Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Luận văn Thạc sĩ nâng cao năng lực tư vấn tại công ty tư vấn giao thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 73 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao năng lực tư vấn tại Công ty cổ phần tư
vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn” là công trình nghiên cứu của bản thân tác giả. Các kết quả nghiên cứu và
các kết luận trong luận văn là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào.
Việc tham khảo các nguồn tài liệu (nếu có) đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy
định.
Tác giả luận văn

Hoàng Đình Tiến

1

1


LỜI CÁM ƠN
Để có thể hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tác giả còn nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ, động viên và hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình trong suốt thời
gian học tập nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Lời đầu tiên, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Kinh tế và quản lý, trường Đại học Thuỷ Lợi
đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong suốt
quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn đến lãnh đạo, các đồng nghiệp tại Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng giao
thông Lạng Sơn và các đơn vị liên quan đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tác
giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo, TS. Nguyễn Thế Hoà, là người trực tiếp hướng dẫn khoa
học và đã giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành tốt nhất luận văn này.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân luôn đứng bên cạnh động viên, khích lệ tác giả trong suốt
quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Mặc dù bản thân đã rất cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi
những khiếm khuyết, tác giả mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy, cô giáo, đồng chí và đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!


Hà Nội, tháng 12 năm 2017
Tác giả

Hoàng Đình Tiến

2

2


MỤC LỤC

3

3


4

4


BẢNG BIỂU

5

5


BCNCKT


Báo cáo nghiên cứu khả thi

CN

Công nghiệp

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSHT

Cơ sở hạ tầng

CTMTQG

Chương trình mục tiêu quốc gia

DV

Dịch vụ

ĐTXD

Đầu tư xây dựng

GSTC

Giám sát thi công


GTNT

Giao thông nông thôn

GTVT

Giao thông vận tải

HC-TC

Hành chính - Tổ chức

HĐKD

Hoạt động kinh doanh

KHKT

Kế hoạch kỹ thuật

KSTK

Khảo sát thiết kế

LSTC

Công ty cổ phần tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn

NTM


Nông thôn mới

TKBVTC

Thiết kế bản vẽ thi công

TKKT

Thiết kế kỹ thuật

TM

Thương mại

TV

Tư vấn

TVXD

Tư vấn xây dựng

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân


VILAS

Hệ thống công nhận phòng thử nghiệm, hiệu chuẩn của Việt Nam

XD

Xây dựng

XDCB

Xây dựng cơ bản

6

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, công tác tư vấn xây dựng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, nó không chỉ là hoạt động mang tính nghề nghiệp mà còn là đòn
bẩy mang lại hiệu quả kinh tế kỹ thuật cao cho xã hội.
Ở Việt Nam, hoạt động tư vấn đã được ghi nhận và phổ biến rộng rãi trong những năm trở lại đây. Cùng với sự
chuyển mình của hoạt động này, các tổ chức tư vấn xây dựng đã và đang từng bước thay đổi để đáp ứng nhu cầu
phát triển của thị trường. Bên cạnh đó, Nhà nước và các Bộ, Ngành đã ban hành hàng loạt chính sách quy chế
quản lý loại hình hoạt động kinh doanh chất xám này và những chính sách đó đã và đang phát huy hiệu lực trong
việc quản lý và khai thác hoạt động tư vấn trong toàn quốc.
Với lực lượng đông đảo các nhà tư vấn đang hoạt động hết sức năng động trên toàn quốc, lĩnh vực tư vấn xây
dựng đang vươn lên phát huy nội lực, từ chỗ chỉ thực hiện khảo sát, thiết kế đến nay đã đảm nhiệm các loại hình

hoạt động tư vấn theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển quá nhanh về số lượng còn nhiều vấn
đề nổi cộm về chất lượng công tác tư vấn như: năng lực của các tổ chức tư vấn còn hạn chế, ưu thế cạnh tranh
của tư vấn trong nước đối với các công ty nước ngoài còn kém, cạnh tranh gay gắt và thiếu lành mạnh giữa các
tổ chức tư vấn, việc quản lý và các cơ chế chính sách đối với các tổ chức tư vấn còn nhiều vấn đề bất cập. Điều
này đòi hỏi các tổ chức tư vấn cần phải nhìn nhận, đánh giá, nắm bắt mọi diễn biến của hoạt động kinh doanh để
tự đổi mới từ các khâu tổ chức, quản lý đến củng cố lại đội ngũ cán bộ, dần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
thị trường tư vấn.
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hoá trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội, cùng với đó là thị trường tư vấn xây dựng được mở rộng, các nhà thầu tư vấn trong
nước, với năng lực và chuyên môn kỹ thuật cao, tham gia ngày càng nhiều các dự án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn,
các đơn vị tư vấn trên địa bàn tỉnh sẽ tận dụng được uy tín và kỹ thuật của họ để vươn lên, học tập được kỹ năng
quản lý toàn diện một dự án, nâng cao được kiến thức công nghệ. Tuy nhiên, việc các nhà thầu trong nước tham
gia nhiều đồng nghĩa với việc các công ty trên địa bàn tỉnh sẽ bị cạnh tranh quyết liệt hơn cả trong đấu thầu do
khả năng, trình độ, vốn liếng của các doanh nghiệp trên địa bàn còn hạn chế.
Đối với một số dự án lớn, trọng điểm như Dự án Cầu 17/10, Cầu Kỳ Cùng, nâng cấp QL 1A, đường Cao tốc Bắc
Giang - Lạng Sơn…, các đơn vị tư vấn lớn trong nước tham gia với vai trò nhà thầu chính, tư vấn trên địa bàn
tỉnh thường đóng vai trò thầu phụ. Các nhà thầu chính chỉ dành cơ hội cho nhà thầu phụ trong nước những phần
việc nhỏ nhoi, với chi phí thấp hơn nhiều so với họ. Thách thức, cơ hội và áp lực đan xen đòi hỏi bản lĩnh và sự
phấn đấu của chính lực lượng tư vấn xây dựng địa phương có bước đi thích hợp, khai thác thế lợi, hạn chế tiêu
cực, từng bước, bắt kịp với trình độ quốc tế, tiến tới vươn ra bên ngoài ngày càng lớn.
Trong điều kiện như vậy, việc đưa ra những tiêu chí, biện pháp và lịch trình cho các doanh nghiệp tư vấn nói
chung và Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn nói riêng trên con đường hội nhập là một nhu
cầu bức thiết cả trước mắt và lâu dài, nhất là xét đến bối cảnh hiện nay khi nhu cầu phát triển hạ tầng kỹ thuật
ngày càng lớn.
Hiện nay, chất lượng sản phẩm tư vấn của Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn đã từng bước
được nâng lên, cơ bản đáp ứng được với yêu cầu của khác hàng, song do sự phát triển của nền kinh tế thị
trường và yêu cầu về chất lượng sản phẩm tư vấn ngày càng cao, thì kết quả Công ty đạt được còn khiêm tốn.
Trong môi trường cạnh tranh và phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, để có thể tồn tại và phát triển
vững mạnh thì còn rất nhiều vấn đề về năng lực tư vấn mà Công ty phải điều chỉnh hoặc thay đổi. Do đó tác giả
chọn vấn đề: “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao năng lực tư vấn của Công ty cổ phần tư vấn xây dựng

giao thông Lạng Sơn” làm đề tài luận văn nhằm giải quyết phần nào nhu cầu thực tiễn của Công ty càng ngày
càng trở nên cấp bách.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm nâng cao năng lực tư vấn của Công ty cổ phần tư vấn xây dựng giao thông
Lạng Sơn (LSTC) trong thời gian tới.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cách tiếp cận
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả đã thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn thông tin khác nhau:
- Các văn bản về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế.
- Các văn bản pháp quy về quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu.
- Các nghiên cứu trước có liên quan đến vấn đề tư vấn.
- Các số liệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn (LSTC)
trong thời gian qua.

7

7


3.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp kế thừa những kết quả nghiên cứu đã công bố;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh;
- Phương pháp khảo sát điều tra thu thập số liệu;
- Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia: Qua tham khảo xin ý kiến của các thầy cô trong Trường và một
số chuyên gia có kinh nghiệm chuyên môn tại địa phương.
- Và một số các phương pháp kết hợp khác.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tương nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu nghiên cứu là các doanh nghiệp tư vấn xây dựng nói chung và Công ty cổ phần tư vấn xây
dựng giao thông Lạng Sơn nói riêng trong hoạt động tư vấn xây dựng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực tư vấn thiết kế các công trình giao thông thuộc tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn
2012-2016.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

5.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về tư vấn, năng lực tư vấn của các tổ chức tư vấn xây dựng trong nền kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn có giá trị tham khảo trong hoạt động tư vấn tại Công ty cổ phần Tư vấn xây
dựng giao thông Lạng Sơn.
6. Kết quả dự kiến đạt được
- Thứ nhất: Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về tư vấn, năng lực tư vấn của các nhà doanh nghiệp tư vấn
xây dựng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Thứ hai: Khảo sát và phân tích đánh giá có hệ thống thực trạng năng lực tư vấn xây dựng của các tổ chức tư
vấn xây dựng ở Việt Nam nói chung và Công ty cổ phần tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn giai đoạn
2012 - 2016.
- Thứ ba: Định hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực tư vấn của Công ty cổ phần tư
vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn.
7.

