Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

KHỦNG HOẢNG nợ CÔNG CHÂU âu và tác ĐỘNG đến nền KINH tế THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.77 KB, 10 trang )

KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ
THẾ GIỚI
Khái niệm nợ công, có thể hiểu “nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng giá trị
các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm
tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt
ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Việc đi vay của chính phủ có thể được
thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Ngoài
việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp
từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế, chẳng hạn như Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), WB...
Khủng hoảng nợ công làm tổn thương đồng Euro
Đầu tư vào đồng Euro khi thị trường tài chính khu vực Châu Âu với thành viên Hy Lạp
bất ổn, xu hướng đầu tư mạo hiểm thoái trào cũng là lúc các loại trái phiếu, cổ phiếu có
quốc tịch từ các quốc gia Châu Âu và đồng tiền sử dụng khu vực kinh tế đồng Eurozone
cũng bị giới, đầu tư lẩn tránh. Điều này làm mất ổn định lãi suất liên ngân hàng của đồng
Euro khiến nhà đầu tư mất niềm tin vào đồng tiền chung Euro và có thể liên đới đến các
nước có tình trạng nợ công tương tự như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha. Vì vậy một đợt
tháo chạy quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu của các ngân hàng khu vực
Châu Âu là điều hoàn toàn có thể. Chính điều này tạo nên hiệu ứng sụp đổ hàng loạt các
nền kinh tế khác.
Khủng hoảng tài chính khu vực Eurozone phủ bóng đen lên sự phục hồi kinh tế toàn cầu
Sự phục hồi kinh tế khu vực Châu Âu khá chậm chạp khi các quốc gia Đức và Pháp tham
gia cứu trợ các nước thành viên trong cộng đồng, do vậy nguồn lực dành cho chính sách
tài khóa trong nước bắt buộc phải giảm. Một số nước cho vay trong khu vực Euro lo ngại
rằng các vấn đề của Châu Âu sẽ gây tác động tiêu cực đến toàn bộ hệ thống tài chính,
khiến các ngân hàng thắt chặt cho vay trong thời gian ngắn hạn làm cho các khoản tiền
cứu trợ của chính phủ khó tiếp cận doanh nghiệp và người tiêu dùng.


Tình trạng các doanh nghiệp lớn liên tiếp thông báo thua lỗ và gia tăng thất nghiêp tại
Châu Âu.


Hãng bảo hiểm AIG trong quý 3/2009 thông báo thua lỗ 8,9 tỉ USD và hãng tài chính
Fannie Mae trong quý 4 thua lỗ 16,3 tỷ USD. Cuộc khủng hoảng tài chính tiếp tục nối
dài chuỗi ngày khó khăn trên thị trường việc làm cựu lục địa. Tính đến tháng 3/2009, tỉ lệ
thất nghiệp khu vực Eurozone là 10% trong đó tỉ lệ thất nghiệp giới trẻ Tây Ban Nha là
40%.
Khủng hoảng nợ công khu vực dẫn đến khủng hoảng tài chính, ảnh hưởng tiêu cực đến
kinh tế khu vực, nguy cơ sụp đổ nền kinh tế dây chuyền, nhiều ngân hàng thua lỗ, phá
sản, tình trạng thất nghiệp phổ biến ảnh hưởng đến nền kinh tế Châu Á và cả thế giới.
Tác động cuộc khủng hoảng Euro đến nền kinh tế khu vực Đông Nam Á
Ba kịch bản cho Đông Nam Á

Khủng hoảng nợ công Châu Âu đang phình to với 3 kịch bản được dự đoán đều không
sáng sủa. Một là, Châu Âu sẽ giữ được Hy Lạp ở lại trong khối, hai là Hy Lạp sẽ ra đi
trong trật tự và ba là nước này sẽ rời khỏi khối trong sự hỗn loạn và hiệu ứng domino sẽ
lan sang Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nước khác.

