Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TÁC ĐỘNG của KHỦNG HOẢNG từ KHU vực KINH tế CHUNG CHÂU âu đến HOẠT ĐỘNG đầu tư và THỊ TRƯỜNG tài CHÍNH CHÂU á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.89 KB, 16 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TỪ KHU VỰC KINH TẾ CHUNG CHÂU ÂU
ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH CHÂU Á

Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu là thuật ngữ viết tắt cho cuộc đấu tranh
(những nỗ lực) của châu Âu để trả các khoản nợ phát sinh từ những thập kỷ
gần đây. Năm trong số các quốc gia trong khu vực bao gồm – Hy Lạp, Bồ Đào
Nha, Ai Len, Ý và Tây Ban Nha – với mức độ khác nhau, đã thất bại trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đủ để giúp các nước này có khả năng hoàn trả cho
chủ sở hữu trái phiếu,đảm bảo đúng dự định của nó.

Nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm chạp kể từ cuộc khủng hoảng tài chính
Mỹ 2008 - 2009, cuộc khủng hoảng mà đã phơi bày hàng loạt các chính sách
tài khóa không bền vững của các quốc gia ở châu Âu và khắp nơi trên thế giới.
Hy Lạp, quốc gia đã chịu rất nhiều năm và thất bại trong việc thực hiện cải
cách tài khóa, là một trong những nước đầu tiên gánh chịu tăng trưởng chậm
chạp.

Do đó, khi tăng trưởng chậm lại, các khoản thu từ thuế cũng ít đi - dẫn đến
thâm hụt ngân sách cao không bền vững. Kết quả là vào cuối năm 2009, Tân
Thủ tướng George Papandreou đã buộc thông báo rằng các Chính Phủ trước
đây đã không tiết lộ quy mô thâm hụt ngân sách của quốc gia. Sự thật là, các
khoản nợ của Hy Lạp quá lớn đến nỗi nó thực sự vượt quá kích thước của toàn
bộ nền kinh tế quốc gia và Chính phủ không thể che đậy các vấn đề lâu hơn
nữa.


Các nhà đầu tư phản ứng bằng cách yêu cầu lợi nhuận(lãi suất) cao hơn trên
trái phiếu của hy Lạp, làm tăng gánh nặng nợ công và dẫn đến yêu cầu phải
có một loạt các gói cứu trợ của Liên minh châu Âu và Ngân hàng Trung ương
châu Âu (ECB). Các thị trường ở các quốc gia đang mắc nợ nhiều trong khu
vực cũng bắt đầu đẩy lãi suất trái phiếu lên cao, khi dự đoán các vấn đề tương


tự như những gì đã xảy ra ở Hy Lạp.

Châu Âu là một liên minh tiền tệ, nhưng không phải là một liên minh tài
chính. Điều này có nghĩa rằng nếu một nền kinh tế rơi vào khó khăn
nghiêm trọng thì sẽ không có sự chuyển đổi tự động của các nguồn
lực từ phần còn lại của châu Âu, (như là trường hợp ở Hoa Kỳ). Do
đó, một nền kinh tế gặp khó khăn cũng không có khả năng phá giá
đồng tiền và do đó mòn mỏi trong tình trạng suy thoái. Suy thoái
kinh tế này dẫn đến thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ ngày càng tăng.

Ba kịch bản cho khu vực đồng tiền chung châu Âu :

1. Kế hoạch đấu tranh của châu Âu, cứu trợ và thúc đẩy hội nhập sâu hơn tài

chính và chính trị

2. Tan vỡ có trật tự của EU trong đó Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý làm vòng

rào quanh một số cách thức chống lại sự lây lan của Hy Lạp.

3. Tan vỡ không có trật tự của EU

Murenbeeld tin rằng có khoảng một khả năng 5% của kịch bản 1 sẽ đến, 40%
khả năng kịch bản 2 sẽ xảy ra và một 55% cơ hội rằng sẽ có một tan vỡ không
có trật tự của khu vực đồng euro.


