31].
Với nghiên cứu này, tác giả dành trọng tâm cho việc trình bày 5 giải pháp: Xây


18
dựng một đội ngũ báo cáo viên từ tỉnh đến cơ sở, coi trọng đội ngũ báo cáo
viên của các đảng ủy xã; Xây dựng chương trình hành động phải xuất phát từ
tình hình thực tiễn của đảng bộ; Công tác tư tưởng phải đặt trọng tâm vào việc
giải đáp thỏa đáng những vấn đề bức xúc nổi cộm; Thường xuyên tổ chức giao
ban, rút kinh nghiệm; Có chính sách đãi ngộ, đào tạo cán bộ tuyên giáo ở cấp
xã. Cũng bàn đến công tác tư tưởng, trong bài “Đảng bộ Yên Bái lãnh đạo, chỉ
đạo nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy xã, phường, thị trấn” [91],
tác giả Trần Thị Thiệp (2003) chỉ rõ trọng yếu của công tác này là: Toàn Đảng
bộ làm công tác tư tưởng đi đôi với kiện toàn, thành lập ban tuyên giáo xã,
phường theo hướng: Phó Bí thư đảng ủy kiêm trưởng ban, Phó Chủ tịch phụ
trách văn xã là phó ban và một cán bộ chuyên trách; tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp ủy, cán bộ tuyên giáo cơ sở [91, tr.41].
Về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở: Tác giả Thân Minh Quế (2007) trong

bài “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường,
thị trấn ở Bắc Giang” [83] đã đánh giá thực tế đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
trước năm 2007, từ đó hệ thống hóa các giải pháp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Bắc Giang về nâng cao năng lực của đội ngũ này. Bài viết của tác giả Bùi Văn
Tiếng (2010), “Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” [95] khẳng
định: Phương án luân chuyển, tăng cường công chức trẻ từ quận, huyện xuống
phường, xã đảm nhiệm những cương vị chủ chốt được xem như khâu đột phá
trong việc tạo nguồn cán bộ lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng” [95, tr.24].
Về công tác kiểm tra ở cơ sở: Khi nghiên cứu về “Công tác kiểm tra ở
Đảng bộ thành phố Hải Dương” [84], tác giả Đinh Đăng Quýnh (1999) đã
khẳng định quan điểm “lãnh đạo phải có kiểm tra” và sự chỉ đạo của Thành ủy
Hải Dương về đổi mới hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra. Nghiên cứu
của tác giả Bùi Anh Tuấn (2009), “Đảng bộ thành phố Hải phòng đổi mới
phương thức kiểm tra, giám sát” [180] đã rút ra 4 kinh nghiệm: Một là, cấp ủy,
tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng có nhận thức đúng,
đầy đủ về vị trí, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát; Hai là, nắm


19
chắc các quy định của Đảng, hướng dẫn của tổ chức đảng cấp trên, chủ động cụ
thể hóa thành các quy định, quyết định, quy chế, quy trình của cấp mình, của
cấp dưới và tổ chức thực hiện nghiêm túc; Ba là, xây dựng, ban hành chương
trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm; Bốn là,
chú trọng phát huy vai trò tham mưu giúp cấp ủy của các ban tham mưu, nhất
là ủy ban kiểm tra trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra.
Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tác giả Minh Hiếu (2004) trong
bài “Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở xã ngoại thành Hà Nội” [56] đã
chỉ rõ việc phát huy dân chủ trong một số khâu cơ bản. Đó là: Dân chủ trong
sinh hoạt cấp ủy và chi bộ; xây dựng, thực hiện quy chế làm việc của đảng ủy;
Dân chủ trong công tác cán bộ; Dân chủ trong triển khai nghị quyết của cấp ủy.

Nghiên cứu “Những kết quả và kinh nghiệm trong thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở của tỉnh Quảng Ninh” [177], tác giả Trịnh Công Toàn (2004) đã rút ra 5
kinh nghiệm: Cấp ủy đảng phải nhận thức đầy đủ và trực tiếp lãnh đạo, kiểm
tra việc thực hiện quy chế dân chủ; Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ từ
tỉnh đến cơ sở phải chủ động, tích cực, tham mưu kịp thời, phân công trách
nhiệm rõ ràng, thường xuyên kiểm tra, sơ kết rút kinh nghiệm; Chú trọng phối
hợp và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Xây
dựng phong cách làm việc gần gũi với nhân dân, sát dân, dân chủ hóa, công
khai hóa; Quá trình thực hiện quy chế dân chủ phải gắn liền với xây dựng, nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở [77, tr.30 - 31]…
1.1.3. Các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Các nghiên cứu liên quan đến củng cố tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn trong những năm khắc phục tình trạng mất
ổn định ở tỉnh Thái Bình
Khắc phục mất ổn định ở Thái Bình là chủ đề thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Liên quan