Tới nay, nhiều người vẫn tin rằng các nền kinh tế Đông Nam Á có thể vượt qua được cơn
địa chấn này nhưng trong trường hợp kịch bản xấu nhất xảy ra, khu vực Đông Nam Á sẽ
bị tác động mạnh nhất do sự phụ thuộc tương đối lớn của các nền kinh tế khu vực vào
Châu Âu. Bởi EU là đối tác thương mại lớn thứ hai của ASEAN với tổng kim ngạch
thương mại hàng hóa và dịch vụ trong năm 2011 đạt 206 tỉ euro (tương đương 350 tỉ
USD) và đứng đầu về đầu tư ở khu vực ASEAN với tổng vốn lên đến 230 tỉ USD.


Do vậy, khi xảy ra khủng hoảng, trao đổi thương mại trực tiếp và gián tiếp với Châu Âu
và Mỹ sẽ sụt giảm nhanh chóng. Những thành phẩm và hàng hóa xuất khẩu sang thị
trường lớn nhất thế giới là Trung Quốc cũng sẽ bị cắt giảm, trao đổi thương mại với đối
tác lớn nhất của ASEAN này sẽ bị chững lại và mục tiêu đạt 500 tỷ USD giá trị trao đổi
thương mại vào năm 2015 giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ không thể thực hiện được. Sự
trì trệ của nền kinh tế toàn cầu cũng đồng nghĩa với việc giá cả hàng hóa giảm và thu

nhập từ xuất khẩu của Đông Nam Á sẽ bị thiệt hại.

Thực vậy, kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng GDP của hầu hết các nền kinh tế trong
khu vực đã có dấu hiệu chậm lại trong quý đầu năm 2012 khi động lực của tăng trưởng
nhờ các gói kích thích kinh tế được tung ra vào các năm 2009, 2010 đã hết. Tuy nhiên,
riêng Thái Lan và Philippines vẫn giữ được đà tăng trưởng tốt với những lý do đặc biệt,
đó là nhu cầu tái thiết, phục hồi sau trận lụt lịch sử hồi năm 2010 ở Thái Lan. Còn với
Philippines là nhờ tăng chi tiêu chính phủ mà 3 tháng đầu 2012, kinh tế nước này đã tăng
trưởng nhanh hơn dự kiến, đạt 6,4%.

Ngoài lĩnh vực xuất khẩu là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, các dòng chảy tài chính
cũng sẽ bị ngưng đọng. Với thực tế rằng khu vực Đông Nam Á phụ thuộc khá lớn vào
dòng đầu tư nước ngoài để tăng trưởng, nên việc các nền kinh tế phát triển trên thế giới
áp dụng chính sách khắc khổ sẽ đẩy khu vực vào tình trạng khan hiếm về vốn đầu tư. Tuy
nhiên, cho tới nay phần lớn các nền kinh tế Đông Nam Á vẫn đứng khá vững trước
những biến động thất thường của dòng vốn tư bản nhờ thực hiện chính sách tiền tệ, tài
khóa khá thận trọng trong suốt 1 thập kỷ trở lại đây.
Dẫu vậy, sự ra vào thất thường của những dòng đầu tư đã gây ra những phức tạp nhất
định cho công tác quản lý vĩ mô, áp lực cho tỷ giá hối đoái, lãi suất và lạm phát. Trong
đó, Indonesia là nước phải chịu nhiều hậu quả nhất từ sự thất thường này. Lý do chính là
do tỷ lệ nắm giữ nguồn vốn cổ phần trên thị trường chứng khoán và các công cụ vay nợ


ngắn hạn của các nhà đầu tư nước ngoài ở Indonesia khá lớn. Khi có dấu hiệu của sự bất
ổn, họ sẵn sàng bán đi các tài sản của mình.

Do đồng nội tệ có xu hướng mất giá trong thời gian gần đây, chính phủ Indonesia đã có
kế hoạch tăng nguồn cung ngoại tệ trên thị trường để đáp ứng nhu cầu mua chứng khoán
nhà nước trên thị trường thứ cấp và áp dụng một số công cụ giao dịch ngoại tệ khác nhằm
ổn định tỷ giá hối đoái của đồng rupiah.