Nội dung của luận văn

Tên đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao năng lực tư vấn tại Công ty cổ phần tư vấn xây dựng
giao thông Lạng Sơn“.
Kết cấu của Luận văn ngoài Phần mở đầu, kết luận và kiến nghị còn có 3 chương nội dung chính:

Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về tư vấn xây dựng của các tổ chức tư vấn xây dựng
Chương 2: Thực trạng năng lực tư vấn của Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực tư vấn tại Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng giao thông Lạng Sơn

8

8


CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TƯ VẤN XÂY DỰNG
CHO CÁC TỔ CHỨC VẤN XÂY DỰNG
Trong lịch sử, nghề tư vấn công trình có lẽ phát triển nhất tại các nước có nền văn hoá Anglo-Saxon; Tại đó các
cơ quan chính quyền thường thuê tư vấn để giải quyết các vấn đề kỹ thuật. Ở một số nước khác như Pháp,
Đức… các cơ quan nhà nước lại có khuynh hướng tăng cường năng lực nhân viên của mình để thực hiện các
công việc như vậy. Tại Hà Lan, người ta dung hoà cả hai, một là tăng cường sự phát triển tư vấn đồng thời các cơ
quan chính quền tăng cường năng lực nhân viên của họ.
Khởi đầu, hoạt động tư vấn do các nhà tư vấn tự do (individual) với sự giúp đỡ của vài nhân viên. Nhà tư vấn tự
duy trì mối quan hệ với khách hàng, hoạt động và chịu trách nhiệm cá nhân với những công việc tư vấn. Khi nhu
cầu khách hàng tăng lên các nhà tư vấn như vậy nhóm lại với nhau thành các công ty tư vấn ở các lĩnh vực khác
nhau. Các hiệp hội tư vấn được thiết lập ở nhiều quốc gia nhằm bảo vệ cho các nhà tư vấn chuyên nghiệp. Các
hiệp hội đề cao tiêu chuẩn đạo đức tư vấn trong khi áp dụng các tiêu chuẩn gia nhập. Trong lịch sử ở một số
hiệp hội quốc gia ban đầu chỉ có các nhà tư vấn tự do tham gia chứ không phải là các hãng tư vấn. Bắt buộc các
nhà tư vấn tham gia không thuộc tổ hợp các công ty mà trong đó bao gồm cả nhà thầu xây dựng hoặc nhà cung
cấp, sản xuất. Ngày nay, tham gia các hiệp hội không chỉ có các nhà tư vấn tự do mà còn có các công ty tư vấn,
các công ty có thể thuộc tập đoàn trong đó có nhà sản xuất hoặc cung cấp. Dẫu sao mục đích của hiệp hội vẫn là
đề cao chuẩn mực trung thực và khách quan trong nghề tư vấn. Các nhà cung cấp tài chính như WB, ADB luôn
yêu cầu tính độc lập của tư vấn.
Tư vấn xây dựng (TVXD) có thể là cá nhân (Individual consultants) nếu yêu cầu của khách hàng chỉ nhằm giải
quyết vấn đề cụ thể mà chỉ cần một chuyên gia. Trong trường hợp này thoả thuận khá đơn giản. Nếu chuyên gia
đó thuộc công ty tư vấn thì khó khăn hơn và giá cũng phải cao hơn do phải chi phí cho công ty và công ty có

trách nhiệm thay thế chuyên gia trong trường hợp cần thiết. Một nhóm kỹ sư tư vấn tự do có thể được thuê để
giải quyết một vấn đề. Khi cần một đội tư vấn tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong thời gian nhất định
thì việc thuê công ty tư vấn là tốt nhất. Công ty có trách nhiệm bố trí nhân sự, có trách nhiệm cao nhất và lâu dài
đối với khách hàng.
Thông thường các khách hàng thuê tư vấn hành động như là cố vấn kỹ thuật, lập các hồ sơ thiết kế, các tiêu
chuẩn kỹ thuật, đấu thầu, giám sát xây dựng, quản lý dự án… Trong một số trường hợp đặc biệt kỹ sư tư vấn còn
thay mặt khách hàng thương thảo với nhà thầu hoặc nhà cung cấp. Khi lựa chọn nhà tư vấn, khách hàng thường
quan tâm đến tình hình tài chính, năng lực chuyên môn (các chuyên gia chính), kinh nghiệm dự án, quốc gia
tương tự…

1.1
Khái niệm về dịch vụ TVXD, năng lực TVXD và sự cần thiết nâng cao
năng lực TVXD
1.1.1 Dịch vụ tư vấn xây dựng
1

Khái niệm về dịch vụ tư vấn xây dựng

Dịch vụ Tư vấn đã xuất hiện và được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam từ nhiều năm trước đây, tuy vậy, Tư vấn vẫn
còn là một khái niệm rất mới ở Việt Nam. Trước đây, trong các giới hữu quan ở Việt Nam, Tư vấn thường được
hiểu một cách phổ biến như là "việc bán những lời khuyên nghề nghiệp" và "thường có sự hiểu lẫn lộn giữa Tư
vấn và Môi giới, giữa hoạt động tư vấn và việc đưa ra những lời khuyên đơn giản".
Tư vấn là một dịch vụ trí tuệ, một hoạt động “chất xám” cung ứng cho khách hàng những lời khuyên đúng đắn
về chiến lược, sách lược, biện pháp hành động và giúp đỡ, hướng dẫn khách hàng thực hiện những lời khuyên
đó, kể cả tiến hành những nghiên cứu soạn thảo dự án và giám sát quá trình thực thi dự án đạt hiệu quả yêu cầu.
Tư vấn xây dựng là một loại hình tư vấn đa dạng trong công nghiệp xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô thị và
nông thôn...có quan hệ chặt chẽ với tư vấn đầu tư, thực hiện phần việc tư vấn tiếp nối sau việc của tư vấn đầu tư.
Tư vấn xây dựng còn có thể được hiểu là các kiến trúc sư, kỹ sư, v.v. , những chuyên gia xây dựng có kỹ năng đa
dạng, cung cấp các dịch vụ thiết kế, quản lý cho một dự án xây dựng thông qua các hợp đồng kinh tế. Cách hiểu


9

9


này phản ánh bản chất đa dạng của hoạt động tư vấn xây dựng, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực, trong mọi giai
đoạn của dự án và đòi hỏi không những khả năng về kỹ thuật, quản lý, mà còn phụ thuộc một cách quyết định
vào sự hiểu biết và những kỹ năng khác, bao gồm "cập nhật", "phát hiện", "sáng tác", lựa chọn", "chuyển giao".
Kỹ sư tư vấn xây dựng là người có đủ trình độ, chuyên môn để thực hiện công tác tư vấn xây dựng. Ở Việt Nam,
để được hành nghề Kỹ sư tư vấn xây dựng cần phải có chứng chỉ hành nghề, phải có tối thiểu 3 năm hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng và số lượng công trình đã tham gia phải đủ lớn theo yêu cầu của từng dự án.
Tổ chức tư vấn xây dựng là những đơn vị chuyên ngành, hoạt động độc lập về mặt pháp lý và phục vụ khách
hàng theo hợp đồng tư vấn về các hoạt động đầu tư xây dựng.

2

Các loại hình dịch vụ tư vấn xây dựng

Theo Luật Xây dựng năm 2014, Hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng gồm:
- Tư vấn lập quy hoạch xây dựng;
- Tư vấn lập dự án đầu tư xây dựng công trình;
- Tư vấn khảo sát xây dựng;
- Tư vấn thiết kế xây dựng, thẩm tra thiết kế xây dựng;
- Tư vấn thí nghiệm, kiểm định chất lượng công trình xây dựng;
- Tư vấn quản lý dự án,
- Tư vấn giám sát thi công xây dựng;
- Tư vấn lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu;
- Và công việc tư vấn khác có liên quan đến hoạt động đầu tư xây dựng.