20
đến vấn đề củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở giai đoạn này, các
nghiên cứu đề cập 2 nhóm vấn đề:
Một là, nguyên nhân căn bản của mất ổn định ở tỉnh Thái Bình:
Tiếp cận vấn đề theo bình diện mâu thuẫn xã hội, trong bài viết “Đôi điều
rút ra từ tình hình phức tạp ở một số địa phương tỉnh Thái Bình” [54], hai tác giả
Xuân Hải - Hà Nhân (1997) đã cho rằng: Ở tỉnh Thái Bình trước năm 1998, quan
liêu, tham nhũng và mất dân chủ là những căn bệnh làm nảy sinh mâu thuẫn về lợi
ích trong nội bộ xã, thôn. “Những mâu thuẫn ấy, có lúc, có nơi đã bùng nổ và khi
nó diễn ra trên diện rộng thì không khỏi gây nên những hậu quả tai hại” [54, tr.42].
Cũng đề cập đến vấn đề này, bài viết “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu

của tổ chức cơ đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở” [57]
của tác giả Trần Đình Hoan (2004), khẳng định nguyên nhân sâu xa của mất ổn
định ở tỉnh Thái Bình là do tổ chức đảng ở cơ sở có nhiều yếu kém. Tác giả khái
quát vấn đề có tính quy luật: “Tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở xã, phường, thị trấn có vững mạnh thì huyện, tỉnh mới vững mạnh và
ngược lại, cơ sở mất ổn định, hệ thống chính trị yếu kém thì sẽ ảnh hưởng toàn
diện đến các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương” [57, tr.2].
Hai là, những giải pháp và kinh nghiệm củng cố tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn trên một số lĩnh vực:
Trên lĩnh vực tư tưởng, từ việc khái quát những thành công của Đảng bộ
huyện Đông Hưng (tỉnh Thái Bình) trong tiến hành công tác tư tưởng, bài viết của
tác giả Nguyễn Thanh Tùng (1999) “Kinh nghiệm công tác tư tưởng ở huyện
Đông Hưng” [181] đã rút ra 4 kinh nghiệm: 1) Trong lúc tình hình phức tạp, cần
phải đánh giá đúng diễn biến tư tưởng của đảng viên, cán bộ và các tầng lớp nhân
dân. 2) Lấy đối thoại làm phương pháp chủ đạo để giải tỏa những luồng tư tưởng
khác lạ. 3) Công tác tư tưởng cần được triển khai trên nhiều lĩnh vực, trong mọi
lúc, mọi nơi, trong đảng, trong các đoàn thể với những nội dung và hình thức
phong phú. 4) Phải biết dựa vào lực lượng nòng cốt của các tổ chức, đoàn thể xã


21
hội để làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân [181, tr.34 - 35]. Cuốn sách
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Bình (2005), Lịch sử ngành Tuyên giáo tỉnh
Thái Bình (1930 - 2005) [22] đã đề cập vai trò của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái
Bình trong việc giúp Tỉnh ủy chuẩn bị và triển khai thực hiện Đề án 26 (năm
1998) về công tác chính trị tư tưởng nhằm khắc phục tình trạng mất ổn định
nhưng chưa phân tích rõ sự chỉ đạo cụ thể.
Trên lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, tổ chức - cán bộ, giải quyết cơ sở đảng
yếu kém, cuốn Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1975 - 2000) [7], chỉ rõ: Công tác
thanh tra, kiểm tra “là giải pháp đặc biệt quan trọng góp phần ổn định tình hình

