Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của đảng bộ tỉnh thái bình từ năm 1998 đến năm 2005 TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.49 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: Xây dựng Đảng là
nhiệm vụ “then chốt”, quyết định sự phát triển của Đảng và thắng lợi của
cách mạng. Nằm trong vấn đề có tính quy luật đó, xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn có tầm chiến lược lâu dài; là công tác xây dựng
“nền tảng” của Đảng, xây dựng “hạt nhân chính trị”, bảo đảm sự tồn tại, phát
triển và giữ vững vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ở cơ sở.
Từ khi thành lập, do chăm lo công tác xây dựng Đảng, với bản lĩnh,
năng lực và uy tín của mình, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã lãnh đạo nhân
dân trong tỉnh làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp
phần vào thắng lợi chung của Đảng và dân tộc. Nhưng vào thập niên cuối
thế kỷ XX, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã mắc phải khuyết điểm lớn: Buông
lỏng công tác xây dựng Đảng, nhất là ở cơ sở cấp xã. Hàng loạt yếu kém
trong tổ chức đảng đã bộc lộ; đáng báo động là tình trạng mất dân chủ,
tham nhũng, quan liêu trong bộ máy cấp ủy cơ sở diễn ra phổ biến, chậm
được khắc phục. Lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy đảng bị suy giảm
nghiêm trọng; khiếu kiện xảy ra ở nhiều nơi, gây mất ổn định từ cục bộ
đến diện rộng. Khá nhiều tổ chức đảng ở cơ sở sa sút về phẩm chất, năng
lực, thậm chí có những nơi cấp ủy tê liệt, mất sức chiến đấu, không giữ
được vai trò lãnh đạo. Mặc dù những tháng cuối năm 1997, Đảng bộ đã
có giải pháp bước đầu hướng vào củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn, mang lại một số kết quả, nhưng chưa có tính toàn diện, và trên
thực tế vẫn chưa đủ sức để xoay chuyển tình hình.
Trước yêu cầu cấp bách phải củng cố tổ chức đảng ở cơ sở, quán
triệt chủ trương, sự chỉ đạo của Trung ương, giai đoạn 1998 - 2005, Đảng
bộ tỉnh Thái Bình đã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị ở địa
phương để cùng vào cuộc, tập trung củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn. Mặc dù còn những hạn chế, thiếu sót, song
thành công của Đảng bộ trong công tác này là một trong những nhân tố


giữ vai trò quyết định đưa tỉnh Thái Bình ra khỏi tình trạng mất ổn định,
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới ở địa phương.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII đã và đang được triển khai thực hiện quyết liệt từ Trung ương tới các
địa phương, trong đó có Đảng bộ tỉnh Thái Bình. Bên cạnh những thành
tựu đạt được, công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
vẫn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, có những hạn chế, yếu kém kéo dài,


2
làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và sự lãnh đạo của
Đảng trong thời kỳ mới. Vì vậy, rất cần có những khảo cứu chuyên sâu từ
địa phương, cơ sở, nhằm tìm kiếm kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo,
kịp thời bổ sung chủ trương, giải pháp mới, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đến nay, tuy đã có những công trình khoa học đề cập chung đến
công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trên phạm vi cả nước và ở một số
đảng bộ địa phương, song dưới góc độ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, hệ thống, chuyên sâu
về sự lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
Từ những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Công tác xây dựng tổ chức
cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998
đến năm 2005” làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong xây dựng tổ

chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn giai đoạn 1998 - 2005, qua đó đúc rút
kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các đảng bộ địa phương và Đảng bộ
tỉnh Thái Bình.
* Nhiệm vụ:
- Luận giải làm rõ tính cấp bách củng cố, đổi mới, nâng cao chất lượng xây
dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong
những năm 1998 - 2005.
- Hệ thống hóa và làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
- Nhận xét, đánh giá về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2005 trên cả hai bình diện ưu
điểm và hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Sự lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005).
* Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và chỉ đạo xây
dựng tổ chức cơ sở đảng thuộc loại hình xã, phường, thị trấn (trong đó loại
hình cơ sở xã là chủ yếu - với tỷ lệ 95,43%), trên các lĩnh vực: tư tưởng; tổ


3
chức - cán bộ, đảng viên; kiểm tra, xử lý kỷ luật; đổi mới phương thức lãnh
đạo và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng tổ chức đảng.
Không gian: Địa bàn tỉnh Thái Bình.
Thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2005. Đồng thời có mở rộng
nghiên cứu trước và sau khoảng thời gian đó.
Mốc mở đầu để nghiên cứu là năm 1998. Nếu trước đó, việc xây dựng
tổ chức đảng ở cơ sở bị buông lỏng, dẫn đến mất ổn định trên phạm vi

rộng, thì từ năm 1998, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã ưu tiên cho việc hoạch
định chủ trương và chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn và đã thành công trong vấn đề này, góp phần đưa địa phương đi vào ổn
định và tiếp tục phát triển.
Mốc thời gian kết thúc để nghiên cứu của luận án là năm 2005. Tính
đến thời điểm này, tình hình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình tuy có mặt còn hạn chế, song thành công
đạt được là rất căn bản, để lại những kinh nghiệm rất cần được tổng kết.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng và tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
* Cơ sở thực tiễn:
Là thực tiễn hoạt động lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998-2005). Theo đó:
Luận án khai thác, sử dụng số liệu thống kê của Văn phòng Ban Tổ
chức Trung ương; các văn kiện và số liệu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng
của Đảng bộ tỉnh Thái Bình được lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Kho
Lưu trữ Văn Phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Tỉnh ủy Thái Bình.
Luận án sử dụng kết quả khảo sát thực tiễn và phỏng vấn nhân
chứng lịch sử ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình; các số liệu tổng hợp của các
ban xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thuộc Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân
dân tỉnh Thái Bình liên quan đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học Lịch sử
Đảng, trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic:
Phương pháp lịch sử được dùng chủ yếu trong chương 2 và chương 3,
có kết hợp với phương pháp lôgic nhằm làm rõ những yếu tố tác động từ

điều kiện lịch sử và nội dung các sự kiện liên quan trực tiếp đến chủ trương


4
và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn qua 2 phân đoạn: 1998 - 2000 và 2001 - 2005.
Phương pháp lôgic giữ vai trò chủ đạo, kết hợp với phương pháp lịch
sử, phương pháp so sánh, dùng để thực nhiệm vụ của chương 4, nhằm đưa ra
những nhận xét và đúc kết một số kinh nghiệm xây dựng tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005.
Đồng thời với việc sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê, phỏng
vấn,... được sử dụng một cách linh hoạt để làm rõ các nội dung của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống, khái quát hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn từ năm
1998 đến năm 2005.
Đưa ra những nhận xét, đánh giá về quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh
đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn giai đoạn 1998 - 2005.
Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình
lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn (1998 - 2005).
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc tổng kết công tác
lãnh đạo của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn
trong thời kỳ đổi mới (qua thực tiễn Đảng bộ tỉnh Thái Bình). Luận án góp
thêm luận cứ khoa học cho việc bổ sung, phát triển chủ trương, giải pháp
xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn trong thời gian tới.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Những kinh nghiệm trong luận án có giá trị tham khảo đối với công tác

xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của đảng bộ cấp tỉnh.
Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng
dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như lịch sử đảng bộ địa
phương trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (10 tiết), Kết luận, Danh mục các
công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, Danh mục
tài liệu tham khảo và Phụ lục.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến những vấn đề chung về xây
dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn trên phạm vi cả nước
Các nghiên cứu bàn về vai trò, đặc điểm tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
Vấn đề này được bàn đến trong các nghiên cứu: Nguyễn Văn Cư
(2000), “Tổ chức cơ sở đảng với việc giữ vững ổn định chính trị ở nông
thôn”; Hoàng Chí Bảo (2002), “Vai trò của cơ sở và sự cần thiết phải đổi
mới hệ thống chính trị cơ sở”; Hoàng Chí Bảo (2005), “Đảng bộ xã lãnh
đạo việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay”; Trần
Hậu Thành (2007), “Mười cái nhất ở cơ sở”,…
Các nghiên cứu liên quan đến xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn:
Lê Khả Phiêu (1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở”; Ban Biên tập Tạp chí Lịch sử
Đảng (2004),“Tổng quan Hội thảo về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn”; Nguyễn Văn Giang