3


Vai trò của tư vấn xây dựng

Tư vấn xây dựng là sản phẩm của sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự cần thiết của hoạt động tư vấn xây
dựng xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan: Chủ đầu tư cần đầu tư xây dựng công trình rất ít khi có đủ kiến
thức, năng lực để thực hiện hoặc kiểm tra, giám sát các hoạt động cần thiết để tạo nên công trình như mong
muốn. Thậm chí, chủ đầu tư đôi khi không định hình được một cách chính xác, cụ thể công trình muốn xây
dựng, vừa thỏa mãn nhu cầu sử dụng, vừa phù hợp với khả năng tài chính trong khoảng thời gian cho phép.
Chính vì thế nảy sinh nhu cầu cần có những chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực xây dựng … Ngành xây dựng càng
phát triển, các công trình ngày càng đa dạng, phức tạp thì vai trò của nhà tư vấn xây dựng càng trở nên quan
trọng.
Với kiến thức, kinh nghiệm thực tế và vị trí độc lập của mình, các nhà tư vấn xây dựng đóng vai trò là cố vấn, là
các chuyên gia, là người hướng dẫn, là xúc tác, là đạo diễn cho các hoạt động xây dựng. Các nhà tư vấn xây
dựng thực hiện chức năng tham mưu, đôn đốc giúp cho Chủ đầu tư triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng
một cách hiệu quả nhất.
Tư vấn xây dựng có vai trò tích cực trên phạm vi toàn nền kinh tế, là cấu nối giữa các chủ đầu tư và nhà thầu, từ
giai đoạn chuẩn bị dự án, khảo sát, thiết kế, quản lý dự án, giám sát tiến độ thực hiện, đảm bảo chất lượng, khối
lượng, giá thành... công trình. Trong đó bao gồm cả tư vấn mua sắm vật tư, thiết bị, nghiệm thu, bảo hành sử
dụng công trình. Các hoạt động này nhằm hướng tới:
- Đáp ứng mong muốn của khách hàng có công trình đẹp, an toàn, bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao trong
quá trình sử dụng.
- Công trình được xây dựng với chi phí thấp nhất.
- Công trình thân thiện với môi trường.
Sự phát triển của công nghệ mới, tiên tiến của ngành xây dựng trong sự nghiệp công nghiệp hóa của đất nước
hiện nay đang là một đòi hỏi lớn của tư vấn xây dựng. Vì vậy tư vấn xây dựng phải nắm vững, tìm được công
nghệ mới, tiên tiến phù hợp với mặt tự nhiên, môi trường xã hội nhưng vẫn đảm bảo tính kinh tế kỹ thuật theo
yêu cầu của chủ đầu tư, trước mắt cũng như lâu dài.
Như vậy, chúng ta thấy vai trò của tư vấn xây dựng là cực kỳ quan trọng và cần thiết. Làm tốt công tác này sẽ
góp phần tạo ra sản phẩm xây dựng đạt chất lượng cao, góp phần đảm bảo mục tiêu của Dự án đầu tư xây dựng.


1.1.2 Năng lực tư vấn xây dựng
10

10


Năng lực là tổ hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ và đặc điểm một tổ chức, cá nhân cần để hoàn thành tốt công
việc.
Năng lực của một tổ chức bao gồm các nhóm năng lực chính như sau:
- Nhóm năng lực chung / cốt lõi: gồm các năng lực cần thiết cho tất cả các vị trí. Các năng lực cốt lõi được xác
định dựa trên chiến lược, giá trị cốt lõi của tổ chức.
- Nhóm năng lực chuyên môn: là các kiến thức, kỹ năng về một lĩnh vực chuyên môn cụ thể cần để hoàn thành
một công việc, mang tính đặc thù cho vị trí công việc hoặc bộ phận mà cá nhân cần có để có thể đảm nhận
vị trí công việc đó.
- Nhóm năng lực quản lý / lãnh đạo: là các yêu cầu đối với các công việc có tính chất quản lý bao gồm hoạch
địch, tổ chức, điều phối nguồn lực (ngân sách, con người…) và thực hiện kiểm tra, giám sát, đánh giá công
việc. Tùy theo tính chất phức tạp, mức độ và phạm vi quản lý mà mỗi chức danh có những yêu cầu về tiêu
chuẩn năng lực quản lý khác nhau.
Năng lực tư vấn xây dựng phản ánh khả năng, quy mô, phạm vi của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực tư vấn đầu tư
xây dựng.
Năng lực tư vấn của các tổ chức TVXD được thể hiện qua năng lực tổ chức quản lý, mô hình SXKD, năng lực
chuyên môn và cơ sở vật chất chông nghệ của tổ chức. Ngoài ra, năng lực tư vấn của các tổ chức TVXD còn
được thể hiện qua kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn, uy tín của tổ chức đối với các chủ đầu tư.
Theo pháp luật về xây dựng Việt Nam, năng lực của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xây dựng được quy
định tại Thông tư số 17/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn về năng lực của tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động xây dựng.

1.1.3 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực tư vấn của các tổ chức TVXD
Hiện nay thị trường đầu tư xây dựng trong nước có giảm hơn so với những năm trước đây, đặc biệt là đối với các
dự án có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, từ đó hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng cũng thu hẹp lại, trong khi

các doanh nghiệp tư vấn xây dựng vẫn có xu hướng phát triển về số lượng, đồng thời sự quản lý của Nhà nước
về hoạt động tư vấn xây dựng ngày càng chặt chẽ hơn, do đó sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và
với các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày càng tăng, cơ hội để các doanh nghiệp tư vấn xây
dựng trong nước tiếp cận với các dự án có vốn đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước rất khó khăn.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tiếp cận các dự án vốn vay, làm việc với tư vấn nước ngòai, ngày nay khách hàng
đã có những đòi hỏi ở mức quốc tế đối với các dịch vụ tư vấn được cung cấp bởi tư vấn trong nước mà đôi khi
không cần quan tâm chi phí tư vấn vẫn còn ở mức rất thấp. Tuy đó là một nghịch lý nhưng những đòi hỏi của
khách hàng về chất lượng tư vấn vẫn là chính đáng. Tuy nhiên năng lực cán bộ còn nhiều bất cập. Trong khi tư
vấn giải quyết các bài tóan kỹ thuật tương đối tốt thì họ ít được đào tạo về quản lý xây dựng, không thông thạo
lắm về chính vai trò của tư vấn, nhầm lẫn về trách nhiệm của mình trong từng dự án cụ thể.
Tự bản thân các công ty tư vấn, kỹ sư tư vấn đã và đang nhận ra rằng chất lượng dịch vụ tư vấn của mình chưa
đáp ứng yêu cầu của hiện tại và tương lai rất gần.
Do tiếp cận các dự án vốn vay, làm việc với tư vấn nước ngòai, ngày nay khách hàng đã có những đòi hỏi ở mức
quốc tế đối với các dịch vụ tư vấn được cung cấp bởi tư vấn trong nước mà đôi khi không cần quan tâm chi phí
tư vấn vẫn còn ở mức rất thấp. Tuy đó là một nghịch lý nhưng những đòi hỏi của khách hàng về chất lượng tư
vấn vẫn là chính đáng. Ngoài dịch vụ khảo sát và thiết kế đã được các công ty tư vấn thực hiện khá tốt, các công
ty tư vấn đang cố gắng cung cấp các dịch vụ khác như quản lý dự án, tư vấn đấu thầu, giám sát xây dựng… Tuy
nhiên năng lực cán bộ còn nhiều bất cập. Trong khi tư vấn giải quyết các bài toán kỹ thuật tương đối tốt thì họ ít
được đào tạo về quản lý xây dựng, không thông thạo lắm về chính vai trò của tư vấn, nhầm lẫn về trách nhiệm
của mình trong từng dự án cụ thể.
Trong những năm gần đây, chất lượng dịch vụ tư vấn xuất hiện nhiều vấn đề, không chỉ riêng tiến độ thực hiện
chậm mà còn có những sai sót phải điều chỉnh thiết kế trong quá trình thi công. Những sai sót trong thiết kế cũng
không tránh được do công tác kiểm soát chất lượng sản phẩm còn nhiều bất cập, trình độ chuyên gia còn chưa
đáp ứng... Tuy nhiên, cũng cần nêu ra rằng các khách hàng (nhà nước) do không chủ động được kế họach vốn
mà khi được phép thuê tư vấn thì lại muốn hòan thành công việc trong thời gian quá ngắn. Những điều chỉnh
thiết kế trong quá trình thi công là điều bình thường (kể cả tư vấn nước ng oài) nhưng khách hàng cũng xem đó
như là những sai sót yếu kém của tư vấn.
Đối tác với các hãng tư vấn quốc tế, các kỹ sư tư vấn Việt Nam bộc lộ khả năng làm việc yếu; nhiều kỹ sư tư vấn

11


11


không thể tham gia do rào cản ngôn ngữ.
Như vậy nếu năng lực tư vấn không được tăng cường, chúng ta không những bỏ mất cơ hội thực hiện những dự
án ODA mà ngay cả các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách trong nước nhiều công ty, kỹ sư tư vấn cũng
không đáp ứng được.