trong tỉnh” [7, tr.368]. Tác giả Đinh Quang Tốn (1999), khi viết về “Thái Bình
sau một năm thực hiện các giải pháp ổn định tình hình trong Tỉnh” [178] nhấn
mạnh yêu cầu cơ bản của công tác thanh tra, kiểm tra ở cơ sở: “Thanh tra, kiểm
tra phải kết luận rõ đúng, sai, kết luận xong phải xử lý nghiêm, thu hồi kinh tế
nhanh. Kết luận phải không chịu sức ép của bất kỳ ai, đối tượng bị khiếu tố hay
người đầu đơn mà phải trên cơ sở chứng cứ rõ ràng” [178, tr.16]. Nghiên cứu về
“Giải quyết cơ sở đảng yếu kém ở Đông Hưng” [93], tác giả Trần Thu Thủy
(2004) đã chỉ ra 5 giải pháp nhằm giải quyết 6 đảng bộ xã yếu kém của huyện
này trong năm 1999: 1 - Thanh tra kết luận rõ đúng sai, thu hồi tài sản; 2 - Kiện
toàn đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt; 3 - Chấn chỉnh việc thực hiện
chế độ, nguyên tắc sinh hoạt đảng; 4 - Đẩy mạnh phát triển kinh tế, chăm lo đời
sống nhân dân; 5 - Phát huy vai trò chỉ đạo của cấp trên [93, tr.26 - 28]. Ban Tổ
chức Tỉnh ủy Thái Bình (2010) với cuốn sách Lịch sử công tác tổ chức xây dựng
Đảng của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1930 - 2010) [19] đã khẳng định vai trò của
Ban Tổ chức Tỉnh ủy trong giúp Tỉnh ủy Thái Bình hướng dẫn các tổ chức đảng
tiến hành tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa
VIII, hướng dẫn đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên và đại hội đảng bộ
cơ sở; chuẩn bị nhân sự cho bầu cử hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.


22
Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng trong đội ngũ cán bộ cấp xã: Tác giả Nguyễn Công Huyên (1998),
có bài viết “Đi tìm lời giải về hiện tượng An Đồng, Quỳnh Phụ - Thái Bình” [58].
Dưới góc độ “dân chủ hóa”, tác giả khẳng định, muốn không để xảy ra mất ổn
định đòi hỏi phải tích cực củng cố đảng, chính quyền cơ sở gắn với mở rộng
dân chủ. Qua nghiên cứu cách làm tích cực của xã An Đồng, huyện Quỳnh
Phụ, tác giả rút ra kinh nghiệm của Đảng bộ xã An Đồng là: “Thực hiện dân
chủ hóa trong hoạt động lãnh đạo của đảng bộ và chính quyền xã” [58, tr.16].
Cũng bàn đến vấn đề này, bài viết của tác giả Bùi Sĩ Tiếu (2002), “Quy

chế dân chủ với việc ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Thái Bình” [96] nêu
rõ: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần đổi mới phong cách lãnh
đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể theo hướng
khoa học, năng động, gần dân, gắn bó với cơ sở, nâng cao trách nhiệm cá
nhân, hạn chế hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, gây
phiền hà cho nhân dân. “Nhận thức của nhân dân được nâng lên, hiểu thêm
thế nào là dân chủ đi liền với giữ gìn kỷ cương, phép nước” [96, tr.46].
Nghiên cứu về “Bài học xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở xã, phường,
thị trấn qua thực tiễn Thái Bình và Gia Lai” [77], hai tác giả Ngô Minh - Nguyễn
Thúy (2004) nhấn mạnh: “Những lúc khó khăn càng phải mở rộng dân chủ với
những cơ chế, biện pháp thích hợp để phát huy cao độ sự đóng góp công sức,
trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào việc giải quyết tình hình, khắc
phục những sai lầm khuyết điểm, tiếp tục phấn đấu đi lên” [77, tr.18].
Các nghiên cứu liên quan đến xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ sau khi
ổn định tình hình trong Tỉnh:
Giai đoạn này, các nghiên cứu liên quan đến xây dựng tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã tập trung vào các vấn đề:
Về đổi mới công tác tư tưởng: Tái hiện hoạt động công tác tư tưởng ở
cơ sở của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ sau khi đã ổn định tình hình, cuốn Lịch