(Martin Murenbeeld, trưởng chuyên gia kinh tế ở Dundee Wealth Economics)

Châu Á thực hiện rất nhiều giao dịch thương mại với châu Âu. Liên minh châu

Âu ( là nhóm của 27 quốc gia thuộc khu vực sử dụng đồng Euro) là nền kinh tế
lớn nhất trên thế giới, chiếm 27% GDP toàn cầu. Trong khi đó, Hoa Kỳ là
23% GDP toàn cầu. Châu Á (trừ Nhật Bản và Australia, nhưng bao gồm cả
Trung Quốc và Ấn Độ) chiếm 18% GDP của nền kinh tế thế giới. Châu Á xuất
khẩu đạt $541 tỷ đô la vào Liên minh châu Âu trong năm 2010. Châu Âu
chiếm 16% kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của châu Á – trước khi tính đến giao
dịch thương mại trong nội bộ châu Á mà cuối cùng là nguồn cung cấp cho nhu
cầu của các nước Châu Âu (ví dụ Hàn Quốc xuất khẩu các thành phần nguyên
liệu đến Thái Lan, sau đó xuất khẩu thành phần đến châu Âu).

Khi nhìn vào tài khoản vốn của châu Á, dễ dàng nhận thấy rằng khu vực đồng
tiền chung châu Âu là một nhà đầu tư quan trọng của châu Á trong một vài
năm gần đây – cả về các tài sản tài chính và đầu tư trực tiếp. Việc sự kiện
khủng hoảng đồng Euro, các nhà đầu tư khu vực đồng tiền Euro quan tâm đến
vốn ở dạng tài sản có tính thanh khoản, đồng Euro, và lấy lợi nhuận bất cứ
nơi nào có thể, Tất cả 3 yếu tố cho thấy sự trở về với các thị trường tài chính
châu Á, bây giờ dường như đang xảy ra.

Với cuộc khủng hoảng thị trường tài chính ở khu vực đồng tiền chung châu
Âu, dường như rất có thể là các chính phủ tăng cường các quy định ở khu vực
tài chính. Một số chính sách về tự do hóa dòng vốn trong hai thập kỷ qua có
thể sẽ thay đổi. Nếu các ngân hàng, bảo hiểm, hoặc các quỹ hưu trí đang được
nói tăng việc nắm giữ trái phiếu bằng đồn Euro (cho những lý do “thận
trọng”), họ sẽ ít có khả năng để đầu tư ra nước ngoài. Dòng chảy vốn trong
tương lai từ khu vực đồng tiền chung châu Âu đến châu Á sẽ ít hơn những năm


trước đây. Thật vậy, dòng vốn có thể ít hơn đáng kể..

BÀI LÀM

Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu là thuật ngữ viết tắt cho cuộc đấu tranh (những
nổ lực) của châu Âu để trả các khoảng nợ phát sinh từ những thập kỷ gần đây.
Năm trong số các quốc gia trong khu vực bao gồm – Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ai
Len, Ý và Tây Ban Nha – với mức độ khác nhau, đã thất bại trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đủ để giúp các nước này có khả năng hoàn trả cho chủ sở hữu
trái phiếu, đảm bảo đúng dự định của nó.
Như vậy, cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu đã bắt đầu như thế nào?
Thứ nhất: Nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm chạp kể từ cuộc khủng hoảng
tài chính Mỹ 2008-2009, cuộc khủng hoảng mà đã phơi bày hàng loạt các chính
sách tài khóa không bền vững của các quốc gia ở châu Âu và khắp nơi trên thế
giới. Hy Lạp, quốc gia đã trải qua rất nhiều năm và thất bại trong việc thực hiện
cải cách tài khóa, là một trong những nước đầu tiên gánh chịu tăng trưởng chậm
chạp. Do đó, khi tăng trưởng chậm lại, các khoản thu từ thuế cũng ít đi- dẫn đến
thâm hụt ngân sách cao không bền vững. Kết quả là vào cuối năm 2009, Tân Thủ
tướng George Papandreou đã buộc thông báo rằng các Chính Phủ trước đây đã
không tiết lộ quy mô thâm hụt ngân sách của quốc gia. Sự thật là, các khoảng nợ