Tính đến tháng 4/2012, các khoản nợ tư nhân nước ngoài từ Châu Âu của Indonesia là
21,6 tỷ USD, trong đó chủ yếu từ Hà Lan (57,3%), tiếp theo là Anh (10,7%), Đức (6,4%)
và Pháp (2,5%). Tác động của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu ngày một gia tăng
khiến giá trị đồng nội tệ rupia cũng như các chỉ số chứng khoán tại thị trường Châu Á,
trong đó có Indonesia, đã bị giảm trong vài tháng qua.

1- Khủng hoảng nợ công khu vực Eurozone, sự tác động toàn cầu đối với các doanh
nghiệp và các ngành nghề.

Tình trạng khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu gây ra tâm lý lo lắng sự sụp đổ tài
chính dây chuyền, tình trạng thất nghiệp gia tăng, do vậy người dân khu vực Châu Âu
tiêu dùng tiết kiệm hơn. Nhu cầu mua sắm tại Mỹ và các quốc gia Châu Âu suy giảm rõ
rệt trong đó các ngành ảnh hưởng mạnh nhất là doanh nghiệp sản xuất ô tô, dịch vụ cung
ứng du lịch và các ngành may mặc. Theo báo cáo của Hiệp hội sản xuất ô tô Châu Âu, 27
quốc gia thuộc Liên Minh Châu Âu nhu cầu xe hơi giảm 10,8% so cùng kỳ với năm
2011, doanh số bán xe ở khu vực này đã giảm liên tiếp12 tháng tính đến thời điểm tháng
9. Tuy nhiên, Hiệp hội các nhà sản xuất xe hơi ở Châu Âu cho hay lượng tiêu thụ xe ở
các thị trường lớn mạnh không hề thuyên giảm, thậm chí còn có dấu hiệu tăng trưởng rõ
rệt, điển hình là trường hợp nước Anh, doanh thu tăng 8,2% so với cùng kỳ năm ngoái.


Xét trên toàn phạm vi Châu Âu, đợt giảm 10,8% trong tháng 9 là cú giảm mạnh nhất
trong vòng 12 tháng qua. Từ tháng 1 đến hết tháng 8, doanh số bán hàng trên thị trường
Liên minh Châu Âu chỉ giảm 7,6% so với năm 2011. Riêng ở Anh, thị trường xe hơi có
chuyển biến tích cực khi tốc độ tăng trưởng đạt 4,3% so với sự suy giảm 2 con số ở Ý và
Tây Ban Nha. Ở Đức, 2,4 triệu ô tô đã được bán ra trong năm nay, giảm 1,8% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Suy giảm doanh số bán hàng ngành ô tô liên minh Châu Âu là 7,6% so với năm 2011.
Doanh số ô tô sụt giảm làm ảnh hưởng đến các ngành công nghiệp phụ trợ cũng suy