1.2

Các nhân tổ ảnh hưởng đến năng lực tư vấn

1.2.1 Nhân tố khách quan
4

Yếu tố chính trị - pháp luật

Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp nào, nhất là đối với những
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và pháp luật là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở
pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay nước
ngoài. Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát triển thực sự lâu dài và
lành mạnh.
Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường
đều có hệ thống pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi
trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với từng doanh nghiệp tham gia
vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế ... Các
doanh nghiệp này cũng đặc biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt này có thể
sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những đièu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt
động, chính sách kế hoạch chiến lược phát triển, loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.

Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo
vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức ... trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gia khả
năng cạnh tranh.

5

Yếu tố kinh tế

Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan trọng nhất trong môi trường kinh doanh
của doanh nghiệp, một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên
đồng nghĩa với một tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích luỹ vốn đầu tư trong nền kinh tế
cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt.

6

Yếu tố kỹ thuật, công nghệ

Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua chất lượng sản
phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định.
Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh
nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách chính xác và có hiệu quả nhất
trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý,
lưu trữ, truyền phát thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối thủ cạnh
tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền
kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công
nghệ là tiền đề cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

7


Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng

Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong việc
cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao,
lành nghề hay các trục đường giao thông quan trọng ... sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển, giảm được
chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu
ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đôỉ quyết
định và các biên pháp hoạt động liên quan.

8
12

Yếu tố khách hàng
12


Khách hàng của doanh nghiệp tư vấn xây dựng là các chủ đầu tư.
Các chủ đầu tư là những cá nhân, tổ chức có nhu cầu xây dựng công trình họ sẽ quyết định doanh nghiệp nào sẽ
xây dựng công trình theo thiết kế xác định khi tham gia thị trường thì các chủ đầu tư đều liên hệ, giao tiếp với
chủ thầu xây dựng thông qua các hình thức đấu thầu, ký kết hợp đồng và thanh toán bàn giao công trình đã hoàn
thành. Họ đều mong muốn các công trình của họ phải đạt được các yêu cầu về chất lượng, giá cả, kết cấu công
trình...
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng, đấu thầu và thắng thầu là mục tiêu quan trọng hàng
đầu đối với doanh nghiêp xây dựng, để thắng thầu trong đấu thầu đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có
chiến lược đấu thầu đúng, trong đó các giải pháp công nghệ và giá dự thầu hợp lý giữ vai trò quan trọng. Do vậy,
đấu thầu xây dựng và thương thảo hợp đồng xây dựng có thể được xem là những hoạt động marketing quan
trọng của doanh nghiệp xây dựng trong môi trường cạnh tranh.

9


Các đối thủ cạnh tranh

Việc đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp hiện nay khá dễ dàng, do vậy hàng năm có khá nhiều doanh
nghiệp ra đời, bởi hoạt động tư vấn xây dựng không đòi hỏi nhiều vốn ban đầu, các hoạt động đều do con người
thực hiện, đến nay đã có trên 60 doanh nghiệp và chi nhánh hoạt động về tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn, con số này cho thấy sự canh tranh khá lớn giữa các doanh nghiệp tư vấn xây dựng.
Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp. Cha ông ta đã có
câu “biết mình biết trăm trận trăm thắng". Do đó doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh. Có thể thấy
trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để giành lợi thế trong ngành và trên thị trường
nói chung.
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số lương các doanh nghiệp tham gia
cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao
khả năng cạnh tranh.
Các đối thủ cạnh tranh chính là các doanh nghiệp tư vấn xây dựng khác trên thị trường, kể cả trong và ngoài
nước. Các doanh nghiệp tư vấn xây dựng trên thị trường cạnh tranh với nhau chủ yếu trong việc đấu thầu vì qua
đấu thầu thì chủ đầu tư sẽ lựa chọn được doanh nghiệp xây dựng thoả mãn tốt nhất các yêu cầu về kỹ thuật, mỹ
thuật, giá cả, điều kiện thanh toán, thời gian hoàn thành. Do đó các nhà thầu sẽ luôn phải đối mặt và cạnh tranh
lẫn nhau về công nghệ, kỹ thuật, về chất lượng lên hàng đầu, khác với thời gian trước đây là đặt yếu tố giá cả lên
hàng đầu (tình trạng bỏ giá dự thầu quá thấp để cạnh tranh nhau).

1.2.2 Nhân tố chủ quan
10

Nguồn lực tài chính

Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng như là chỉ tieu hàng đầu để
đánh giá qui mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay phân
phối, quảng cáo cho sản phẩm ... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp, một
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có
một hoạt động đầu tư mua saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của

doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng trang bị dây chuyền công nghệ
sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động quảng cáo
khuyến mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp
cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần
cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận nhiều hơn.

11

Nguồn nhân lực

Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những gì như mong muốn, đội ngũ
nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám
là những thứ vô cùng quý giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành thấp nhất,
đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh. Một đội ngũ công
nghiệp lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết... sẽ đem lại cho
doanh nghiệp không chỉ là lợi ích trước nmắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh nghiệp.

13

13


Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp cũng
như phù hợp với sự thay đổi của thị trường.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ, sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế
là đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp là từ những nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng
hợp riêng thu được từ việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ luật,
lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Đối với các đơn vị tư vấn xây dựng, con người là nguồn lực chủ yếu tạo ra sản phẩm, chất lượng sản phẩm, dịch

vụ có được tốt hay không là do yếu tố con người. Thông thường các khách hàng thuê tư vấn hành động như là cố
vấn kỹ thuật, lập các hồ sơ thiết kế, các tiêu chuẩn kỹ thuật, đấu thầu, giám sát xây dựng, quản lý dự án… Trong
một số trường hợp đặc biệt kỹ sư tư vấn còn thay mặt khách hàng thương thảo với nhà thầu hoặc nhà cung cấp.
Khi lựa chọn nhà tư vấn, khách hàng thường quan tâm đến tình hình tài chính, năng lực chuyên môn (các chuyên
gia chính), kinh nghiệm dự án, quốc gia tương tự…
Biểu dưới đây cho thấy khi đánh giá các nhà tư vấn, khách hàng quan tâm lớn nhất đến các chuyên gia chính.

Bảng 1-1: Bảng đánh giá của khách hàng đối với các nhà tư vấn
Loại công việc
Lập dư án đầu tư
Thiết kế chi tiết
Giám sát

Kinh nghiệm
của công ty
10-20
25-40
25-40

Kế hoạch thực hiện

Nhân sự chủ chốt

25-40
10-20
10-20

40-60
25-40
40-60


(Nguồn: Hội đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam)
Theo Nghị định 63/2014/NĐ-CP, ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định Tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật đối
với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn:
- Kinh nghiệm và năng lực nhà thầu: Từ 10% đến 20% tổng số điểm;
- Giải pháp và phương pháp luận để thực hiện gói thầu: Từ 30% đến 40% tổng số điểm;
- Nhân sự thực hiện gói thầu: Từ 50% đến 60% tổng số điểm;
- Tổng tỷ trọng điểm của nội dung trên bằng 100%;
- Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật được đánh giá đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật khi có điểm về kỹ thuật không thấp hơn
70% (80% đối với gói thầu tư vấn có yêu cầu kỹ thuật cao, đặc thù) tổng số điểm và điểm của từng nội dung
yêu cầu về kinh nghiệm và năng lực, về giải pháp và phương pháp luận, về nhân sự không thấp hơn 60%
(70% đối với gói thầu tư vấn có yêu cầu kỹ thuật cao, đặc thù) điểm tối đa của nội dung đó.

Bảng 1-2: Bảng tiêu chuẩn kỹ thuật đánh giá hồ sơ sự thầu tư vấn một dự án cụ thể
ST
T
1
2
3

Tiêu chuẩn

Điểm
Mức điểm yêu cầu
tối đa
tối thiểu
Kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu
20
12
Giải pháp và phương pháp luận

30
18
Nhân sự
50
30
Tổng cộng (100%)
100
70
(Nguồn: Ban quản lý Đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh Lạng Sơn)

Bảng 1-2 thể hiện năng lực kỹ thuật yêu cầu đối với nhà thầu tham gia dự thầu tư vấn khảo sát, thiết kế của một
dự án giao thông trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Theo bảng trên, yêu cầu về năng lực nhân sự chiếm 50% số điểm.
Năng lực nhân sự bao gồm: năng lực của chủ nhiệm dự án, năng lực chủ nhiệm khảo sát và số lượng, trình độ
cán bộ khảo sát, thiết kế tham gia vào dự án.