(2006), “Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội X”; Nguyễn Đức Hà (2010), Một số vấn đề về xây
dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay; Vụ Cơ sở đảng - Ban Tổ chức Trung
ương (2010), Về công tác chi bộ ở xã, phường, thị trấn; Dương Trung Ý
(2013), Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Phạm Mạnh Khởi
(2013), “Nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức cơ sở đảng cấp xã”…
1.1.2. Các nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng (có liên
quan đến tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn) ở một số đảng bộ
tỉnh, thành phố
Một số nghiên cứu về củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém: Lê Văn
Tuyến (2004), “Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở Hải Dương”;;
Đổng Công Thuận (2004), “Củng cố cơ sở đảng yếu kém ở Yên Bái - Giải
pháp đồng bộ, cụ thể”; Phạm Thu Huyền (2005), “An Dương giải quyết cơ
sở đảng yếu kém”,…
Các nghiên cứu có tính hệ thống về xây dựng tổ chức cơ sở đảng liên
quan đến xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn: Trần Thị Thu
Hằng (2012), Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Thành
phố Hà Nội từ năm 1996 đến năm 2005; Đỗ Ngọc Ninh và Đinh Ngọc
Giang (2013), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ tổ dân phố của các
quận ở Thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay và bài viết “Những kinh
nghiệm của Tỉnh ủy Bắc Giang về nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu


6
của tổ chức cơ sở đảng”; Vũ Thị Duyên (2016), Công tác xây dựng tổ chức
cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2010.
Nghiên cứu trên một số mặt công tác cụ thể:
Về công tác tư tưởng, có: Nguyễn Thành Công (2002), “Công tác tư
tưởng trong các đảng bộ xã ở tỉnh Hòa Bình”; Trần Thị Thiệp (2003), “Đảng

bộ Yên Bái lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy
xã, phường, thị trấn”… Về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, có: Thân Minh
Quế (2007), “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang”; Bùi Văn Tiếng (2010), “Tạo nguồn
cán bộ lãnh đạo phường, xã ở Đà Nẵng”… Về công tác kiểm tra ở cơ sở có
Đinh Đăng Quýnh (1999), “Công tác kiểm tra ở Đảng bộ thành phố Hải
Dương”; Bùi Anh Tuấn (2009), “Đảng bộ thành phố Hải phòng đổi mới
phương thức kiểm tra, giám sát”,… Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,
tác giả Minh Hiếu (2004), “Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở xã
ngoại thành Hà Nội”; Trịnh Công Toàn (2004), “Những kết quả và kinh
nghiệm trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của tỉnh Quảng Ninh”,…
1.1.3. Các nghiên cứu liên quan trực tiếp đến xây dựng tổ chức
cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Các nghiên cứu liên quan đến củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn trong những năm khắc phục tình trạng mất ổn định ở tỉnh Thái Bình
Có các công trình đáng chú ý, như: Xuân Hải, Hà Nhân (1997), “Đôi
điều rút ra từ tình hình phức tạp ở một số địa phương tỉnh Thái Bình”;
Nguyễn Công Huyên (1998), “Đi tìm lời giải về hiện tượng An Đồng,
Quỳnh Phụ - Thái Bình”; Đinh Quang Tốn (1999), “Thái Bình sau một
năm thực hiện các giải pháp ổn định tình hình trong Tỉnh”; Nguyễn Thanh
Tùng (1999), “Kinh nghiệm công tác tư tưởng ở huyện Đông Hưng”; Bùi
Sĩ Tiếu (2002), “Quy chế dân chủ với việc ổn định, phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Thái Bình”; Trần Đình Hoan (2004), “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống
chính trị ở cơ sở”; Ngô Minh, Nguyễn Thúy (2004), “Bài học xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn qua thực tiễn Thái
Bình và Gia Lai”; Trần Thu Thủy (2004), “Giải quyết cơ sở đảng yếu kém
ở Đông Hưng”; Phạm Đức Tiến (2005), “Chống tham nhũng trong đội ngũ
cán bộ xã ở Thái Bình - Một số bài học kinh nghiệm”,..
Các nghiên cứu liên quan đến xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị

trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ sau khi ổn định tình hình trong Tỉnh:
Các nghiên cứu tiêu biểu như: Hồng Minh (2003), “Phát triển đảng viên
vùng Công giáo Thái Bình” ; Vũ Xuân Tuyên (2004), “Phát triển đảng viên
là người Công giáo ở Tiền Hải”; Cao Duy Hạ (2004), “Trường Chính trị tỉnh
Thái Bình với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở”; Trần Trung Trực
(2005), “Thái Bình xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh”;


7
Nguyễn Khúc (2008), “Công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng ở Kiến
Xương”; Đinh Ngọc Chính (2013), “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007”…
1.2. Khái quát kết quả của các công trình có liên quan đến đề tài
luận án và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả của các công trình có liên quan đến đề tài luận án
Một là, các công trình nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn trên phạm vi cả nước đã khẳng định khá rõ vị trí, vai trò của
tổ chức cơ sở đảng cấp xã trong hệ thống chính trị cơ sở, trong lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định chính trị - xã hội; chỉ ra đặc điểm, xác
định tiêu chí đánh giá tổ chức cơ sở đảng cấp xã. Một số công trình đã đánh giá
thực trạng, đề xuất giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh, củng cố cơ sở đảng yếu kém. Đã có công trình đúc rút được kinh
nghiệm xây dựng, song đó là kinh nghiệm tự xây dựng của bản thân cơ sở,
chưa thể hiện được “tính chất lãnh đạo” của cấp ủy cấp trên cơ sở.
Hai là, các công trình nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở
một số địa phương, trong đó có một số công trình thực hiện dưới góc độ
chuyên ngành Lịch sử Đảng đã làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo, nhận xét,
rút ra kinh nghiệm xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở đảng bộ cấp tỉnh, thành
phố (như Hà Nội, Bắc Giang, Hưng Yên). Tuy nhiên, vấn đề xây dựng tổ
chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn hoặc được tích hợp vào nội dung

xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói chung, hoặc mới nghiên cứu ở một số
khía cạnh đơn lẻ. Các công trình này đã khái quát được thực trạng; nêu
lên những cách làm với những nét khác nhau ở mỗi địa phương; đúc rút
kinh nghiệm, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng từng mặt.
Ba là, các công trình nghiên cứu thuộc phạm vi Đảng bộ tỉnh Thái
Bình đã đề cập đến thực trạng, kiến nghị giải pháp và bước đầu nêu lên
kinh nghiệm tương ứng với mỗi lĩnh vực cụ thể, có liên quan đến xây dựng
tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn. Các nghiên cứu trong những năm
1998 - 2000 có xu hướng hoặc tìm hiểu nguyên nhân, hoặc rút kinh
nghiệm, đề xuất giải pháp củng cố tổ chức đảng trên từng lĩnh vực như: tư
tưởng, thanh tra, kiểm tra, kiện toàn tổ chức - cán bộ, thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở,.. Những năm 2001 - 2005, nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ
sở đảng cấp xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ,
giải pháp về công tác tư tưởng, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở,
công tác phát triển đảng viên đáp ứng yêu cầu mới.
Những kết quả trên là nguồn tư liệu quý để tác giả tham khảo, kế thừa
trong thực hiện luận án, song qua đây cũng cho thấy còn có những vấn đề


8
chưa được được giải quyết thấu đáo về mặt khoa học, gợi mở cho nghiên
cứu sinh một hướng đi cụ thể khi lựa chọn và thực hiện đề tài luận án:
1. Qua tổng quan, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập có hệ thống
chủ trương của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
2. Dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng, chưa có công trình nào
nghiên cứu toàn diện, độc lập về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng cấp xã.
3. Ở phạm vi Đảng bộ tỉnh Thái Bình, giai đoạn 1998 - 2005, đến nay
chưa có công trình nào hệ thống hóa, phân tích một cách toàn diện, sâu sắc
về chủ trương, sự chỉ đạo, đưa ra nhận xét, đúc rút kinh nghiệm Đảng bộ
tỉnh Thái Bình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.