23
sử ngành Tuyên giáo tỉnh Thái Bình (1930 - 2005) [22] đã phản ánh những
hoạt động công tác tư tưởng trên bốn nội dung: công tác tuyên truyền; công
tác huấn học; công tác khoa giáo; công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử
Đảng. Tuy nhiên, cuốn sách chưa khắc họa rõ nội dung chỉ đạo về công tác tư
tưởng ở cơ sở qua việc khai thác văn kiện của Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy; chủ yếu mới dừng ở việc cung cấp thông tin về kết quả kiện toàn đội ngũ
báo cáo viên, kết quả biên soạn, biên tập, phát hành sách lịch sử Đảng bộ địa

phương ở các đảng bộ cấp xã. Bài viết của tác giả Nguyễn Khúc (2008), “Công
tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng ở Kiến Xương” [62] đã chỉ ra vị trí, vai trò
của công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng; nêu một số hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên ở các đảng bộ xã, thị trấn thuộc huyện Kiến Xương; đề xuất 3
giải pháp: “Quan tâm xây dựng, kiện toàn, củng cố đội ngũ báo cáo viên cả về số
lượng và chất lượng”; “Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tập
huấn nâng cao năng lực báo cáo viên, tuyên truyền viên”; “Hoạt động tuyên
truyện miệng phải tập trung cao cho cơ sở, hướng về cơ sở” [62, tr.47-48].
Về công tác tổ chức - cán bộ: Cuốn Lịch sử công tác tổ chức xây dựng
Đảng của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1930 - 2010) [19] đề cập đến Đề án của
Tỉnh ủy Thái Bình về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ đại học,
cao đẳng, nhưng chưa khái quát và phân tích rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp thực hiện của Tỉnh ủy được thể hiện trong Đề án đó. Bàn về vai trò
của Trường Chính trị tỉnh Thái Bình trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở, tác giả Cao Duy Hạ (2004) có bài “Trường Chính trị tỉnh Thái Bình với
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở” [52]. Trong bài viết này, tác giả đã hệ
thống hóa 6 nhiệm vụ, giải pháp của Nhà trường giai đoạn 2001 - 2005, đó là:
Xác định đúng mục tiêu và đối tượng đào tạo gắn liền với quy hoạch, sử dụng
cán bộ sau đào tạo; Đổi mới, chuẩn hóa chương trình và lựa chọn phương thức
đào tạo phù hợp; Coi trọng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Đặc biệt
quan tâm bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy; Tăng
cường công tác quản lý, thực hiện nghiêm túc các khâu trong quá trình đào tạo;


24
Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác giảng
dạy và học tập [52, tr.49-51].
Về công tác phát triển đảng viên: Tác giả Hồng Minh (2003) có bài
“Phát triển đảng viên vùng Công giáo Thái Bình” [76]. Theo tác giả, để tạo bước
tiến mới trong phát triển đảng viên là người Công giáo ở tỉnh Thái Bình, cần

thực hiện 4 giải pháp: Một là, cần làm cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng
đắn quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo; Hai là, quan tâm xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng có đạo;
Ba là, các huyện ủy định chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể để phát triển đảng viên là
người theo đạo, nơi nào có dân theo đạo thì phải có đảng viên là người có
đạo; Bốn là, mỗi đảng viên có đạo đều phải được phân công công tác, phải
bồi dưỡng, giúp đỡ kết nạp được một đảng viên người công giáo [76, tr.30].
Nghiên cứu về “Phát triển đảng viên là người Công giáo ở Tiền Hải” [183], tác
giả Vũ Xuân Tuyên (2004), đã khái quát kết quả công tác phát triển đảng viên
là người Công giáo trên địa bàn huyện Tiền Hải, trên cơ sở đó, rút ra một số
kinh nghiệm: “Huyện ủy thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức
đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở vùng giáo vững mạnh”; “Các cấp, các
ngành cần tạo điều kiện cho những cơ sở có đông đồng bào giáo dân đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng thêm niềm tin của quần chúng nhân dân
với Đảng”; “Các cấp ủy, tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở tập trung chỉ đạo bằng
các chương trình kế hoạch, làm chuyển biến nhận thức về vai trò của đội ngũ
cán bộ, đảng viên gốc giáo đối với nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp đổi mới vùng
giáo, tích cực tạo nguồn giới thiệu quần chúng ưu tú để tổ chức đảng bồi
dưỡng, kết nạp” [183, tr.30-31].
Về tiếp tục giải quyết cơ sở đảng yếu kém, tác giả Trần Trung Trực (2005),
trong bài “Thái Bình xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh” [179]
đã khẳng định thành công của các cấp ủy trong giải quyết 29 cơ sở đảng ở xã,
phường, thị trấn còn yếu kém những năm 2001 - 2005, qua đó nêu 5 kinh nghiệm:


×