của Hy Lạp quá lớn đến nỗi nó thực sự vượt quá kích thước của toàn bộ nền kinh
tế quốc gia và Chính phủ không thể giấu các vấn đề lâu hơn nữa.

Thứ 2: Các nhà đầu tư phản ứng bằng cách yêu cầu lợi nhuận (lãi suất) cao
hơn trên trái phiếu của hy Lạp, làm tăng gánh nặng nợ công và dẫn đến yêu cầu
phải có một loạt các gói cứu trợ của Liên minh châu Âu và Ngân hàng Trung ương
châu Âu (ECB). Các thị trường ở các quốc gia đang mắc nợ nhiều trong khu vực
cũng bắt đầu đầy đủ lãi suất trái phiếu lên cao, khi dự đoán các vấn đề tương tự
như những gì đã xảy ra ở Hy Lạp.
Tại sao Nhật Mỹ không bị khủng hoảng nợ, trong khi tỉ lệ nợ của họ lần
lượt là 230% và 100% của GDP?



Nếu trong một quốc gia riêng lẻ thì làm sao đối phó với sự chênh lệch ở khu
vực? Có 2 cách để bù đắp cho khu vực phát triển chậm đó là sự chuyển đổi chính
sách tài khóa của chính phủ và sự di cư của lao động. Nhưng ở khu vực kinh tế
chung châu Âu thì nền kinh tế yếu như Hy Lạp không thể giảm giá đồng tiền của
mình, không thể chuyển đổi tài chính từ bên ngoài và không thể giảm thiểu thất
nghiệp bởi sự di cư lao động trong khu vực chung châu Âu. Cũng không thể cân
bằng nợ của mình bằng cách in tiền nhiều hơn như vậy vấn đề khủng hoảng là
không thể thoát khỏi.
Vấn đề này được lý giải vì châu Âu là một liên minh tiền tệ, nhưng không
phải là một liên minh tài chính. Điều này có nghĩa rằng nếu một nền kinh tế rơi
vào khó khă nghiêm trọng thì sẽ không có sự chuyển đổi tự động của các nguồn
lực từ phần còn lại của châu Âu, (như là trường hợp ở Hoa Kỳ). Do đó, một nền
kinh tế gặp khó khăn cũng không có khả năng phá giá đồng tiền và do đó mòn mỏi
trong tình trạng suy thoái. Suy thoái kinh tế này dẫn đến thâm hụt ngân sách và nợ
chính phủ ngày càng tăng.

Tại sao Châu Á nên quan tâm đến cuộc khủng hoảng này của khu vực Châu
Âu?
Giao dịch giữa châu Á và châu Âu


Châu Á thực hiện rất nhiều giao dịch thương mại với châu Âu Liên minh
Châu Âu ( là nhóm của 27 quốc gia thuộc khu vực sử dụng đồng euro) là nền kinh
tế lớn nhất trên thế giới, chiếm 27% GDP toàn cầu. Trong khi đó, Hoa Kỳ là 23%
GDP toàn cầu. Châu Á (trừ Nhật Bản và Australia, nhưng bao gồm cả Trung Quốc
và Ấn Độ) chiếm 18% GDP của nền kinh tế thế giới. Châu Á xuất khẩu đạt $541
tỷ đô la vào Liên minh châu Âu trong năm 2010. Châu Âu chiếm 16% kim ngạch
xuất khẩu trực tiếp của châu Á – trước khi tính đến giao dịch thương mại trong nội
bộ châu Á mà cuối cùng là nguồn cung cấp cho nhu cầu của các nước Châu Âu