Vì thế, vấn đề “Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2005” vẫn là
một “khoảng trống” trong đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Chọn vấn đề này làm đề
tài luận án là một hướng nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với các
công trình đã công bố.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, trong luận án, tác giả tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ các vấn đề:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và quá trình Đảng bộ tỉnh Thái
Bình lãnh đạo củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn (1998 - 2000)
Hai là,làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đổi mới,
nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
(2001 - 2005)
Ba là, nhận xét, đánh giá về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005
Bốn là, đúc rút kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình xây dựng tổ chức cơ
sở đảng ở xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005)
Kết luận chương 1
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, tác
giả luận án đã hệ thống hóa, khái quát kết quả nghiên cứu của các công
trình, tiếp thu được những nội dung có thể tham khảo, kế thừa; đồng thời,
chỉ ra những vấn đề chưa được đề cập hoặc đã đề cập nhưng chưa được
nghiên cứu làm rõ. Vận dụng phương pháp luận trong xác định đối tượng
nghiên cứu lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả
đã chỉ ra được những “khoảng trống” mà luận án sẽ tập trung giải quyết.
Đó là: Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình
lãnh đạo củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn (1998 - 2000);
làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đổi mới, nâng cao chất
lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn (2001 - 2005);



9
nhận xét, đánh giá về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005; đúc rút những kinh
nghiệm chủ yếu từ quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005. Những vấn đề này được
được giả trình bày, luận giải trong các chương tiếp theo của luận án.
Chương 2
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH CỦNG CỐ TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN (1998 - 2000)
2.1. Tính cấp bách củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
2.1.1. Vị trí, vai trò, chức năng, đặc điểm tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn
Trong luận án, tác giả đã đưa ra quan niệm:
Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn là đảng bộ (chi bộ) được
thành lập và hoạt động ở đơn vị hành chính cấp xã, là một bộ phận lập
thành nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo trực tiếp và toàn
diện các hoạt động ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Xét về vị trí, vai trò, tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn là tổng thể
các hoạt động hoạch định chủ trương và chỉ đạo xây dựng các đảng bộ (chi
bộ) cơ sở thuộc loại hình này, đảm bảo thực hiện tốt chức năng hạt nhân
chính trị lãnh đạo toàn diện các hoạt động ở cơ sở.
Mục đích của công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn nhằm làm cho các tổ chức này thực hiện tốt 2 chức năng cơ bản: Một
là, giữ vững sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với hệ thống chính trị và mọi
mặt hoạt động của cơ sở. Hai là, xây dựng nội bộ tổ chức đảng vững mạnh.

Xây dựng tổ chức đảng ở loại hình này đòi hỏi nắm vững các đặc điểm:
1) Đây là loại tổ chức cơ sở đảng gần dân nhất.
2) Đây là loại tổ chức cơ sở đảng duy nhất trực tiếp lãnh đạo chính
quyền và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị cơ sở.
3) Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn lãnh đạo mọi lĩnh vực công
tác ở cơ sở, với tổng thể các nhiệm vụ diễn ra đồng thời, đan xen nhau.
2.1.2. Đặc điểm và thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình giai đoạn 1991 - 1997
* Đặc điểm tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Một bộ phận lớn cán bộ, đảng viên thuộc tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình chịu ảnh hưởng của tư tưởng
tiểu nông do yếu tố sản xuất nhỏ chi phối.


10
Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình hoạt
động trong môi trường địa phương có bề dày truyền thống văn hóa và cách mạng
Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình tổ
chức theo mô hình tổ chức cơ sở đảng hai cấp, số đảng bộ, chi bộ ở nông
thôn và cán bộ, đảng viên xuất thân từ nông dân chiếm tỷ lệ đa số.
* Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở
Đảng bộ tỉnh Thái Bình những năm 1991-1997
Những năm 1991-1997, chủ trương xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình được đặt trong chủ trương
chung về công tác xây dựng Đảng. Quá trình thực hiện đã đạt được những
kết quả nhất định. Tuy nhiên, nhìn chung, sự lãnh đạo củng cố tổ chức cơ
sở đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình giai đoạn 19911997 còn bộc lộ những khuyết điểm lớn:
Một là, công tác tư tưởng còn thụ động.
Hai là, công tác tổ chức - cán bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên ở cơ sở
“một thời gian dài bị coi nhẹ”.

Ba là, nhiều cán bộ cơ sở “tham nhũng, tiêu cực, làm giàu bất chính, lề lối
tác phong quan liêu, độc đoán chuyên quyền, mất dân chủ nghiêm trọng”.
Bốn là, công tác kiểm tra mang tính hình thức, chạy theo sự vụ.
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém là do công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình bị buông
lỏng. Xét về trách nhiệm lãnh đạo, những năm 1991-1997, Đảng bộ tỉnh
Thái Bình chưa có một chủ trương đồng bộ, toàn diện về vấn đề này. Việc
chỉ đạo của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở trên nhiều mặt cũng bị buông
lỏng, dẫn đến những yếu kém ngày càng nghiêm trọng.
2.1.3. Thực trạng, nguyên nhân mất ổn định chính trị - xã hội trên địa
bàn tỉnh Thái Bình trước năm 1998 và yêu cầu cấp thiết đặt ra
* Diễn biến mất ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình
Một là, bức xúc trước tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất dân
chủ nghiêm trọng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên ở cơ sở làm bùng
phát khiếu kiện của nhân dân, tính chất ngày càng gay gắt.
Hai là, lợi dụng tình hình, các hành động cực đoan quá khích, vi phạm
pháp luật diễn ra nghiêm trọng.
Ba là, khi xảy ra tình hình phức tạp, cấp ủy đảng cơ sở một số nơi
bị tê liệt, mất sức chiến đấu, có nơi bất lực không giữ được vai trò lãnh
đạo; việc chống tham nhũng diễn ra tự phát.
* Phạm vi, mức độ và hậu quả mất ổn định ở Thái Bình:
Về phạm vi, mất ổn định xảy ra trên diện rộng ở phần lớn cơ sở cấp
xã trên tất cả các huyện, thị trong tỉnh.
Về mức độ, mất ổn định ngày càng phức tạp, lúc cao điểm đã phát
triển thành vấn đề chính trị nghiêm trọng.


11
Về hậu quả, mất ổn định để lại hậu quả nặng nề về nhiều mặt, làm suy
giảm vai trò, uy lực của cấp ủy, chính quyền cơ sở…