giảm tương ứng, thu nhập người lao động không ổn định nên chi tiêu cân nhắc và tiết
kiệm hơn, do vậy các ngành du lịch và may mặc cũng ảnh hưởng trầm trọng.
2- Sự liên đới đến thị trường chứng khoán và cổ phiếu Châu Á , Việt Nam.
Sự khủng hoảng tài chính khu vực Eurozone ngày càng lan rộng không chỉ ảnh hưởng
khu vực Châu Âu mà lan sang cả Châu Á. Theo dữ liệu khảo sát kinh doanh mới nhất,
các nhà sản xuất Châu Á đang phải gồng mình vật lộn với nhu cầu yếu ớt từ Mỹ và Châu
Âu trong bối cảnh mong manh của nền kinh tế toàn cầu. Khu vực đồng Euro đang sa lầy
trong suy thoái kinh tế trong khi Mỹ hiện duy trì đà phục hồi kinh tế ở mức cân bằng.
Thị trường vốn và hàng hóa có dấu hiệu giảm sút ở Châu Á. Chỉ số quản lý thu mua
(PMI) chính thức của Trung Quốc cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy
liên tục thu hẹp trong tháng thứ 2 liên tiếp và cuộc khảo sát của các nhà sản xuất lớn của
Nhật Bản cũng thể hiện niềm tin sản xuất tồi tệ trong hơn 3 tháng qua. Thêm nữa, chỉ số
PMI của Đài Loan cũng chạm ngưỡng thấp nhất trong vòng 10 tháng trở lại đây và sản
lượng xuất khẩu của Hàn Quốc cũng tụt dốc nghiêm trọng.
Theo cuộc khảo sát ở Trung Quốc, động lực của nền kinh tế toàn cầu đang bị kìm hãm do
tăng trưởng chậm lại trong quý thứ 7 liên tiếp. Nhìn chung, chỉ số PMI tăng lên 49,8
trong tháng 9 so với 49,2 trong tháng 8, tuy nhiên những con số dưới 50 đều chứng tỏ


quy mô sản xuất bị thu hẹp. Chính phủ đã quyết định cắt giảm lãi suất 2 lần, nới lỏng yêu
cầu ngân hàng dự trữ xuất 1,2 nghìn tỷ nhân dân tệ (190 tỷ $) cho vay.
Nhật Bản cũng lâm vào tình trạng tương tự. Sản lượng xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng
đặc biệt là sang các nước Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, chỉ số niềm tin của các nhà sản xuất
dường như rất mong manh.
Hàn Quốc, cường quốc xuất khẩu các nhãn hàng của Samsung Electronics và Hyundai
Motor cũng giảm 5,1% sản lượng xuất khẩu sang Liên minh Châu Âu trong tháng 9 và
giảm 0,4 % sang thị trường Hoa Kỳ. Tổng thể xuất khẩu của Hàn Quốc đã sụt giảm 1,8%
so với cùng kỳ năm ngoái.
In-đô-nê-xi-a tiết lộ sản lượng xuất khẩu của quốc gia này cũng giảm so với năm trước
đó. Thậm chí ở Đài Loan, số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu giảm với tốc độ nhanh

nhất kể từ tháng 11 năm 2011.
Chỉ riêng ở Ấn Độ, chỉ số PMI có dấu hiệu khả quan. Các đơn đặt hàng và hoạt động sản
xuất liên tục tăng lên trong tháng 9 tuy nhiên cảnh báo lượng hàng tồn kho có thể ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Hệ quả của cuộc khủng hoảng làm gia tăng lạm phát và thất nghiệp tại các nước Châu
Âu, đồng Euro mất giá, GDP tăng trưởng thấp, lạm phát tăng cao, thu nhập thực tế của
người dân giảm và cầu tiêu dùng nhập khẩu giảm mạnh. Các vấn đề này đã ảnh hưởng
lớn đến thị trường chứng khoán Châu Á và Việt Nam. Châu Âu là thị trường xuất khẩu
lớn chủ lực của các nước thuộc khu vực Châu Á và Việt Nam. Xuất khẩu đình đốn đã gây
ra tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ của các doanh nghiệp Châu Á, Việt
Nam. Tình trạng các tổ chức sản xuất thua lỗ và có khả năng phá sản tác động xấu đến thị
trường trái phiếu và chứng khóan là tất nhiên.
Vấn đề khác là sự bùng nổ giá vàng thu hút vốn đầu tư, các nhà đầu tư thế giới đầu tư vào
vàng như là là nơi trú ẩn an toàn khi tình trạng khủng hoảng tài chính khu vực Châu Âu
ngày càng lan rộng làm cho giá vàng thời gian qua tăng lên rất cao. Điều này phản ánh
nhu cầu dự trữ vàng an toàn hơn so đồng tiền giấy sau khi các tổ chức, cá nhân ở Châu