(ví dụ Hàn Quốc xuất khẩu các thành phần nguyên liệu đến Thái Lan, sau đó xuất
khẩu thành phần đến châu Âu).
Sự trở về với các thị trường tài chính châu Âu
Khi nhìn vào tài khoản vốn của châu Á, dễ dàng nhận thấy rằng khu vực
đồng tiền chung châu Âu là một nhà đầu tư quan trọng của châu Á trong một vài
năm gần đây – cả về các tài sản tài chính và đầu tư trực tiếp. Việc sự kiện khủng
hoảng đồng euro, các nhà đầu tư khu vực đồng tiền euro quan tâm đến vốn ở
dạng tài sản có tính thanh khoản, đồng euro, và lấy lợi nhuận bất cứ nới nào
có thể, tất cả 3 yếu tố cho thấy sự trở về với các thị trường tài chính châu Á, bây
giờ dường như đang xảy ra.
Sự đổi chiều của dòng vốn
Với cuộc khủng hoảng thị trường tài chính ở khu vực đồng tiền chung châu
Âu, dường như rất có thể là các chính phủ tăng cường các quy định ở khu vực tài
chính. Một số chính sách về tự do hóa dòng vốn trong hai thập kỷ qua có thể sẽ
thay đổi. Nếu các ngân hàng, bảo hiểm, hoặc các quỹ hưu trí đang được nói tăng
việc nắm giữ trái phiếu bằng đồn euro (cho những lý do “thận trọng”), họ sẽ ít có
khả năng để đầu tư ra nước ngoài. Dòng chảy vốn trong tương lai từ khu vực đồng
tiền chung châu Âu đến châu Á sẽ ít hơn những năm trước đây. Thật vậy, dòng
vốn có thể ít hơn đáng kể.

Tập trung vào thị trường nội địa


Điều gì xảy ra với đồng euro sẽ tác động đến những nền kinh tế và thị
trường khu vực châu Á trong một vài năm tới. Châu Á phải thay đổi để đối phó
với những thách thức của khủng hoảng bao vây khu vực đồng euro. Châu Á cần
dựa vào nhu cầu thị trường nội địa và vốn trong nước nhiều hơn.
Tác động của khủng hoảng nợ châu Âu lên các công ty châu Á
 Tác động của khủng hoảng nợ khu vực euro lên các công ty châu Á nên
được “quản lý” bởi sự gia tăng của các giao dịch thương mại trong khu

vực và sự phụ thuộc nhiều hơn vào các ngân hàng khu vực.
 Kênh đầu tiên mà khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể tác
động đến châu Á là việc giảm nhu cầu đối với hàng xuất khẩu châu Á.
Tuy nhiên những công ty dựa phần lớn vào xuất khẩu các nước châu Âu thì
chỉ là một nhóm tương đối nhỏ. Đó là bởi vì một số lượng đáng kể giao
dịch thương mại quan trọng ở châu Á nằm ở trong khu vực.
Ảnh hưởng trực tiếp từ nợ khu vực đồng tiền chung châu Âu đến châu Á là
hạn chế
Những mặt tích cực rằng châu Á có nguồn dự trữ lớn và nợ công thấp và
những yếu tố này sẽ giúp bảo vệ châu Á, nhưng chúng sẽ không làm cho nó miễn
dịch.
Tác động đến thương mại
Thương mại sẽ bị ảnh hưởng lớn như thế nào? Khả năng thay thế của việc
tăng nhu cầu thị trường nội địa thay cho việc giảm nhu cầu thị trường ngoại quốc
khác nhau qua các quốc gia. Nên tác động thương mại đến mỗi quốc gia nó phục
thuộc vào:
 Quy mô của quốc gia (hoặc tầm quan trọng của xuất khẩu)
 Khả năng tài chính.
Đối với Trung Quốc có lợi thế về quy mô và khả năng. Singapore có vị thế tài
chính khả mạnh nhưng lại có thị trường nội địa quá nhỏ. Ấn Độ có quy mô lớn


nhưng khả năng tài chính yếu. Philippines gặp bất lợi ở cả quy mô và khả năng
tài chính.