* Nguyên nhân mất ổn định và yêu cầu cấp thiết đặt ra
Mất ổn định ở Thái Bình trước năm 1998 bắt nguồn từ cả yếu tố
khách quan và chủ quan. Song, việc buông lỏng công tác xây dựng Đảng,
nhất là ở cơ sở cấp xã là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu nhất.
Chính vì vậy, để khắc phục mất ổn định, trong nhiều vấn đề phải giải
quyết, việc khắc phục yếu kém để củng cố lại các tổ chức đảng ở cơ sở cấp
xã, nhất là ở những nơi bị tê liệt, có khiếu kiện gay gắt là nhiệm vụ bức bách.
2.1.4. Chủ trương của Đảng về củng cố tổ chức cơ sở đảng và sự chỉ đạo của Bộ
Chính trị về củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
* Chủ trương của Đảng về củng cố tổ chức cơ sở đảng
Quyết định đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng xây dựng, củng cố nền tảng
của Đảng. Chủ trương đó thể hiện tập trung ở Đại hội VIII (6-1996), các chỉ
thị của Bộ Chính trị (khóa VIII), nhất là Chỉ thị 21-CT/TW (ngày 10-101997) Về một số công việc cấp bách ở nông thôn, Chỉ thị 30-CT/TW (ngày
18-2-1998) Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Nghị
quyết số 10-NQ/TW (ngày 2-2-1999) của Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII Về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Trong các văn kiện trên, Đảng
đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng.
* Chỉ đạo của Bộ Chính trị về củng cố tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn đối với Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Từ tháng 5-1997 đến tháng 3-1998, Bộ Chính trị đã ra các thông báo:
Số 79-TB/TW (ngày 5-7-1997), Thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ
Chính trị về tình hình xảy ra gần đây ở huyện Quỳnh Phụ và một số xã
khác của tỉnh Thái Bình; Số 90-TB/TW (ngày 18-9-1997), Thông báo ý
kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về tình hình Thái Bình. Ngày 18-10-1997,
Bộ Chính trị đã ra Quyết định số 94 - QĐ/TW Về giải quyết tình hình ở
Thái Bình. Đến ngày 4-3-1998, Bộ Chính trị ra Kết luận số 111-TB/TW,
Kết luận của Bộ Chính trị về tình hình Thái Bình. Trong các thông báo,
quyết định, kết luận nêu trên, cùng với nhiều vấn đề phải giải quyết, Bộ

Chính trị đã yêu cầu Đảng bộ tỉnh Thái Bình tập trung củng cố tổ chức cơ
sở đảng xã, phường, thị trấn với những công việc chủ yếu:
1) Thông báo công khai cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
toàn tỉnh về tình hình xảy ra, phân tích đúng đắn nguyên nhân của sự
việc, nhất là những yếu kém trong tổ chức đảng ở cơ sở.
2) Tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ; các
tổ chức đảng, cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải trực tiếp phê bình trước nhân dân;
nói rõ chủ trương sửa chữa những việc làm không đúng.


12
3) Rà soát lại đội ngũ cốt cán, cán bộ tốt phải kiên quyết bảo vệ, cán bộ có
khuyết điểm, không được dân tín nhiệm thì phải thay thế, tập trung củng cố tổ
chức đảng làm cơ sở để cấp ủy Đảng lãnh đạo củng cố chính quyền cơ sở.
4) Phân công các ủy viên trong ban chấp hành, ban thường vụ tỉnh,
huyện trực tiếp chỉ đạo củng cố các đảng bộ xã yếu kém.
5) Thanh tra, kiểm tra kết luận sớm, làm rõ sai phạm của cán bộ,
đảng viên. Sớm đưa ra xử lý, xét xử nghiêm những cán bộ tham nhũng
để nhân dân thấy thái độ rõ ràng nghiêm minh của Đảng và Nhà nước.
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
2.2.1. Quan điểm chỉ đạo
Ngày 12-01-1998, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình ban hành
Nghị quyết số 06-NQ/TU Về những chủ trương, giải pháp ổn định tình
hình trong tỉnh. Trong Nghị quyết này, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã dành sự
ưu tiên với 4 nội dung đề cập xoay quanh vấn đề củng cố tổ chức đảng ở
cơ sở xã, phường, thị trấn. Ngày 30-3-1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái
Bình đã ban hành Đề án số 26-ĐA/TU Về công tác chính trị tư tưởng. Ngày
8-4-1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục ban hành Đề án số 27-ĐA/TU Về
củng cố đảng, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Ngày 16-9-1999, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã thông qua

Chương trình hành động số 35-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) Về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Nghị quyết 06, các Đề án 26, 27, Chương trình 35 của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình đã xác lập chủ trương củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn, thể hiện trước hết ở các quan điểm chỉ đạo:
Một là, củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn là nhiệm vụ cấp
bách, là vấn đề then chốt góp phần quyết định ổn định tình hình trong tỉnh
Hai là, củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn phải đồng
bộ, toàn diện; việc chỉ đạo củng cố phải sát đúng với tình hình thực tế
Ba là, củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn phải bảo đảm nguyên tắc,
phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương; chống cục bộ, bè phái, phe cánh
2.2.2. Phương hướng, mục tiêu
Phương hướng, mục tiêu chung:
Củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn phải đạt mục tiêu
sớm ổn định tình hình. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin
của nhân dân vào cấp ủy… vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, vừa
tạo điều kiện ổn định lâu dài.
Mục tiêu cụ thể:
1) Thống nhất nhận thức, tạo được niềm tin của cán bộ, đảng viên
và nhân dân vào chủ trương củng cố tổ chức đảng …


13
2) Hoàn thành cơ bản việc củng cố, kiện toàn cấp ủy, đội ngũ cán bộ, đảng viên
ở cơ sở; giải quyết cơ bản các cơ sở đảng yếu kém. Đến năm 2000 có trên 50% đảng
bộ xã, phường, thị trấn đạt trong sạch, vững mạnh, không còn cơ sở yếu kém.
3) Cơ bản tiến hành xong kiểm tra, thanh tra đối với những vấn đề
khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân dân.
4) Củng cố mối quan hệ giữa tổ chức đảng với nhân dân, khắc phục tình trạng

tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở...


14

2.2.3. Nhiệm vụ, giải pháp

Thứ nhất, công tác chính trị tư tưởng phải hướng mạnh về cơ sở, nhằm
ổn định tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân
Thứ hai, khẩn trương kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm đối với cấp
ủy, cán bộ, đảng viên ở cơ sở
Thứ ba, củng cố tổ chức, kiện toàn cán bộ, đảng viên; chấn chỉnh, đưa
việc chấp hành chế độ công tác Đảng ở cơ sở đi vào nền nếp
Thứ tư, phát huy vai trò của nhân dân tham gia củng cố tổ chức đảng
2.3. Đảng bộ tỉnh Thái Bình chỉ đạo củng cố tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn
2.3.1. Chỉ đạo ổn định tình hình chính trị tư tưởng trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên và nhân dân
Thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương củng
cố tổ chức cơ sở đảng, góp phần sớm ổn định tình hình. Năm 1998, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy quyết định thành lập 9 tổ công tác xuống cơ sở chỉ đạo triển khai thực
hiện Nghị quyết 06, Đề án 26, 27. Thực hiện chỉ đạo đó, đại bộ phận đảng viên,
nhân dân đã hiểu đúng bản chất sự việc, tin tưởng, ủng hộ chủ trương củng cố tổ
chức cơ sở đảng để sớm ổn định tình hình…
Đưa chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII vào quán triệt, thực hiện tại đảng bộ xã, phường, thị trấn.
Ngày 16-9-1999, Tỉnh ủy Thái Bình ban hành Hướng dẫn số 34-HD/TU,
Hướng dẫn triển khai thực hiện bước 1 Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bước 2 Cuộc vận động được tiến
hành với trọng tâm là tiến hành tự phê bình và phê bình. Ngày 7-6-2000,

Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Hướng dẫn 361-HD/TU, Triển khai thực
hiện bước 3 Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)…
Củng cố hoạt động báo cáo viên; tăng cường đi cơ sở, đối thoại trực tiếp với
nhân dân; sử dụng tổng hợp các phương tiện tiến hành công tác tư tưởng. Ngày 01-41999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế 33-QC/TU, Quy chế báo cáo
viên. Năm 1999, báo cáo viên có trên 600 người (cấp xã có 350 người). Toàn tỉnh đã
tổ chức hàng nghìn buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân. Mỗi tháng có 5000 “Bản
tin nội bộ” gửi tới các chi bộ. Hệ thống truyền hình, truyền thanh được trang bị đến
thôn, xóm. Các bài phát biểu của lãnh đạo, những bài tuyên truyền, những thông tin
xử lý cán bộ, đảng viên được công khai, giúp nhân dân hiểu rõ, tin tưởng, tích cực
ủng hộ chủ trương củng cố tổ chức đảng của cấp ủy địa phương…
2.3.2. Chỉ đạo kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra với công tác thanh tra, xử lý kỷ luật
Thanh tra toàn diện đối với cơ sở phục vụ cho kiểm tra, xử lý vi phạm.
Ngày 10-3-1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 11-CT/TU Về công
tác thanh tra, kiểm tra. Triển khai thực hiện, toàn tỉnh huy động 3075 người,
thành lập 242 đoàn thanh tra ở 242 xã, thị trấn. Cuối năm 1999, về cơ bản đã
hoàn thành thanh tra ở các xã, phường, thị trấn có thanh tra.