Âu và Châu Á đua nhau mua vàng và bạch kim. Chính điều này tác động xấu đến đầu tư
thế giới, Châu Á và cả Việt Nam bởi khi vàng chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục đầu tư
của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như trái phiếu và cổ
phiếu sẽ giảm mạnh. Như vậy đồng vốn đầu tư gián tiếp càng giảm mạnh.
Ảnh hưởng và bài học cho Việt Nam
Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập
khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng
hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề.
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề
nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt
Nam. Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở Châu Âu và quan hệ thương mại,

dòng vốn đầu tư giữa Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác động gián tiếp
nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra.
Với việc EU và IMF cam kết sử dụng gần 1,000 tỷ USD để cứu trợ cho nước này và một
số nước có liên quan, chúng tôi cho rằng khả năng vỡ nợ của Hy Lạp sẽ khó diễn ra. Tuy
vậy, cuộc khủng hoảng này sẽ làm chậm lại đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và đặc biệt
là kinh tế Châu Âu là khu vực có quan hệ thương mại và dòng vốn đầu tư khá lớn vào
Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam sẽ không tránh khỏi những ảnh hưởng.
Ổn định tỷ giá và tâm lý trên thị trường chúng khoán. Các dòng vốn đầu tư từ khu vực
Châu Âu suy giảm, hay đà tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này chậm lại
đều tạo ra mối đe dọa lên sự phát triển kinh tế Việt Nam và ổn định của tỷ giá tiền đồng.
Tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng sẽ bị tác động không nhỏ bởi sự sụt
giảm của thị trường chứng khoán Châu Âu và thế giới. Không loại trừ khả năng có một
đợt rút lui mạnh mẽ của dòng tiền từ nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài nếu khủng
hoảng nợ công bùng nổ.


Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của Việt Nam. Trong thời gian
gần đây, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra cảnh báo về mức dư nợ
chính phủ và nợ quốc gia đã tăng sát mức trần cho phép.
Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao
và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số
tiền vay nợ qua ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế ngày càng
lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỷ lệ này đang
ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn 50%.
Việt Nam cũng đã phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế để lấy
lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi sắp tới
Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng
nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,... Đây là những dự án tiêu tốn chi
phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn
vay từ nước ngoài.

Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương
nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và các nước Châu Âu
cũng khiến Việt Nam phải suy nghĩ lại về bài toán chất lượng tăng trưởng. Tỷ lệ đầu
tư/GDP trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao so trung
bình các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong số hơn 40% nói trên, khoảng 27- 30% được tài trợ bởi nguồn vốn tiết kiệm trong
nước. Hơn 10% còn lại là từ dòng vốn từ bên ngoài (FDI, FPI, ODA và các khoản vay
khác), trong đó vốn vay chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài
chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn
thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng một kịch bản xấu ít có khả năng xảy ra và trong ngắn hạn
Việt Nam chưa phải chịu áp lực quá nhiều từ việc suy giảm các dòng vốn đến từ bên


ngoài. Xét về dài hạn, tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn đầu tư nước
ngoài kéo dài sẽ khiến Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro tương tự như Hy Lạp.
Kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao mà sẽ không phải phụ thuộc quá
nhiều đến dòng vốn từ bên ngoài như hiện tại nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu tư một cách
hiểu quả ( ICOR khoảng 3.5 - 4, bằng mức trung bình các nước đang phát triển). Vì vậy,
giải pháp dài hạn của Việt Nam vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư, giúp giảm được
hàng loạt những rủi ro đối với nền kinh tế.
Tóm lại, từ cuộc khủng hoảng Hy Lạp một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam
vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên
ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt tài
khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quản lý chi tiêu công… Chỉ có tái cấu trúc nền
kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao trong những năm sắp tới./.


Tài liệu tham khảo

/>Á />m=10&mc=157&msc=194&n=13138
/>


×