Với 20% sản lượng xuất khẩu đến EU, cả Trung Quốc và Ấn Độ sẽ bị tác
động, mặc dù có một cái nhìn tươi sáng hơn cho Hoa Kì, nó cũng sẽ tác động đến
các nhà xuất khẩu hàng đầu ở trong khu vực bao gồm Hàn Quốc, Thái Lan và Đài
Loan. Sự tăng trưởng của Châu Âu chậm lại (hoặc thậm chí âm), dẫn đến xuất
khẩu đến khu vực châu Âu cũng đi xuống, các nhà xuất khẩu châu Á sẽ bị ảnh

hưởng. Khi Châu Âu tăng trưởng chậm lại, xuất khẩu của Trung Quốc sang Châu
Âu suy giảm, xuất khẩu của châu Á đến Trung Quốc đi xuống như vậy châu Á bị
ảnh hưởng.
Tiêu thụ nội địa
Mặt khác, sức tiêu thụ được duy trì hợp lý ở một số quốc gia như Trung
Quốc và Indonesia, giúp hỗ trợ hoạt động, trong khi đó thêm vào nữa là sự gia
tăng thị phần của giao dịch thương mại và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
những quốc gia này là ở bên trong châu Á.
Tuy nhiên, một số công ty châu Á chịu tác động từ cuộc khủng hoảng châu
Âu nhiều hơn so với những công ty khác. Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng điện tử,
các công ty Nhật Bản như Sony bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi suy thoái kinh tế từ


các thị trường phát triển của châu Âu so với các đối thủ cạnh tranh của Hàn Quốc
như Samsung tập trung vào các thị trường đang phát triển. Đối với ngành công
nghiệp ô tô, những công ty ở cả Nhật Bản và Hàn quốc sẽ hứng chịu một số tác
động do nhu cầu từ châu Âu chậm hơn. Tuy nhiên, các nhà sản xuất ô tô Nhật bản
đang gánh chịu sự sụt giảm ở Mỹ hơn là ở châu Âu.
Sự chuyển dịch đối trọng của nền kinh tế
Quỹ tiền tệ thế giới ước tính 70% sự tăng trưởng của thế gới trong một vài
năm tiếp theo sẽ đến từ các thị trường mới nổi. Trong đó Trung quốc và Ấn Độ sẽ
chiếm 40% của sự tăng trưởng này. Kết qủa là những thị trường mới nổi hiện nay
được dự kiến sẽ vược qua các nền kinh tế phát triển trong phần GDP thế giới sớm
nhất là 2014.

Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường tài
chính?
Khả năng lây lan đã làm cho cuộc khủng hoảng nợ châu Âu như một điểm
đầu mối quan trọng cho các thị trường tài chính thế giới trong giai đoạn 2010 –