15
Kiểm tra, kỷ luật thích đáng tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm.
Tỉnh ủy Thái Bình đã chỉ đạo xiết chặt công tác kiểm tra đối với tất cả cấp
ủy cơ sở và cán bộ, đảng viên. Tính đến cuối năm 2000, cấp ủy và Ủy ban
kiểm tra các cấp đã ra quyết định: Kỷ luật 54 tập thể cấp ủy cơ sở (khiển
trách 32, cảnh cáo 22). Kỷ luật 2.538 cán bộ, đảng viên (khiển trách 920,
cảnh cáo 847, cách chức 294, khai trừ 447), trong đó có 1.434 cán bộ cấp
xã, phường, thị trấn bị kỷ luật.
2.3.3. Chỉ đạo củng cố, kiện toàn cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên
Kiên quyết thay thế cán bộ vi phạm, làm trong sạch bộ máy cấp ủy cơ sở.
Tính đến tháng 10-2000, toàn Đảng bộ đã kiện toàn được 195/209 cấp ủy
cơ sở xã, thị trấn (đạt 93,30%), đưa ra khỏi Ban Chấp hành 660 người. Số

cấp ủy viên mới bổ sung là 450 người.
Gấp rút tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch lại cán bộ cơ sở; tích
cực phát triển đảng viên mới. Cùng với luân phiên đào tạo cán bộ tại chức,
Tỉnh ủy Thái Bình ưu tiên chỉ đạo công tác tạo nguồn từ quân nhân hoàn thành
tốt nghĩa vụ. Các huyện, thị ủy gấp rút tổ chức bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Đã
tập huấn, bồi dưỡng cho gần 4000 cán bộ cơ sở, bí thư chi bộ và xóm trưởng..
Những năm 1998 - 2000, 100% xã, phường, thị trấn kết nạp được đảng viên.
Trong số kết nạp mới, tuổi trẻ 68,2%; đảng viên là giáo dân 0,44%.
Chấn chỉnh, đưa chế độ công tác Đảng ở cơ sở đi vào nền nếp. Ngày
06-4-1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị 12-CT/TU Về việc tăng cường
công tác quản lý đảng viên, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Ngày 11-8-1998, Ban Tổ chức Tỉnh ủy ban hành Hướng dẫn 02-HD/TC,
Hướng dẫn xây dựng quy chế làm việc của đảng ủy xã, phường, thị trấn…
Việc thực hiện chế độ công tác Đảng và phân loại tổ chức đảng ở xã,
phường, thị trấn được chỉ đạo nghiêm túc. Trước năm 1998 số đảng bộ
cấp xã yếu kém là 134/285 (47,02%), đến năm 2000 đã giảm mạnh, chỉ
còn 29/285 cơ sở yếu kém (10,17%).
2.3.4. Chỉ đạo phát huy vai trò của nhân dân trong củng cố tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Phát huy vai trò của nhân dân trong củng cố tổ chức cơ sở đảng thông
qua xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã:
Thứ nhất, thể chế những quan điểm chỉ đạo.
Thứ hai, xác định 38 vấn đề trong thực hiện quy chế.
Thứ ba, chỉ ra 3 bước thực hiện của đảng bộ xã, phường, thị trấn:
Bước 1 - Triển khai ở đảng bộ xã, phường, thị trấn.
Bước 2 - Triển khai ở thôn, xóm, tổ dân phố.
Bước 3 - Tổ chức thực hiện các nội dung đã xác định trong quy chế,
với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.



16
Kết luận chương 2
Là nơi có truyền thống cách mạng điển hình, song việc buông lỏng xây
dựng tổ chức đảng ở cơ sở cấp xã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng trong năm
1997 và kéo sang một số năm sau, thách sự tồn tại của Đảng bộ là bài học đắt
giá đối với Đảng bộ tỉnh Thái Bình. Những năm 1998 - 2000, Đảng bộ tỉnh
Thái Bình đã tập trung mọi cố gắng để hoạch định chủ trương và chỉ đạo
củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn. Quá trình thực hiện, đạt
những kết quả rất cơ bản, góp phần giải quyết thành công tình trạng mất ổn
định chính trị - xã hội ở địa phương, chứng minh chủ trương của Đảng bộ đề
ra là khả thi, sát đúng. Thành công này mở ra một trang mới trong lịch sử
công tác xây dựng Đảng ở xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
Chương 3
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH (2001 - 2005)
3.1. Sự cần thiết đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức
cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình
3.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới, nâng cao chất lượng
xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn những năm đầu thế kỷ XXI
Đại hội IX của Đảng (4-2001) chủ trương:
Về phương hướng: Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm
vững và thực hiện đúng chức năng hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở…
Trên cơ sở đó, Đại hội xác định 5 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nằm đổi
mới, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng.
Ngày 18-3-2002, tại Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa IX) đã ra Nghị quyết số 17-NQ/TW Về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, đã chủ trương đổi mới,

nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn:
Một là, nâng cao nhận thức và làm đúng vai trò hạt nhân chính trị
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Nghị quyết số 17 cũng đã đề cập 2 vấn đề có liên quan đến đổi mới,
nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn:1) Xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. 2) Đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở.
3.1.2. Nhu cầu giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo bước đột phá phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình
Mục tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình 5 năm (2001
- 2005) được xác định là: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững;…
giữ vững ổn định chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể
trong sạch, vững mạnh.
Về chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm phấn đấu
7% trở lên, GDP năm 2005 gấp gần 2 lần năm 1995. Thu nhập bình quân


17
đầu người năm 2005 đạt 400 USD. Giải quyết việc làm cho 18 - 20 nghìn
lao động/năm, lao động qua đào tạo tăng từ 18,5% lên 30%. …
Về nhiệm vụ: Đảng bộ tỉnh xác định 5 trọng tâm: 1) Chuyển mạnh sản
xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa. 2) Ưu tiên phát triển mạnh mẽ và
toàn diện kinh tế biển. 3) Phát triển mạnh nghề và làng nghề. 4) Triển khai
xây dựng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp tập trung. 5) Xây dựng,
hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy mọi nguồn lực, giải phóng sức sản
xuất, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế.
3.1.3. Những vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong điều kiện mới
Thứ nhất, sau những năm khắc phục mất ổn định, công tác tư tưởng
tuy đã giành lại thế chủ động, song năng lực tiến hành công tác này của cấp

ủy cơ sở có mặt còn hạn chế.
Thứ hai, cấp ủy viên, cán bộ cơ sở có nơi chưa kịp chuẩn bị tốt nguồn
bổ sung kế tiếp. Phần lớn cán bộ cơ sở mới qua tập huấn, bồi dưỡng ngắn
hạn, chỉ có 4,8% có trình độ cao đẳng, đại học. Sau củng cố, toàn tỉnh vẫn
còn 29 đảng bộ xã yếu kém phải tiếp tục tập trung giải quyết…
Thứ ba, sau khi kiện toàn cán bộ chủ chốt cơ sở, không ít cán bộ
tuy phẩm chất tốt, nhưng thiếu kiến thức công tác đảng nên nội dung,
phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng chậm được đổi mới....
Thứ tư, công tác kiểm tra đã kết hợp khá tốt với công tác thanh tra,
song chủ yếu nhằm giải quyết hậu quả đã xảy ra. Trong điều kiện mới,
muốn ngăn ngừa, xử lý vi phạm, công tác kiểm tra, thanh tra phải được
thực hiện tốt hơn, tiến hành thường xuyên, tích cực, chủ động hơn.
Thứ năm, việc phát huy vai trò của nhân dân gắn với thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở tuy đã góp phần quan trọng vào củng cố tổ chức đảng ở cơ sở.
Tuy vậy, việc thực hiện quy chế này có mặt còn hạn chế.
3.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về đổi mới, nâng cao
chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
3.2.1. Quan điểm chỉ đạo
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương (khóa IX) và chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XVI, tháng 4 và tháng 5-2002, Tỉnh ủy Thái Bình đã ban hành 3 đề
án quan trọng: Đề án số 26-ĐA/TU, ngày 8-4-2002, Đào tạo cán bộ xã,
phường, thị trấn có trình độ cao đẳng, đại học; Đề án số 32-ĐA/TU, ngày
24-5-2002, Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới; Đề án số 33-ĐA/TU (24-5-2002) Về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn…
Chủ trương về đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình những năm 20012005 phản ánh tập trung ở các văn kiện nêu trên, đã thể hiện được các quan
điểm chỉ đạo:



18
Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn phải toàn diện trên cơ sở củng cố vững chắc các tổ chức
đó; thực hiện đổi mới đi đôi với củng cố
Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn phải nhằm mục tiêu nâng cao năng lực lãnh đạo trong giữ
vững ổn định chính trị, tập trung phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn phải gắn liền với giải quyết những vấn đề trọng tâm bức xúc
3.2.2. Phương hướng, mục tiêu
Phương hướng, mục tiêu chung:
Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường thị
trấn với yêu cầu và chất lượng cao hơn. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đảng viên làm cho tổ chức đảng ở cơ
sở thực sự vươn lên đủ sức lãnh đạo hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị ở
địa phương, trọng tâm là phát triển kinh tế, giữ vững ổn định tình hình.
Các mục tiêu cụ thể:
1) Về chính trị tư tưởng: Phát huy cao tinh thần đoàn kết, thống nhất,
tạo sự đồng thuận, lạc quan, tin tưởng, khơi dậy ý chí, “nâng cao ý thức,
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và công dân”, “phục vụ tích cực các
nhiệm vụ chính trị của địa phương…
2) Về tổ chức - cán bộ, đảng viên: “Phấn đấu đến năm 2005, có 70%
đảng bộ trong sạch, vững mạnh; không còn cơ sở yếu kém; 50% cán bộ chủ
chốt và cán bộ chuyên môn có trình độ cao đẳng, đại học; 100% đảng bộ xã,
phường, thị trấn, chi bộ xóm (thôn), tổ dân phố kết nạp được đảng viên mới.
3) Về kiểm tra, kỷ luật,: Công tác kiểm tra và kỷ luật phải được tiến
hành chủ động, thường xuyên, có nền nếp nhằm phòng ngừa, xử lý kịp
thời, nghiêm minh các vi phạm…
4) Về đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ

xã, phường, thị trấn: Hoàn thiện các loại quy chế, nâng cao năng lực ra
nghị quyết của đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy xã, phường, thị trấn…
5) Về phát huy vai trò của nhân dân, tiếp tục phát huy dân chủ,
phòng, chống quan liêu, tham nhũng: Không ngừng nâng cao vai trò của
nhân dân tham gia xây dựng tổ chức đảng. Phát động nhân dân tham gia
đấu tranh chống tham nhũng theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; ngăn ngừa hiệu quả, kiên quyết không để tình trạng tham
nhũng tái diễn, kéo dài.
3.2.3. Nhiệm vụ, giải pháp
1) Đổi mới công tác chính trị tư tưởng theo hướng chủ động, sát cơ
sở, gần dân, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị
2) Thường xuyên kiện toàn tổ chức, duy trì nền nếp hoạt động của cấp
ủy, chi bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở
3) Đổi mới sự chỉ đạo của cấp tỉnh, cấp huyện, thị xã; tăng cường
công tác kiểm tra gắn với thực hiện công tác thanh tra ở cơ sở


19
4) Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
5) Phát động nhân dân tích cực tham gia xây dựng tổ chức đảng, bổ sung
và thực hiện tốt các quy chế, quy định về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
3.3. Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
3.3.1. Chỉ đạo đổi mới công tác tư tưởng đối với đảng bộ xã, phường, thị trấn
Hướng mạnh về cơ sở, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân
thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Ngày 04-9-2001, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình xây dựng Kế hoạch số 12-KH/TU, Kế
hoạch triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX. Kế hoạch xác định: Cấp xã tổ chức ở phạm
vi toàn đảng bộ, thảo luận ở chi bộ. Ngày 5-3-2004, ra các kết luận: Số

10-KL/TU Về phát triển sự nghiệp văn hoá thông tin, Số 11-KL/TU Về
công tác phát thanh, truyền thanh, truyền hình...
Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định việc đổi mới công tác giáo dục lý luận
chính trị phải bảo đảm gắn chặt với thực tiễn, phù hợp với đối tượng.
Đẩy mạnh hoạt động giáo dục, tìm hiểu lịch sử truyền thống, khơi dậy
niềm tự hào trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tỉnh ủy Thái Bình đã tăng
cường chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ địa
phương ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã).
3.3.2. Chỉ đạo đổi mới công tác tổ chức - cán bộ, đảng viên ở cơ sở
Chủ động quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở. Ngày 23-4-2003,
Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã chủ trì phối hợp với Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh
xây dựng Hướng dẫn số 26 - HD/BTC Về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản
lý… Đến cuối năm 2003, 100% đảng bộ xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã
xây dựng xong quy hoạch cán bộ cơ sở. Nhằm giải quyết tình trạng hẫng hụt
cả về số và chất lượng cán bộ cơ sở, từ năm 2002, Tỉnh ủy Thái Bình đã ưu
tiên tập trung chỉ đạo công tác đào tạo cán bộ cơ sở.
Sắp xếp lại chi bộ, phát triển mạnh đội ngũ đảng viên; đổi mới nội
dung sinh hoạt đảng ủy, chi bộ và cách phân công nhiệm vụ cho đảng viên:
Tập trung giải quyết cơ sở đảng yếu kém; thực hiện nền nếp đánh giá
chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Do chỉ đạo sâu sát, cơ sở đảng yếu kém
được giải quyết khá triệt để. Nếu năm 2000, toàn tỉnh còn 29 cơ sở yếu kém,
thì cuối năm 2003 còn 05 cơ sở, cuối năm 2005 chỉ còn 1 cơ sở.
3.3.3. Chỉ đạo đổi mới công tác kiểm tra, xử lý vi phạm ở cơ sở
Chủ động kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và
việc thực hiện những điều đảng viên không được làm.
Tích cực kiểm tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở cơ sở.
Ngày 20-8-2003, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã xây dựng Kế hoạch
số 45-KH/TU và ra Quyết định số 391-QĐ/TU thành lập Ban Chỉ đạo kiểm
tra của Tỉnh ủy. Tất cả các huyện, thị đều xây dựng kế hoạch, thành lập Ban