14

14


Tất nhiên đề xuất kỹ thuật cần phải vượt qua số điểm nhất định (thường là 70%) thì hồ sơ dự thầu mới được xem
xét.
Ngoài các tiêu chuẩn về kỹ thuật nêu trên, tiêu chuẩn về giá đề xuất thực hiện hợp đồng cũng là yếu tố quan
trọng, nhưng tỷ trọng điểm về giá chỉ chiếm khoảng 15-30%, thể hiện sự coi trọng yếu tố kỹ thuật trong lựa chọn
nhà tư vấn. Như vậy, có thể thấy rằng, đối với dịch vụ tư vấn, năng lực về nhân sự là rất quan trọng.

12

Khả năng liên danh, liên kết


Ngoài việc nâng cao năng lực của các đơn vị tư vấn để đảm bảo cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm, các nhà tư
vấn còn phải liên kết với nhau để cùng thực hiện các dự án có quy mô lớn mà bản thân một đơn vị tư vấn không
đủ khả năng thực hiện. Bên cạnh đó, theo pháp luật về đầu tư xây dựng hiện hành, đối với các đơn vị tư vấn mới
thành lập sẽ không đủ năng lực tham gia đấu thầu. Để đủ điều kiện tham gia đấu thầu, các đơn vị tư vấn mới
thành lập phải liên danh với các đơn vị đã có năng lực để tham gia một phần của dự án, từ đó nâng cao năng lực
của tổ chức mình. Do vậy, khả năng liên danh, liên kết là không thể thiếu trong quá trình hoạt động của bất kỳ
đơn vị tư vấn nào.

1.3

Nội dung cơ bản hình thành năng lực TVXD của các tổ chức tư vấn

1.3.1 Cơ cấu tổ chức quản lý của các tổ chức tư vấn xây dựng
13

Cơ cấu tổ chức quản lý chức năng

Là kiểu cơ cấu tổ chức quản lý theo chức năng với những nhiệm vụ quản lý được phân chia cho các đơn vị riêng
biệt thực hiện dưới dạng các phòng chức năng, hình thành nên các phân hệ chuyên môn hóa và những người lãnh
đạo chức năng. Đặc điểm cơ bản của cơ cấu này là chức năng quản lý phân chia thành từng đơn vị chuyên môn
đảm nhận. Lãnh đạo cao nhất của tổ chức làm nhiệm vụ phối hợp điều hòa các chức năng.

Lãnh đạo tổ chức

Lãnh đạo chức năng A

1

Lãnh đạo chức năng B


2

3

4

Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức kiểu chức năng
Ưu điểm của kiểu cơ cấu này là thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên
môn một cách thành thạo hơn, đồng thời giảm bớt gánh nặng về quản trị cho người lãnh đạo doanh nghiệp.
Nhược điểm chủ yếu của cơ cấu chức năng là một cấp dưới có nhiều cấp trên; người lãnh đạo doanh nghiệp
(lãnh đạo chung) phải phối hợp hoạt động của những người lãnh đạo chức năng, nhưng do khối lượng công tác
quản trị lớn, người lãnh đạo doanh nghiệp khó có thể phối hợp được tất cả các mệnh lệnh của họ, dẫn đến tình
trạng người thừa hành trong một lúc có thể phải nhận nhiều mệnh lệnh, thậm chí các mệnh lệnh lại trái ngược
nhau.

14

Cơ cấu trực tuyến

Là dạng cơ cấu tổ chức quản lý chỉ có một cấp trên chỉ huy và một số cấp dưới thực hiện. Đặc điểm cơ bản của
cơ cấu tổ chức quản trị trực tuyến là người lãnh đạo tổ chức thực hiện tất cả các chức năng quản trị, các mối liên

15

15


hệ giữa các thành viên trong tổ chức được thực hiện theo đường thẳng, người thừa hành mệnh lệnh chỉ làm theo
mệnh lệnh của một cấp trên trực tiếp. Với những đặc điểm đó, cơ cấu này tạo thuận lợi cho việc thực hiện chế độ
một thủ trưởng, người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của người dưới quyền.

Tuy nhiên, kiểu cơ cấu tổ chức này cũng có những nhược điểm. Nó đòi hỏi người lãnh đạo cần phải có kiến thức
toàn diện, tổng hợp hạn chế việc sử dụng các chuyên gia có trình độ cao về từng mặt quản trị; khi cần phối hợp,
hợp tác công việc giữa hai đơn vị, hoặc cá nhân ngang quyền thuộc các tuyến khác nhau thì việc báo cáo, thông
tin, thỉnh thị phải đi đường vòng theo kênh liên hệ đã quy định.

Lãnh đạo tổ chức

Lãnh đạo tuyến 1

Người thực hiện 1

Lãnh đạo tuyến 2

Người thực hiện n

Người thực hiện 1

Người thực hiện n

Hình 1.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến
15

Cơ cấu tổ chức quản lý hỗn hợp

Để khắc phục các nhược điểm của các cơ cấu trực tuyến và chức năng, hiện nay kiểu cơ cấu hỗn hợp (trực tuyến
- chức năng) được áp dụng rộng rãi và phổ biến cho mọi doanh nghiệp.
Trong đó các nhiệm vụ quản lý giao cho những đơn vị chức năng riêng biệt (các phòng chức năng) làm tham
mưu tư vấn cho lãnh đạo cao nhất của tổ chức. Đặc điểm của cơ cấu tổ chức quản lý theo kiểu kết hợp là lãnh
đạo các phòng chức năng tư vấn, chuẩn bị các quyết định quản lý và đưa tới cấp thực hiện (các văn phòng,
xưởng, xí nghiệp trực thuộc công ty) theo chỉ đạo của lãnh đạo Công ty. Việc điều hành quản lý vẫn theo trực

tuyến.
Lãnh đạo tổ chức

Lãnh đạo chức năng A

1

Lãnh đạo chức năng B

2

n

Hình 1.3: Sơ đồ cơ cấu tổ chức kiểu hỗn hợp

16

16


16

Cơ cấu tổ chức quản lý ma trận

Đặc điểm của cơ cấu này là ngoài những người lãnh đạo theo tuyến và các bộ phận chức năng, còn có những
người lãnh đạo đề án hay sản phẩm, phối hợp hoạt động của các bộ phận thực hiện một dự án nào đó.

Lãnh đạo
tổ chức
F1


F1

F1

O1
O2
F: Các phòng
chức năng;
O: Các dự án

O3
Hình 1.4: Sơ đồ cơ cấu tổ chức kiểu ma trận

Trong cơ cấu này mỗi nhân viên (hoặc bộ phận của bộ phận trực tuyến) được gắn với việc thực hiện một đự án
hoặc một sản phẩm nhất định. Đồng thời mỗi một nhân viên của bộ phận chức năng cũng được gắn với một đự
án hoặc sản phẩm nhất định.
Sau khi hoàn thành đự án, những nhân viên trong các bộ phận thực hiện đề án hay sản phẩm không chịu sự lãnh
đạo của người lãnh đạo theo đự án ấy nữa, mà trở về đơn vị trực tuyến hay chức năng cũ của mình.
Ưu điểm của cơ cấu ma trận: có tính năng động cao; dễ dàng chuyển các nhân viên từ việc thực hiện một dự án
này sang việc thực hiện một dự án khác; sử dụng nhân viên có hiệu quả hơn.
Nhược điểm kiểu cơ cấu này là nó thường chỉ áp dụng để thực hiện các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn.

1.3.2 Mô hình tổ chức sản xuất sản phẩm tư vấn xây dựng
Một trong những khâu quan trọng nhất của đơn vị tư vấn là việc tổ chức dây chuyền sản xuất các sản phẩm tư
vấn. Qua việc xem xét đã cho thấy mỗi một tổ chức tư vấn có một cách thức tổ chức sản xuất riêng, tuy cơ cấu tổ
chức có khác nhau về số lượng các đơn vị chuyên môn và các phòng nghiệp vụ nhưng tựu trung lại được quy về
năm mô hình cơ bản sau đây:

17


Mô hình sản xuất theo chuyên môn hóa

Phạm vi áp dụng loại mô hình này được áp dụng ở một số Công ty tư vấn lớn. Cơ cấu tổ chức sản xuất này cho
thấy những ưu điểm và nhược điểm sau:

17

+

Ưu điểm: Đây là mô hình có tính hiện đại, được áp dụng ở nhiều nước tiên tiến, mang tính chuyên môn
hóa theo các bộ môn; Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, hội nhập với tư vấn nước ngoài; Tập
trung nguồn lực, chuyên gia giỏi để thực thi cùng một lúc nhiều dự án và những dự án lớn để đáp ứng
yêu cầu tiến độ của khách hàng; Tạo ra môi trường thuận lợi cho việc học hỏi, trao đổi chuyên môn, đào
tạo cán bộ trẻ cho các bộ môn kỹ thuật; Thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị có cùng
chuyên ngành. Tích lũy lớn, lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho phát triển doanh nghiệp.