2012. Với những biến động thị trường năm 2008 và 2009 khá gần đây trong bộ
nhớ, phản ứng của các nhà đầu tư với những thông tin xấu từ châu Âu xảy ra
nhanh chóng : bán bất cứ cái gì nguy hiểm, và mua trái phiếu chính phủ ở
những quốc gia lớn nhất và có tài chính tốt nhất . Thông thường , cổ phiếu
ngân hàng châu Âu và các thị trường châu Âu nói chung – diễn biến tồi tệ hơn
nghiều so với các đối tác toàn cầu của họ trong suốt thời gian khi cuộc khủng
hoảng ở trung tâm. Các thị trường trái phiếu của các quốc gia bị ảnh hưởng cũng
thực hiện kém, vì gia tăng lãi suất có nghĩa là giá đang giảm. Đồng thời, lãi suất
trái phiếu chính phủ Mỹ giảm xuống mức thấp kỷ lục trong lịch sử trong sự phản
ánh của các nhà đầu tư là “ chuyến bay đến nơi an toàn”
Tác động của khủng hoảng khu vực liên minh châu Âu đến thị trường
tài chính
 Cú sốc đối với sự ổn định của thị trường tài chính, nếu Hy Lạp rút khỏi khu
vực châu Âu, cú sốc sẽ thậm chí còn lớn hơn.
 Làm suy yếu khả năng của các tổ chức tài chính tư nhân.
 Chính sách tài khóa thắt chặt của chính phủ.
 Chưa có một giải pháp thực sự nào giải quyết cuộc khủng hoảng nợ, tác
động này có thể kéo dài.
 Sự chậm lại của nền kinh tế, cũng như thương mại và đầu tư

Tại sao lợi tức trái phiếu tăng phản ứng lại cuộc khủng hoảng này và điều này
hàm chứa ý nghĩa gì?
Lý do cho lãi suất trái phiếu tăng cao rất đơn giản : nếu các nhà đầu tư nhìn
thấy nguy cơ cao liên quan đến việc đầu tư vào trái phiếu của một quốc gia, họ sẽ
đòi lợi nhuận cao hơn để bù đắp cho rủi ro đó. Điều này bắt đầu một vòng lẩn
quẩn: đòi hỏi lãi suất cao hơn tương đương với chi phí đi vay cao hơn cho quốc
gia trong cuộc khủng hoảng, dẫn đến căng thẳng tài chính hơn nữa, khiến các nhà
đầu tư yêu cầu lãi suất thậm chí còn cao hơn, và cứ tiếp tục như vậy. Một mất mát



chung cho niềm tin của các nhà đầu tư thường gây ra ảnh hưởng không chỉ cho
quốc gia đang bàn đến mà còn quốc gia khác có nền tài chính yếu tương tự - một
hiệu ứng thường được gọi là “lây lan”.

Liệu cuộc khủng hoảng niềm tin của Châu Âu có lan sang Châu Á không?

Nhà phân tích tín dụng của Standard & Poor, Elena Okorotchenko nói,
“Kênh chính của sự lây lan là chi phí tài trợ cao hơn. Điều đó nói rằng, chúng tôi
không kỳ vọng mức độ suy giảm như nhau cho các điều kiện tài trợ đối với các
nước châu Á”.
“Trong số các nước châu Á với gánh nặng nợ tương đối cao, Nhật Bản, Ấn độ, và
Đài Loan vay chủ yếu trong nước và không phải chịu đựng những biến động trong
tâm lý của các nhà đầu tư như những người đi vay bên ngoài”, Okorotchenko nói
thêm.
Tác động đến sự phục hồi của kinh tế Đông Nam Á
Các nền kinh tế Đông Nam Á đã cho thấy khả năng phục hồi khi nhu cầu
nội địa tăng lên bù đắp cho xuất khẩu sút kém. Indonesia, nền kinh tế lớn nhất khu
vực Đông Nam Á, phát triển hơn 6% trong 6 quý liên tiếp đến tháng ba. Nền kinh
tế của Thái Lan bất ngờ tăng trưởng trong quý vừa qua, trong khi Philippines tăng
trưởng nhanh nhất kể từ năm 2010.
Sự bất ổn tiếp diễn ở khu vực đồng tiền chung châu Âu không gây ra hiệu
ứng dây chuyền ở khu vực ASEAN do triển vọng tăng trưởng tích cực trong các
khu vực khác của nền kinh tế toàn cầu, theo RanJiv BIAWAS, trưởng nhóm
chuyên gia kinh tế kkhu vực châu Á – Thái Bình Dương tại HIS Global Insight ở
Singapore. Phát biểu tại Hội Nghị Rủi Ro ASEAN 2012 tại Singapore, Biswas
biết động lực kinh tế tích cực từ Mỹ và sự tăng trưởng liên tục của Trung Quốc
cũng như phục hồi của Nhật Bản từ suy thoái kinh tế có nghĩa là kkhu vực