Chỉ đạo do Phó Bí thư Thường trực huyện, thị ủy làm Trưởng ban…


20
Chuyển thanh tra phục vụ cho kiểm tra ở cơ sở sang chế độ thường xuyên;
tăng cường kiểm tra theo Điều 30 và Điều 32 Điều lệ Đảng. Từ năm 2001,
công tác thanh tra phục vụ cho kiểm tra được Đảng bộ tỉnh Thái Bình chỉ
đạo tiến hành một cách thường xuyên, chủ động. Chỉ tính trong các năm
2002 - 2004, đảng ủy xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã xây dựng được tổng
số 2.825 cuộc kiểm tra, đã hoàn thành 2.638 cuộc, đạt 99,3%...
Kịp thời xử lý vi phạm, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng ở cơ sở. Thực
hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, dựa trên kết quả kiểm tra, Uỷ ban kiểm tra các
cấp đã xem xét, xử lý và tham mưu giúp cấp ủy xem xét xử lý kỷ luật 429
đảng viên và 9 tổ chức đảng có vi phạm.
3.3.4. Chỉ đạo đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy cơ sở; phát huy vai
trò của nhân dân trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy cơ sở xã, phường, thị trấn.
Ngày 16-1-2002, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình ra Chỉ thị 06-CT/TU Về
việc tăng cường lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện quy chế, quy định của các tổ
chức trong hệ thống chính trị cơ sở, coi đây là biện pháp quan trọng tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở. Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động, có nhiều cố gắng trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện
chủ trương của cấp ủy địa phương.
Phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng tổ chức đảng thông qua
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tỉnh ủy Thái Bình đã ra
các Quyết định số 74-QĐ/TU năm 2002 và Quyết định số 20-QĐ/TU năm
2003 Về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn được
kiện toàn, Phó Bí thư Thường trực đảng ủy cơ sở xã, phường, thị trấn làm
Trưởng ban; mỗi cơ sở cấp xã có 10 đến 13 thành viên …
Kết luận chương 3
Chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình những năm 2001 2005 không phải là quyết định gượng ép, mà là kết quả của sự nhận thức
đúng yêu cầu khách quan trong điều kiện lịch sử mới, khi các cơ sở cấp
xã của tỉnh Thái Bình đã đi vào ổn định, có kế thừa, phát huy chủ trương
những năm 1998-2000 và vận dụng chủ trương mới của Trung ương.
Trong chỉ đạo,tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã có những đổi
mới toàn diện trên các lĩnh vực. Tuy còn những hạn chế nhất định, song
Đảng bộ đã tạo được bước phát triển mới về chất lượng xây dựng tổ chức
đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn, là nhân tố hàng đầu quyết định giữ
vững ổn định chính trị, thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội ở các
cơ sở cấp xã trên địa bàn của Tỉnh.


21
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường,
thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005)
4.1.1. Ưu điểm
Một là, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã nhận thức được sự nghiêm trọng của
tình hình và tính cấp bách của vấn đề xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn.
Hai là, sự nghiêm túc, công phu trong lựa chọn hình thức, bước đi,
cách làm để hoạch định chủ trương xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn thể hiện trách nhiệm chính trị cao của Đảng
bộ tỉnh Thái Bình

Ba là, sự chỉ đạo của Đảng bộ có tính toàn diện, có bước đi hợp lý, lựa chọn
trúng khâu đột phá trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Bốn là, những chuyển biến căn bản về chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn đã tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định, phát triển
của địa phương.
Những thành công nói trên do nhiều nhân tố mang lại:
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Thái Bình được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
sâu sát của Trung ương.
Thứ hai, Đảng bộ tỉnh Thái Bình (sau kiện toàn) đã đoàn kết thống
nhất, có trách nhiệm cao trong lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở xã,
phường, thị trấn.
Thứ ba, quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn, Đảng
bộ tỉnh Thái Bình nhận được sự đồng tình, ủng hộ và tham gia tích cực của
nhân dân trong tỉnh.
4.1.2. Hạn chế
Một là, giai đoạn 1998 - 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Bình chưa ban
hành được nghị quyết chuyên đề về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn
Hai là, chỉ đạo thực hiện xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn trên một số lĩnh vực có thời điểm chưa tích cực, kịp thời.
Ba là, một số chỉ tiêu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn do Đảng bộ tỉnh đề ra chưa sát với khả năng thực tế.
Những hạn chế, thiếu sót trên có nhiều nguyên, song chủ yếu do:
Quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ
tỉnh Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005 diễn ra trong điều kiện có nhiều khó khăn.
Trong xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Tỉnh ủy, các
huyện, thị ủy chưa lường hết khó khăn, chỉ đạo có thời điểm thiếu kiên quyết.
Một số cấp ủy cấp xã (nhất là ở những nơi yếu kém kéo dài) chưa
nhận thức đầy đủ về yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình mới.



22
4.2. Kinh nghiệm từ quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005)
4.2.1. Bám sát chủ trương, chỉ đạo của Trung ương, nắm chắc tình hình,
phát huy trí tuệ của Đảng bộ và nhân dân để xác định chủ trương xây dựng tổ
chức đảng ở xã, phường, thị trấn
Thành công trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của
mỗi đảng bộ địa phương phụ thuộc có tính quyết định ở tính đúng đắn, khoa
học và trách nhiệm chính trị trong việc hoạch chủ trương của đảng bộ. Giai
đoạn 1998 - 2005, trước thách thức đặt ra, để có được chủ trương sát đúng, khả
thi, trên thực tế Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã thực hiện tốt 3 vấn đề:
Quán triệt sâu sắc chủ trương, chỉ đạo của Trung ương làm căn cứ hoạch
định chủ trương xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Coi trọng khảo sát thực tiễn, nhận định, đánh giá chính xác tình hình
tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Đoàn kết, thống nhất, mở rộng dân chủ, tập trung trí tuệ của Đảng bộ
và nhân dân để đề ra chủ trương sát đúng.
4.2.2. Chủ động, nhạy bén, tập trung các nguồn lực “hướng mạnh về
cơ sở” để thực hiện công tác tư tưởng
Trong xây dựng Đảng, hoạch định chủ trương là điều kiện tiên quyết; song,
đưa chủ trương vào thực tiễn, hiện thực hóa chủ trương mới là vấn đề quyết định.
Giai đoạn 1998 - 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã đặt công tác tư tưởng ở cơ sở
vào đúng vị trí; coi đó là mặt trận hàng đầu. Bài học thành công trong công tác tư
tưởng ở cơ sở đảng xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình thể hiện ở:
Xác định đúng vị trí, mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo của công tác tư tưởng
đối với tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Kịp thời điều chỉnh, đổi mới nội dung nhiệm vụ công tác tư tưởng ở cơ sở.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, sử dụng đa dạng,
linh hoạt các hình thức, phương pháp, phương tiện tiến hành công tác

tư tưởng ở xã, phường, thị trấn.
4.2.3. Tiến hành đồng bộ các giải pháp về tổ chức - cán bộ, đảng viên
ở cơ sở với những bước đi thích hợp
Củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên quyết định hiệu
quả công tác xây dựng Đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Giai đoạn 1998 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã thành công khi triển khai đồng bộ các giải
pháp về tổ chức - cán bộ, đảng viên với những bước đi thích hợp, làm trong
sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã, phường thị trấn.
Kinh nghiệm ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình chỉ ra 3 nội dung trọng yếu:
Bước đi được ưu tiên làm trước là đánh giá, phân loại chính xác tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên ở cơ sở; kiểm tra, thanh tra; chủ động về
phương án xử lý.
Hai là, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm, chăm lo kiện toàn cán
bộ chủ chốt ở cơ sở; coi trọng việc giải quyết các cơ sở đảng yếu kém.