+

Nhược điểm: Đơn vị Chủ trì đồ án và Chủ nhiệm đồ án khó điều hành trực tiếp công việc mà phải qua
các đơn vị bộ môn chuyên ngành, do vậy tăng thêm đầu mối xử lý công việc, kéo dài thời gian thực
hiện; Việc trao đổi thông tin để phối hợp giữa các Chủ trì thiết kế với Chủ nhiệm đồ án và giữa các Chủ
trì thiết kế với nhau chưa được kịp thời; Việc hình thành các đơn vị chuyên ngành, làm tăng đầu mối

17


quản lý và tăng chi phí hành chính.
Phòng Hành chính,
Phó giám đốc

Kế hoạch

GIÁM ĐỐC

Phó giám đốc

Các phòng Kỹ thuật

Các Dự án

Phó Giám đốc

Các phòng Kỹ thuật

Các Dự án

Hình 1.5: Mô hình sản xuất theo chuyên môn hóa

18

18


18

Mô hình sản xuất theo hình thức tổng hợp các bộ môn

Ban giám đốc

Tài vụ, Kế hoạch, Tổ chức...


Quản lý kỹ thuật

Văn phòng 1

Văn phòng 2

Văn phòng n

Các dự án

Các dự án

Các dự án

Hình 1.6: Mô hình sản xuất theo hình thức tổng hợp các bộ môn
Phạm vi áp dụng: mô hình sản xuất này cũng được áp dụng ở đa số các tổ chức tư vấn (các công ty, tổng công ty
và doanh nghiệp tư nhân).
+

Ưu điểm: Chu trình sản xuất được khép kín, đơn vị Chủ trì đồ án và Chủ nhiệm đồ án hoàn toàn có thể
chủ động, trực tiếp tổ chức triển khai công việc. Việc trao đổi thông tin giữa các bộ môn diễn ra nhanh
chóng, kịp thời. Tiến độ thực hiện dự án được rút ngắn đáng kể; Chất lượng sản phẩm được Chủ nhiệm
dự án kiểm soát chặt chẽ trong quá trình thiết kế. Hồ sơ thiết kế kiểm soát tốt và dễ dàng được điều
chỉnh khi có yêu cầu; Tiết kiệm chi phí hành chính nhờ giảm bớt đầu mối. Khá thích ứng với việc triển
khai công việc hiện nay; Việc thanh toán lương sản phẩm được nhanh chóng do quy về một đơn vị chủ
trì.

+


Nhược điểm: Lực lượng cán bộ chuyên ngành bị dàn mỏng ra các bộ phận nên khó đáp ứng được các
yêu cầu của những dự án lớn; Hạn chế việc trao đổi học hỏi kinh nghiệm chuyên môn của các bộ môn
ngay trong quá trình thiết kế.

Mô hình này, tuy có nhiều ưu điểm hơn so với mô hình chuyên môn hóa nhưng đây vẫn chưa phải là mô hình tối
ưu, chưa đáp ứng được tất cả các đòi hỏi của các thể loại và quy mô dự án.

19

Mô hình sản xuất kết hợp chuyên môn hóa và tổng hợp

Áp dụng mô hình này giúp khắc phục những hạn chế đã nêu ở hai mô hình nói trên. Các đơn vị thiết kế tổng hợp
có nhiệm vụ thực hiện các dự án vừa và nhỏ (mà tỷ trọng loại này chiếm từ 50 - 70% khối lượng công việc) để
đáp ứng yêu cầu của đại đa số các chủ đầu tư. Với những dự án lớn có yêu cầu kỹ, mỹ thuật cao thì sử dụng các
đơn vị chuyên ngành để thực hiện. Tùy điều kiện cụ thể của từng nơi mà quy mô nhân lực của các đơn vị chuyên
ngành nhiều ít khác nhau. Phạm vi áp dụng thích hợp với các công ty lớn.

20

19

Mô hình sản xuất theo sơ đồ đầu mối

19


GIÁM ĐỐC

Kiểm soát


Kiểm soát

chất lượng

hợp đồng

Văn phòng

Các cộng tác viên

tư vấn trực thuộc

Hình 1.7: Mô hình sản xuất theo sơ đồ đầu mối
Phạm vi áp dụng dạng mô hình này thường áp dụng ở các Công ty tư vấn trực thuộc các Hội nghề nghiệp.

20

+

Ưu điểm: Bộ máy quản lý hết sức gọn nhẹ, khoảng từ 4-6 người, chi phí hành chính nhỏ. Sản lượng
thực hiện có thể lớn do cơ chế kinh tế "thoáng", thủ tục thanh toán đơn giản, nhanh chóng; Việc tư vấn
do các cộng tác viên khai thác được mang danh nghĩa Công ty để triển khai thực hiện. Lực lượng kỹ
thuật kiểm hồ sơ phần lớn do các chuyên gia có uy tín bên ngoài Công ty đảm nhận.

+

Nhược điểm: Công ty không quản lý được lực lượng cộng tác viên nên dễ lúng túng khi phải sửa đổi hồ
sơ hoặc xử lý các sự cố xảy ra; Khó nhận được các dự án lớn, quan trọng, gặp khó khăn trong quá trình
triển khai xây dựng; Lợi nhuận và tích luỹ không cao, ít có điều kiện đào tạo nâng cao trình độ cho nhân
viên.


20


21

Mô hình sản xuất theo sơ đồ một chuyên ngành
GIÁM ĐỐC

Bộ phận

Bộ phận

Thiết kế

Kế toán, hợp đồng

Chuyên gia, công tác viên kỹ thuật

Hình 1.8: Mô hình sản xuất theo sơ đồ một chuyên ngành
Phạm vi áp dụng mô hình này thích hợp với dạng văn phòng kiến trúc, công ty tư nhân. Mô hình này có các đặc
điểm:
+

Bộ máy tổ chức gọn nhẹ

+

Thuê chuyên gia các bộ môn kỹ thuật chuyên ngành bên ngoài để thực hiện dự án. Nhân viên có trình
độ chuyên môn tốt, được trả lương cao.


+

Chỉ có một tổ chức nhỏ làm đầu mối công việc giao dịch và chịu trách nhiệm pháp nhân, từ đó thuê lại
các cá nhân bên ngoài để thực hiện công việc.

+

Không chủ động về nhân lực trong việc triển khai công việc và xử lý những phát sinh.

+

Khó có điều kiện thực hiện các dự án lớn, phức tạp về kỹ thuật.

+

Không có tích lũy hoặc tích luỹ rất nhỏ để tăng trưởng và dành cho đào tạo.

1.3.3 Năng lực chuyên môn
Trình độ chuyên môn, kỹ năng, và kinh nghiệm là những yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá năng lực nhà tư
vấn. Chất lượng sản phẩm dịch vụ tư vấn phụ thuộc vào chính những yếu tố này. Những nội dung chủ yếu đánh
giá năng lực chuyên môn bao gồm: Khả năng thực hiện các loại hình dịch vụ tư vấn, khả năng nắm vững dây
chuyền công nghệ, ứng dụng công nghệ và vật liệu mới, trình độ và kinh nghiệm của nhà tư vấn, nắm bắt thông
lệ quốc tế và trình độ ngoại ngữ.

22

Các loại hình dịch vụ tư vấn

Trong những năm của nền kinh tế bao cấp, khái niệm về dịch vụ tư vấn hầu như chỉ gói gọn trong công tác thiết

kế và khảo sát. Điều này cũng phù hợp với cơ chế quản lý và chỉ đạo tập trung của nền kinh tế lúc bấy giờ.
Những năm gần đây, cùng với việc chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhu cầu về hội nhập và mở cửa cùng với
sự thâm nhập của các công ty tư vấn nước ngoài, nhà thầu quốc tế, cũng đặt ra những yêu cầu và phương thức
mới trong việc thực hiện các dự án đầu tư xây dựng. Trong bối cảnh như vậy, các loại hình về dịch vụ tư vấn đã
dần được phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu tư vấn kỹ thuật, kinh tế, pháp lý của chủ đầu tư và của các cơ quan
quản lý xây dựng (thể hiện trong bảng 1-3)
Hoạt động của các tổ chức tư vấn của nước ta chủ yếu là các dịch vụ 'truyền thống" như công tác khảo sát, thiết
kế, lập dự toán,...Những công việc này hiện vẫn là thế mạnh và được thực hiện tốt. Tuy nhiên, trong những hạng
mục nói trên, có những nội dung đòi hỏi nhà tư vấn phải mở rộng hiểu biết, cập nhật kiến thức mới đạt yêu cầu.
Có khá nhiều doanh nghiệp tư vấn nhỏ, không đầy đủ các hoạt động tư vấn, phần nào cũng ảnh hưởng tới tiến độ
thực hiện công việc theo yêu cầu của khách hàng, với năng lực như nêu trên việc đánh giá xếp hạng không thể
thực hiện được, do đó năng lực cạnh tranh là cực kỳ thấp;
Đến thời điểm hiện nay, một phần do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp, bên cạnh đó một phần
do tình hình đầu tư xây dựng có giảm sút, nhiều doanh nghiệp đang rất khó khăn trong các hoạt động của mình,

21

21


thậm trí trên bờ vực phá sản.