ASEAN không nên lo ngại một sự suy giảm gây ra bởi cuộc khủng hoảng khu vực
đồng euro.
Tác động tài chính
 Nhiều quốc gia ảnh hưởng lớn từ các dòng vốn quốc tế, bao gồm cả các
khoản vay ngân hàng và vốn FDI từ châu Âu.
 Mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng sâu châu Âu đến các quốc gia đang
phát triển phụ thuộc vào 2 yếu tố : Tổng khối lượng vốn tiếp nhận và cơ cấu
tiếp nhận (tỷ lệ dòng vốn FDI/dòng vốn phi FDI)
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ảnh hưởng đến Việt Nam như thế nào?
 Xuất khẩu khó khăn
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai
của Việt Nam chỉ sau Mỹ khi tiêu thụ khoảng 15,8% sản phẩm do Việt Nam sản
xuất trong năm 2010. Riêng 11 tháng đầu năm 2011, xuất khẩu của Việt Nam vào
EU đạt 16,5 tỉ USD, tăng trưởng khá cao với 45,4%. Năm 2012, với những dự báo
các nền kinh tế trong khu vực Eurozone sẽ tiếp tục khó khăn (thu nhập của người
dân suy giảm, lạm phát cao, gia tăng thất nghiệp...) dẫn đến xu hướng thắt chặt chi
tiêu dùng của người dân là chắc chắn. Theo đó, hàng hóa nhập khẩu vào EU sẽ bị
ảnh hưởng nhất định.
Bên cạnh đó, các nước EU cũng tăng cường chính sách bảo hộ hàng sản
xuất trong nước, do đó hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp phải các rào cản từ vấn đề
này cũng như sự cạnh tranh từ các nước xuất khẩu khác.
 Vốn đầu tư và tín nhiệm Quốc gia suy giảm
Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn
toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ
phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ
dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu
nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Ngược
lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được



hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá
lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các
quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ.. Tuy nhiên, ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng nợ công Châu Âu, chính sách tài khóa thắt chặt, trong thời gian tới,
dự báo việc thu hút vốn FDIvẫn tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã khiến các NĐT cũng như
các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quan tâm hơn đến vấn đề nợ công của các quốc
gia đang phát triển trên thế giới. Ba nhóm chỉ tiêu căn bản cảnh báo bao gồm: nợ
quá nhiều thể hiện ở chỉ số nợ công/GDP cao; chi tiêu quá mức thể hiện ở mức
thâm hụt ngân sách lớn so với GDP và tốc độ tăng GDP sụt giảm. Năm 2011, với
mức nợ công chiếm 54,6% GDP, bội chi ngân sách ở mức 4,9% GDP, Việt Nam
đang được các tổ chức tín nhiệm đánh giá có mức độ rủi ro cao nhất so với các
nước trong khu vực ASEAN. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng thu hút
các nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn vay nước ngoài, mà còn gia tăng chi phí vay cho
các khoản tín dụng từ các tổ chức tài chính thế giới.
 Gia tăng rủi ro tỷ giá

Khủng hoảng nợ công châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về
tỷ giá. Đồng euro tiếp tục bị áp lực giảm giá trên thị trường tiền tệ nói chung và
với USD nói riêng. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng
euro mất giá tương đối so với USD. Khi đồng USD tăng giá tương đối so với đồng
euro sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào khu vực
EU do chủ yếu hàng xuất khẩu được tính giá bằng USD. Bên cạnh đó, đồng USD
mạnh lên trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam sẽ gây áp lực lên dự trữ
ngoại hối quốc gia.
 Lãi suất cao, doanh nghiệp thiệt nặng
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng
trung ương các nước phát triển vẫn huy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích
thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi



suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%;
BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn
lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất
rất cao nên doanh nghiệp phải đạt mức tỷ suất lợi nhuận cao so với tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân nên đẩy các doanh nghiệp vào tình thế ngày
càng khó khăn và rất nhiều doanh nghiệp đã phá sản.
 Ngoài ra, do tác động của khủng hoảng nợ châu Âu cũng đã tác động đến
các lĩnh vực khác của Việt nam như bất động sản, ngành du lịch ..