23
Ba là, chủ động quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở,
phát triển mạnh đội ngũ đảng viên, thúc đẩy nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
4.2.4. Dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong xây
dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
Dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân là một quy luật của
công tác xây dựng Đảng. Từ thực tiễn chỉ đạo phát huy vai trò của nhân
dân trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ tỉnh
Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005, có thể rút ra 3 vấn đề cần nắm vững:
Một là, dựa chắc vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để xây
dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Hai là, có cơ chế phù hợp để nhân dân giám sát, kiểm tra hoạt động của
cấp ủy Đảng và cán bộ, đảng viên ở xã, phường, thị trấn.
Ba là, cấp ủy tỉnh, huyện hướng mạnh về cơ sở, lắng nghe ý kiến của

nhân dân để chỉnh đốn, củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
4.2.5. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn với giữ vững ổn định chính trị ở địa phương
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn và giữ vững ổn định
chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thực tiễn giải quyết mối này
ở Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1998 - 2005) để lại kinh nghiệm rất có giá trị. Nội
dung kinh nghiệm thể hiện ở:
Xây dựng tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn đồng thời với giữ vững ổn định
chính trị trên cơ sở thống nhất về quan điểm chỉ đạo và mục tiêu của Đảng bộ.
Ra sức chỉ đạo củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
để giải quyết mất ổn định và giữ vững ổn định chính trị ở địa phương.
Lấy việc giữ vững ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi để đổi mới,
nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
Kết luận chương 4
Tiếp cận từ góc nhìn lịch sử - lôgic, lôgic - lịch sử về thực tiễn xây dựng
tổ chức đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn từ năm 1998 đến năm 2005 - một
thời đoạn không dài trong lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình, với tính chất khó
khăn phức tạp điển hình so với cả nước, đã đem lại những nhận định, đánh
giá cần được quan tâm. Đó là bước tiến bộ về nhận thức, hoạch định chủ
trương, trách nhiệm chính trị của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong giải quyết
vấn đề cấp bách đó ở địa phương. Quá trình chỉ đạo đã thể hiện tính toàn
diện, có bước đi hợp lý, biết chọn đúng khâu đột phá. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy, sự chuyển biến căn bản các mặt xây dựng tổ chức cơ sở đảng
xã, phường, thị trấn đã tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định, phát triển của
tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, bên cạnh thành công thì công tác này của Đảng
bộ tỉnh Thái Bình cũng còn những khuyết điểm, hạn chế. Từ thực tiễn xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ tỉnh Thái Bình giai đoạn 1998 - 2005,
luận án đã đúc rút một số vấn đề có giá trị tham khảo trong tình hình mới.



24
KẾT LUẬN
Nghiên cứu “Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2005”, tác giả
luận án đi đến một số kết luận:
1. Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn là một loại hình tổ chức cơ
sở đảng đặc biệt, được tổ chức ở đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn; là
bộ phận rất quan trọng tạo thành nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo
hệ thống chính trị và toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở.
Xây dựng, củng cố tổ chức đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn vững mạnh là
vấn đề trọng yếu của công tác xây dựng Đảng - “nhiệm vụ then chốt” trong
giai đoạn cách mạng mới; là nhân tố quyết định giữ vững ổn định chính trị
ở mỗi địa phương, trong đó có Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
2. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã thấy rõ
những yếu kém căn cơ trong công tác xây Đảng ở cơ sở cấp xã giai đoạn
1991 - 1997, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất ổn định nghiêm trọng ở
phần lớn cơ sở của Tỉnh trong năm 1997 (kéo dài sang một số năm sau),
thách thức nền tảng tổ chức và hoạt động của Đảng bộ. Sửa chữa sai lầm để
đi lên là một thực tế thể hiện thái độ chính trị đúng của Đảng bộ tỉnh Thái
Bình. Từ yêu cầu cấp bách, giai đoạn 1998 - 2005, trước hết, những năm
cuối thế kỷ XX (1998 - 2000), Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã hoạch định được
chủ trương củng cố tổ chức đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn khả thi, sát
đúng, đồng bộ về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ - giải pháp, gắn kết chặt
chẽ giữa củng cố tổ chức đảng với giải quyết tình trạng mất ổn định ở địa
phương. Phát triển chủ trương này trong điều kiện lịch sử mới (khi địa
phương đã đi vào ổn định), Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã nắm vững yêu cầu
mới của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng đang đặt ra, hướng vào
giải quyết tiếp những tồn đọng, thiếu sót trong công tác xây dựng Đảng ở cơ
sở, đầu thế kỷ XXI (2001- 2005), Đảng bộ đã xác lập được chủ trương đổi
mới, nâng cao chất lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.

Xét về thực chất, đây là sự điều chỉnh, phát triển chủ trương từ việc nỗ lực
“giải quyết sự cố”, khắc phục sai lầm, khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng ở cơ sở nhằm ổn định lại tình hình sang “chủ động, tích cực nâng
tầm” chất lượng toàn diện của công tác này ở cơ sở cấp xã để giữ vững ổn
định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
3. Hiện thực hóa chủ trương đã xác lập trong đời sống chính trị ở cơ
sở, giai đoạn 1998 - 2005, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã huy động lực lượng
trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, nòng cốt là các cấp ủy để chỉ
đạo, tổ chức thực hiện toàn diện việc củng cố, đổi mới, nâng cao chất
lượng xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn. Nếu những năm
1998 - 2000, Đảng bộ địa phương này tập trung chỉ đạo ổn định tình hình
tư tưởng ở cơ sở; kết hợp kiểm tra với thanh tra, xử lý vi phạm; kiện toàn,
thay thế bổ sung cán bộ, phát triển đảng viên; phát huy vai trò của nhân dân
trong củng cố tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn, thì những năm 2001
- 2005, sự chỉ đạo của Đảng bộ hướng vào đổi mới công tác tư tưởng ở cơ


25
sở; đổi mới công tác tổ chức - cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên; đổi mới công tác kiểm tra, chủ động xử lý vi phạm ở cơ sở; đổi
mới phương thức lãnh đạo, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng tổ
chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn.
4. Nhìn nhận, đánh giá tổng quát vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh lịch
sử khá đặc biệt ở tỉnh Thái Bình, so sánh giai đoạn 1998 - 2005 với những
năm liền kề 1998, tác giả luận án nhận thấy thành công hàng đầu của Đảng
bộ tỉnh Thái Bình trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn là
ở bước chuyển biến về nhận thức, hoạch định chủ trương nhằm giải quyết
vấn đề cấp bách đó ở địa phương. Quá trình chỉ đạo đã thể hiện tính toàn
diện, có bước đi hợp lý, biết chọn đúng khâu đột phá. Và trên thực tiễn, sự
chuyển biến căn bản các mặt xây dựng tổ chức đảng cấp xã đã tạo nền tảng

để tỉnh Thái Bình vững bước phát triển trong thế kỷ XXI. Trong khi thành
công là cơ bản, ở giai đoạn này, Đảng bộ tỉnh này chưa ban hành được nghị
quyết chuyên đề về xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở cấp xã; triển khai thực
hiện ở một số lĩnh vực chưa kịp thời; kết quả thực hiện trên một số mặt cụ
thể vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra.
5. Từ việc phục dựng lịch sử công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở
xã, phường, thị trấn trên địa bàn một tỉnh trong phạm vi thời gian 8 năm (từ
1998 đến 2005), làm rõ những thành công và cả hạn chế, thiếu sót của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng ở xã,
phường, thị trấn trong giai đoạn khó khăn đó, luận án đã đúc rút 5 kinh
nghiệm: 1) Bám sát chủ trương, chỉ đạo của Trung ương, nắm chắc tình
hình, phát huy trí tuệ của Đảng bộ và nhân dân để xác định chủ trương xây
dựng tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn; 2) Chủ động, nhạy bén, tập trung
các nguồn lực “hướng mạnh về cơ sở” để thực hiện công tác tư tưởng; 3)
Tiến hành đồng bộ các giải pháp về tổ chức - cán bộ, đảng viên ở cơ sở với
những bước đi thích hợp; 4) Dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân
dân trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; 5) Giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị
trấn với giữ vững ổn định chính trị ở địa phương.
6. Trong giai đoạn hiện nay, trước những vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
(khóa XI) và Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) khẳng định, vấn đề xây dựng
nền tảng của Đảng, nhất là xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
trong sạch, vững mạnh vẫn đang là mối quan tâm lớn của Trung ương và của
mỗi đảng bộ địa phương. Kết quả nghiên cứu của luận án, nhất là những kinh
nghiệm nêu trên mới chỉ là những nghiên cứu ban đầu góp thêm luận cứ
khoa học để Đảng bộ tỉnh Thái Bình và các đảng bộ địa phương khác tham
khảo. Thực tiễn sinh động đã và đang diễn ra, cần tiếp tục có sự nghiên cứu,
tổng kết sâu sắc và toàn diện hơn nữa ở các địa phương, cơ sở để công tác
quan trọng này đạt được mục đích đề ra, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

tình hình mới cũng như sự mong đợi của nhân dân.


×