Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

BDTXTHCS PHÒNG CHỐNG ĐUỐI NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.94 MB, 62 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIA LAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN HÈ 2017

MÔN: THỂ DỤC

Chuyên đề:

PHÒNG CHỐNG ĐUỐI NƯỚC VÀ TAI NẠN
THƯƠNG TÍCH CHO HỌC SINH THCS

Nguyễn Văn Dương
Phạm Thế Chính


Pleiku – Tháng 7/2017
2

PHẦN 1:

PHÒNG CHỐNG ĐUỐI NƯỚC CHO HỌC SINH THCS
Nguyễn Văn Dương
Giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai
Nhằm cung cấp những hiểu biết, kỹ năng cần thiết cho trẻ em, cho gia đình
và cộng đồng về việc phòng, chống, sơ cấp cứu tai nạn đuối nước góp phần
giảm thiểu những tai nạn tử vong do đuối nước gây ra. *. Mục tiêu:
1. Đối với trẻ em (học sinh)
Giúp các em biết được và hình thành ý thức về nguy cơ đuối nước đang
rình rập đến sức khỏe, tính mạng của mình trước những thói quen hành động hết
sức bình thường diễn ra thường xuyên trong cuộc sống, từ đó hình thành ý thức


biết tự đề phòng, cảnh giác, có những kỹ năng cần thiết tự bảo vệ mình và bảo
vệ bạn bè, hình thành nhu cầu tập luyện và phát triển kỹ năng bơi lội.
2. Đối với gia đình và cộng đồng
Nhận thức được những nguy cơ dẫn đến đuối nước đối với trẻ em, từ đó
gia đình và cộng đồng có những hành động thiết thực để giám sát, bảo vệ trẻ em
một cách đầy đủ, thay đổi, cải tạo môi trường sống an toàn hơn. Bên cạnh đó,
giúp cha mẹ các em, thầy cô giáo và các lực lượng chăm sóc, bảo vệ trẻ em khác
có những kỹ năng cần thiết để có thể ứng phó cứu người không may bị tai nạn
đuối nước một cách có hiệu quả và an toàn cho bản thân.


Bài 1 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐUỐI NƯỚC
Khái niệm đuối nước:
Đuối nước là tình trạng nước tràn vào đường hô hấp làm cho các cơ quan, đặc biệt
là não bị thiếu ôxi và các chức năng sống của cơ thể ngừng hoạt động.
1.Thực trạng tai nạn đuối nước ở nước ta
Theo thống kê của Bộ GDĐT năm 2012, có khoảng 1.700 em tử vong vì
đuối nước trong tổng số 2.769 ca tử vong do tai nạn thương tích. Ngay trong sáu
tháng đầu năm đã có khoảng 700 em tử vong do đuối nước. Thực tiễn ghi nhận
đuối nước là nguyên nhân bao trùm các trường hợp tử vong có liên quan đến tai
nạn thương tích cho tất cả các nhóm tuổi, đặc biệt từ lứa tuổi sơ sinh cho đến lứa
tuổi dậy thì và vượt xa các nguyên nhân khác. Tai nạn đuối nước xảy ra khác
nhau giữa các vùng miền. Tai nạn này thường gây nên khi trẻ em chơi đùa, tắm
lội ở các sông, suối, ao, hồ có thủy vực sâu. Đối với trẻ em ở lứa tuổi lớn hơn từ
6 đến 15 tuổi thì tai nạn đuối nước lại thường hay xảy ra vào dịp nghỉ hè.
Ở nước ta, 10 tỉnh có tỉ lệ trẻ em đuối nước cao gồm: Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình và Thanh Hóa. Việt Nam là nước có tỷ lệ tử vong do đuối nước cao
nhất trong khu vực. Tỷ lệ tử vong do đuối nước ở trẻ em nước ta cao gấp 10 lần
các nước phát triển.

Mặc dù Gia Lai chúng ta không nằm trong Top 10 tỉnh có tai nạn đuối nước trẻ
em, nhưng tai nạn đuối nước xảy ra cũng không phải là ít.
Trước thực trạng đó, tất cả các cấp, các ngành trên cả nước đã và đang hết sức
chú trọng đến công tác phòng tránh đuối nước cho trẻ em.
2. Nguyên nhân cơ bản
Tai nạn đuối nước xảy ra do những nguyên nhân cơ bản như: nhận thức của trẻ
em về tai nạn đuối nước còn thấp, thiếu sự giám sát đầy đủ của người lớn, trẻ em
thiếu kỹ năng bơi lội, môi trường sống không an toàn, phương tiện vận tải
đường thủy không bảo đảm yêu cầu, hay do bị chuột rút khi bơi…
2.1. Nhận thức về tai nạn đuối nước của trẻ em còn thấp
Phần lớn các em không nhận thức được độ nguy hiểm và thường hay chơi
đùa ở gần ao hồ, sông suối hay tắm lội ở các sông suối, ao hồ gần trường hoặc
gần nhà. Nên đuối nước là nguyên nhân hàng đầu gây nên tử vong cho nhóm
tuổi trẻ em và lứa tuổi vị thành niên từ 2 đến 16 tuổi. Vì vậy, Gia đình, trường
học chính là nơi giúp trẻ em nâng cao nhận thức về tai nạn đuối nước để phòng
ngừa một cách có hiệu quả nhất.