Bạn có cho rằng: “Đồng đô-la Châu Á có thể không phải là lựa chọn đúng
đắn”?

Xuất phát từ vấn đề khu vực đồng tiền chung châu Âu hoạt động không
hiệu quả do mang lại chi phí cao hơn lợi ích kinh tế cho một số thành viên. Một
thực tế là một số thành viên tham gia đã phải chịu tổn thương rõ rệt trong những
năm gần đây. Một liên minh tiền tệ của các quốc gia với rất ít điểm chung (ngoài
gần gũi về địa lý và lịch sử xâm lược lẫn nhau). Do đó, vấn đề đồng tiền chung
châu Âu không bao giờ có hiệu quả, đang lao dốc và cuộc khủng hoảng này dường
như đã không thể tránh khỏi và nó đang thách thức ý tưởng có đồng tiền chung
cho châu Á.
Như vậy, vấn đề “Đồng đô-la Châu Á có thể không phải là lựa chọn đúng
đắn” , bởi vì:
 Thứ nhất: Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á (1997), ý tưởng xây
dựng đồng tiền chung châu Á đã từng được công khai. Với châu Âu phải
mất 50 năm mới xây dựng được thị trường chung và đồng tiền chung,
nhưng hiện tại vẫn đang phải đối mặt với khó khăn và đang đứng trước
thách thức rất lớn cho sựu tan vỡ. Như vậy, ở đây đặt ra vấn đề là nhất thể
hóa của châu Âu vận hành lâu như thế rồi mà vẫn nảy sinh vấn đề, vậy thì



đồng đô la châu Á sẽ còn phức tạp đến mức nào? Trong khi so với châu Âu,
thì châu Á còn xa mới theo kịp, nên đồng đô la châu Á là không khả thi.
 Thứ 2: Về mặt dân số của châu Á hiện gấp nhiều lần dân số châu Âu. Giữa
các nước, các khu vực của châu Á có sự khác nhau một trời một vực về
phương thức, trình độ và quan niệm phát triển. Dự trữ quốc gia, đặc thù nên
kinh tế khác biệt rất lơn. Thu nhập bình quân đầu người /GDP của các nước
châu Á cũng có sự chênh lệch rất lớn, từ vài trăm USD/năm đến vài chục
nghìn USD/năm. Do đó, phải thấy rằng đồng đô la châu Á là không phù hợp
trong một tương lai gần và có thể xa hơn thế nữa.
 Thứ 3: Về thể chế chính trị, văn hoá, xã hội, độ minh bạch, mức độ tham
nhũng v.v hiện nay các nước trong khu vực châu Á khác nhau rất lớn nên
việc ý tưởng đồng tiền đô la tại châu Á càng không nên thực hiện và có
nhiều rủi ro cao.
 Thứ 4: Hiện nay vấn đề tranh chấp biển đông, tranh chấp các quần đảo/ bán
đảo trong khu vực rất nóng và chưa có thoả hiệp nhất định. Các tranh chấp
trên không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nước có liên quan mà còn
ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác, đến hoà bình, đến ổn định và sự
hợp tác phát triển kinh tế chung của khu vực và thế giới. Do vậy, đồng đô la
châu Á một lần nữa khẳng định là không thể thực hiện và mang lại nhiều rũi
ro cho các nước trong khu vực châu Á nói riêng và thế giới nói chung.
------------- HẾT-----------



×