Bảng 1-3: Số liệu về cung cấp dịch vụ thiết kế, tư vấn xây dựng
Tên dịch vụ

Tỷ lệ (%) các tổ chức
tư vấn cung cấp

* Tư vấn chuẩn bị dự án
- Lập quy hoạch tổng thể, sơ đồ phát triển

- Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, khả thi
* Tư vấn thực hiện dự án
- Khảo sát địa kỹ thuật
- Lập thiết kế, tổng dự toán và dự toán
- Thẩm tra thiết kế, tổng dự toán và dự toán
- Lập hồ sơ mời thầu, phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu
- Giám sát thi công xây dựng
* Tư vấn khác
- Quản lý dự án
- Điều hành thực hiện dự án
- Đào tạo và chuyển giao công nghệ

82.61%
78.26%
86.96%
95.65%
78.26%
95.65%
91.30%
47.83%
43.48%
34.78%

(Nguồn: Hiệp hội Tư vấn Xây dựng Việt nam)
Các dịch vụ tư vấn khác nhau sẽ có những yêu cầu chuyên môn tương đối khác nhau. Trong khi công tác tư vấn
thiết kế, thẩm tra rất cần đến kiến thức chuyên môn sâu thì các công việc khác như giám sát, quản lý dự án,...lại
đòi hỏi rất nhiều đến kiến thức quản lý, khả năng nhanh nhạy, kinh nghiệm lâu năm và nắm bắt các văn bản pháp
quy.
Hiện tại, các chuyên gia tư vấn ít được đào tạo về kỹ năng quản lý nhưng lại thường không được chú trọng và
chưa thực hiện tốt vấn đề đào tạo này.

Qua nghiên cứu tìm hiểu thấy rằng, các tổ chức tư vấn xây dựng còn nhiều điểm yếu kém, cụ thể:
- Trong giai đoạn chuẩn bị dự án: Cơ sở dự liệu về thông tin công nghệ, vật liệu mới thiếu tính cập nhật, dặc
biệt là các lĩnh vực liên quan đến thiết bị và công nghệ đặc biệt; Thiếu tổng hợp, bao quát và đồng bộ tính
phản biện nhất là phân tích khi lập dự án đầu tư; Yếu kém trong các khâu về hợp đồng, đơn giá, định mức
lao động, tính toán tài chính dự án, đánh giá tác động môi trường,...
- Trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật, Thiết kế bản vẽ thi công: Thiếu tính đồng nhất về hình thức và nội dung.
Hồ sơ thiết kế kỹ thuật chưa đầy dủ và không rõ ràng; Việc phân tích, so sánh kinh tế, kỹ thuật còn mang
đậm tính hình thức, đặc biệt là thiếu các chuẩn mực khi so sánh.
- Trong giai đoạn đấu thầu và thi công xây dựng: Tư vấn đấu thầu còn mang nặng tính hình thức, chưa phát
huy hết hiệu quả của công tác này; Giám sát thi công chưa bao quát được các vấn đề.
Điều này thể hiện rằng, đa số các tổ chức tư vấn xây dựng chưa có hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm và dịch
vụ đồng bộ, thiếu các quy trình thực hiện.

23

Trình độ kinh nghiệm của các nhà tư vấn

Trình độ chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm là những yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá năng lực của nhà
tư vấn. Chất lượng sản phẩm dịch vụ tư vấn phụ thuộc vào chính những yếu tố này. Nhìn từ góc độ bằng cấp,
hiện nay trình độ chuyên môn của tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn là tương đối cao. Tỷ lệ trung bình
nhân viên kỹ thuật có trình độ đại học là trên 70%.
Các kiến trúc sư, kỹ sư ở độ tuổi 23-40 tuổi chiếm trên 60% tổng số lượng tư vấn. Cán bộ tư vấn ở độ tuổi 51-60
chiếm 16% và nhiều cán bộ tư vấn ở độ tuổi này là những người có năng lực và kinh nghiệm.

22

22


24


Đánh giá chung

Qua những nội dung đã trình bày trên, có thể đi đến nhận xét về mặt năng lực tư vấn xây dựng của các tổ chức tư
vấn xây dựng như sau:
+

Tư vấn xây dựng đã phát triển và bao quát toàn bộ loại hình công việc trong các giai đoạn của dự án.
Công tác nghiên cứu chuyển giao công nghệ vẫn bị coi là thứ yếu và chưa được quan tâm thích đáng.

+

Các tổ chức tư vấn đã xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng của mình với những mức độ khác
nhau: 86% tổ chức tư vấn có một bộ phận riêng biệt (như Phòng kỹ thuật) để kiểm tra quản lý đánh giá
chất lượng (chủ yếu ở các tổ chức tư vấn vừa và nhỏ); 14% tổ chức tư vấn phân cấp ủy quyền quản lý
chất lượng cho cán bộ quản lý chất lượng cấp dưới hay các Chủ nhiệm kết hợp với cá nhân lãnh đạo
được phân công cùng chịu trách nhiệm.

+

Các doanh nghiệp tư vấn xây dựng vừa và nhỏ hiện nay cơ bản đúng là “nhỏ”, phần lớn nhân sự mỗi
doanh nghiệp khoảng 10 -15 người, trong đó “chuyên gia” trong khoảng trên dưới 10 người, hầu như
chuyên gia trong các doanh nghiệp này là cộng tác viên (một người cộng tác cùng lúc nhiều doanh
nghiệp), các chuyên gia có kinh nghiệm và kỹ năng không nhiều (do dòng chảy nhân sự trong cơ chế thị
trường), tiếp cận công việc theo hình thức truyền nhau nên không cơ bản và thụ động. Trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn hiện có 04/61 đơn vị tư vấn là có số lượng kỹ sư đủ điều kiện hành nghề trên 20 người, các
doanh nghiệp này đều là những doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, còn lại 57/61 đơn vị tư
vấn là các doanh nghiệp mới thành lập, hoặc các chi nhánh hoạt động trên địa bàn, với số lượng nhân sự
khoảng 15 - 25 người, số lượng kỹ sư đủ điều kiện hành nghề dưới 10 người, thậm chí dưới 5 người.


Phần lớn các doanh nghiệp chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là với các dự án có quy mô và tính
chất yêu cầu kỹ thuật cao, chủ yếu tham gia vào các dự án lập báo cáo kinh tế kỹ thuật ĐTXD các công trình cấp
IV, rất ít doanh nghiệp đã tham gia các dự án cấp II và III.
Phân cấp công trình xây dựng được quy định tại Thông tư số 03/2016/TT-BXD, ngày 10/3/2016 của Bộ Xây
dựng về phân cấp công trình xây dựng và hướng dẫn áp dụng trong quản lý hoạt động đầu tư xây dựng.
+

Ngoài một số ít các doanh nghiệp Tư vấn lớn có truyền thống, bề dày kinh nghiệm, còn lại là các doanh
nghiệp Tư vấn nhỏ lẻ mới hình thành trong những năm gần đây, còn yếu về năng lực. Hiện nay thiếu
các tư vấn chất lượng cao ở tầm vĩ mô trong việc đề xuất các chủ trương đầu tư xây dựng, quy hoạch,
lập dự án, đề xuất các giải pháp kỹ thuật công nghệ chính xác, hợp lý, khả thi; Trong nhiều trường hợp
đã để xảy ra các sai sót, phải điều chỉnh cho quá trình xây dựng gây tốn kém, lãng phí, ảnh hưởng lớn
đến chất lượng công trình. Nhiều tổ chức tư vấn do đòi hỏi bức bách của công việc mà hình thành, chưa
có những định hướng, chiến lược phát triển rõ rệt. Các Công ty tư vấn xuất hiện tràn lan, đã bắt đầu có
hiện tượng một số doanh nghiệp tư vấn về việc thực hiện dịch vụ theo kiểu môi giới hoặc thuê mượn,
thiếu thực lực gây hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động tư vấn.

1.3.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
Cơ sở vật chất và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong các tổ chức tư vấn xây dựng. Bên cạnh yếu tố về
chuyên môn thì yếu tố về công nghệ cũng rất quan trọng trong hoạt động của các tổ chức tư vấn xây dựng, nó thể
hiện sự năng động, nhạy bén nắm bắt được các công nghệ mới, hiện đại ứng dụng vào sản xuất, đặc biệt trọng
giai đoạn hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát triển rất nhanh.

1.3.5 Ứng dụng công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin đã đem lại nhiều hiệu quả to lớn trong công tác nghiên cứu, tư vấn, thiết kế. Với sự trợ giúp
của máy tính, tốc độ thực hiện các dự án được tăng lên, tính toán được chuẩn hơn, mức độ tự động hóa cao hơn
và trình bày thể hiện cũng đẹp hơn.
Do khả năng tích lũy của các tổ chức tư vấn xây dựng còn thấp nên việc đầu tư cho xây dựng, cải tạo nâng cấp
cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất hạn chế và bị động. Các phần mềm đa phần không có bản quyền. Số lượng các tổ
chức tư vấn có mạng nội bộ và xây dựng được websitte chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 30%).


1.3.6 Năng lực tài chính
23

23


Bởi đa số các tổ chức tư vấn xây dựng là các doanh nghiệp nhỏ nên hầu hết nguồn lực tài chính còn khiêm tốn,
vốn pháp định không cao và doanh thu không lớn từ đó không có điều kiện tích lũy tài chính.
Mặt khác, đối với các tổ chức tư vấn xây dựng, năng lực về chuyên môn (con người) là chủ yếu, mang tính chất
quyết định, năng lực về tài chính có ảnh hưởng đến năng lực chung của tổ chức nhưng không đáng kể, vì khi
thực hiện các dịch vụ tư vấn xây dựng, các chi phí về nguyên vật liệu, máy móc là không đáng kể, chủ yếu là trả
lương.

1.4

Các tiêu chí đánh giá năng lực tư vấn của các tổ chức tư vấn xây dựng

Theo quan điểm của nhiều chuyên gia khác trong ngành xây dựng, năng lực tư vấn của một doanh nghiệp được
thể hiện qua một số tiêu chí cơ bản sau:
- Các loại hình dịch vụ tư vấn;
- Cơ cấu tổ chức, năng lực tổ chức quản lý;
- Năng lực tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh;
- Mặt bằng nhân lực, trình độ chuyên môn;
- Kinh nghiệm, uy tín của tổ chức trong lĩnh vực tư vấn;
- Cơ hội phát triển;
Một tổ chức tư vấn xây dựng muốn tồn tại và phát triển cần phải hội đủ các tiêu chí sau:
- Năng lực tổ chức quản lý: Xây dựng hệ thống các văn bản quản lý điều hành; Xây dựng hệ thống quản lý
chất lượng.
- Năng lực tổ chức điều hành SXKD: Có dịch vụ đa dạng; Có tầm nhìn, biết hướng về tương lai; Hoạt động có

hiệu quả.
- Mặt bằng nguồn nhân lực, năng lực chuyên môn: Giỏi về nghiệp vụ chuyên môn; Có năng lực làm việc tốt
với chủ đầu tư; Có uy tín; Độc lập, khách quan; Có khả năng sáng tạo và đổi mới;
- Năng lực về máy, thiết bị và công nghệ: Trang bị đầy đủ các máy, thiết bị phục vụ sản xuất;
- Ứng dụng công nghệ thông tin: khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất, t rang bị các phần
mềm tính toán chuyên ngành;
Theo Nghị định số 59/2015/NĐ-CP, ngày của Chính phủ, yêu cầu năng lực của tổ chức tư vấn xây dựng bao gồm
một số nội dung chủ yếu sau:
- Năng lực của tổ chức khảo sát xây dựng: Có ít nhất 03 người có chứng chỉ hành nghề khảo sát xây dựng phù
hợp với lĩnh vực hoạt động; Có ít nhất 05 người trong hệ thống quản lý chất lượng của tổ chức khảo sát xây
dựng có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với loại hình khảo sát xây dựng;
- Tổ chức tư vấn lập quy hoạch xây dựng: Có ít nhất 5 (năm) người có có chứng chỉ hành nghề thiết kế quy
hoạch xây dựng; những người chủ trì các bộ môn phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp với lĩnh vực chuyên
môn đảm nhận; Có ít nhất 10 (mười) người có chuyên môn phù hợp với loại quy hoạch xây dựng.
- Tổ chức thiết kế, thẩm tra thiết kế xây dựng công trình: Có ít nhất 5 (năm) người có chứng chỉ thiết kế phù
hợp với loại công trình xây dựng; những người chủ trì thiết kế lĩnh vực chuyên môn phải có chứng chỉ hành
nghề thiết kế phù hợp với công việc đảm nhận; Có ít nhất 5 (năm) người trong hệ thống quản lý chất lượng
của tổ chức thiết kế xây dựng công trình có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với loại công trình xây dựng.
- Tổ chức lập, thẩm tra dự án đầu tư xây dựng: Có ít nhất 3 (ba) người có đủ điều kiện năng lực làm chủ
nhiệm lập dự án phù hợp với loại dự án ĐTXD; Những người chủ trì lĩnh vực chuyên môn của dự án phải có
chứng chỉ hành nghề phù hợp với lĩnh vực chuyên môn đảm nhận; Có tối thiểu 10 (mười) người có chuyên
môn, nghiệp vụ phù hợp với loại dự án ĐTXD.
- Tổ chức tư vấn quản lý dự án: Có ít nhất 3 (ba) người đủ điều kiện năng lực làm giám đốc quản lý dự án
cùng loại; Những người phụ trách các lĩnh vực chuyên môn phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp với công
việc đảm nhận; Có ít nhất 10 (mười) người trong hệ thống quản lý chất lượng của tổ chức tư vấn có chuyên
môn, nghiệp vụ phù hợp với loại dự án ĐTXD.
- Tổ chức giám sát thi công xây dựng, kiểm định xây dựng: Có ít nhất 5 (năm) người có chứng chỉ hành nghề
giám sát thi công xây dựng, kiểm định xây dựng hạng III phù hợp với lĩnh vực giám sát thi công xây dựng,
kiểm định xây dựng.
- Tổ chức tư vấn quản lý chi phí đầu tư xây dựng: Có ít nhất 3 (ba) người có chứng chỉ hành nghề định giá xây

dựng; Có ít nhất 5 (năm) người có chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với công tác quản lý chi phí đầu tư xây
dựng.
Các tiêu chí trên thể hiện rõ ràng những đòi hỏi về trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm, kỹ năng và hiểu biết cần
thiết đối với một tổ chức tư vấn xây dựng. Toàn bộ những điểm trên gắn kết chặt chẽ với nhau như một chuỗi
mắt xích phản ánh một cách đồng bộ năng lực của một công ty tư vấn.

24

24


1.5

Cơ sở thực tiễn về năng lực tư vấn của các tổ chức tư vấn xây dựng

Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, đến năm 2015 tổng số doanh nghiệp hoạt động ngành xây dựng khoảng
77.500 doanh nghiệp, chưa kể nhiều doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp gia đình không đăng ký.
Theo Công bố của Bộ Xây dựng tại, trên địa bàn cả nước có 5.616 tổ chức tham gia hoạt động tư vấn xây dựng.
Trong đó có 216 đơn vị có phòng thí nghiệm được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thí nghiệm
chuyên ngành xây dựng.
Năm 2017, Bộ GTVT công bố xếp hạng năng lực và kết quả thực hiện của các tổ chức tư vấn ngành Giao thông
vận tải năm 2016 theo từng lĩnh vực: đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa - hàng hải, đường hàng không.
Trong đó lĩnh vực thiết kế đường bộ có 123 doanh nghiệp; lĩnh vực tư vấn giám sát đường bộ có 105 doanh
nghiệp (Quyết định số 1386/QĐ-BGTVT ngày 16/5/2017 của Bộ GTVT). Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chỉ có 02
doanh nghiệp có tên trong bảng xếp hạng. Theo bảng xếp hạng, Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng giao thông
Lạng Sơn đứng thứ 46 trong lĩnh vực Tư vấn thiết kế và thứ 60 trong lĩnh vực Tư vấn giám sát.
Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện có 107 doanh nghiệp đăng ký hoạt động xây dựng theo quy định. Trong đó có
61 tổ chức có hoạt động tư vấn xây dựng; Có 03 đơn vị có phòng thí nghiệm được cấp Giấy chứng nhận đủ điều
kiện hoạt động thí nghiệm chuyên ngành xây dựng.


25

25


×