3


2.2. Thiếu sự giám sát đầy đủ của người lớn
Một trong những yếu tố chính dẫn đến tai nạn đuối nước chiếm tỷ lệ cao ở
trẻ em, đặc biệt là nhóm trẻ nhỏ do thiếu sự trông nom, giám sát chặt chẽ, đầy đủ
của người lớn. Trẻ nhỏ chỉ cần thiếu sự giám sát của người lớn trong một
khoảnh khắc ngắn từ 1 đến 2 phút, tai nạn đuối nước nói riêng và các tai nạn
thương tích khác nói chung đã có thể xảy ra một cách thương tâm. Đối với nhóm
học sinh lứa tuổi tiểu học, hầu hết các em không có được sự giám sát thường
xuyên của người lớn, đặc biệt trong các kỳ nghỉ hè do phụ huynh, người lớn
trong gia đình bận công việc. Thời gian cao điểm thường xảy ra tai nạn đuối
nước trẻ em là thời gian có khí hậu nóng bức vào mùa nghỉ hè, các em thích đi

bơi, tắm sông suối, ao hồ, bể bơi... vì không tìm được các hoạt động vui chơi
giải trí khác phù hợp.

2.3 Thiếu kỹ năng bơi lội
Các cuộc điều tra, khảo sát ở nước ta ghi nhận hầu hết trẻ em bị tai nạn
đuối nước do không biết bơi. Tuy vậy phần lớn các em thường hay chơi đùa, tắm
lội ở gần ao hồ, sông suối gần trường hoặc gần nhà. Vấn đề này là yếu tố nguy
cơ cao gây nên tai nạn đuối nước cho trẻ em.
Khảo sát thực tế cũng cho thấy cha mẹ, phụ huynh của các em đa phần
biết bơi lội nhưng không có thời gian dạy bảo, hướng dẫn cho con em mình bơi
vì quá bận rộn và sợ con em mình có thể bị tai nạn đuối nước khi được dạy bơi
4


rồi tự ý đi tắm ở các ao hồ, sông suối. Suy nghỉ đó là sai lầm, vì không biết bơi
các em vẩn tắm, chơi đua với nước.
2.4. Môi trường sống không an toàn
Nước ta có bờ biển khá dài(3.260 km), hệ thống ao hồ, sông suối, kênh rạch
nhiều và chằng chịt(Nội thuỷ: hơn 4.200 km²). Trên thực tế, nhìn quanh môi
trường sống, có rất nhiều ngôi nhà ở gần sông suối, ao hồ và bờ biển nguy hiểm
không có rào chắn; phần lớn các giếng và bể nước không có nắp đậy. Ở nhiều
tỉnh Nam Bộ có rất nhiều ngôi nhà được xây nổi trên sông. Cách xây dựng nhà
không bảo đảm an toàn này có thể tạo nên các nguy cơ tai nạn đuối nước, đặc
biệt là đối với nhóm trẻ nhỏ rất dễ bị ngã và rơi xuống nước.

2.5. Phương tiện vận tải đường thủy không bảo đảm yêu cầu
Phương tiện giao thông đường thủy là một trong những phương tiện giao
thông quan trọng ở nước ta, nhất là ở những khu vực, vùng miền có đường thủy
khá phong phú. Người dân thường sử dụng thuyền, bè trong những hoạt động
hàng ngày như: đi làm, đưa trẻ em đi học, đi chợ, buôn bán... nhưng rất nhiều

phương tiện không bảo đảm an toàn, không trang bị đầy đủ áo phao cứu hộ, …
nên thỉnh thoảng tai nạn thương tâm vẫn xảy ra.

2.6. Chuột rút khi bơi lội
Có hai nguyên nhân chính gây "Chuột rút" hay "Vọp bẻ" là thiếu ôxy cho
cơ bắp hoặc cơ thể thiếu nước và muối ăn. Nên các rối loạn điện giải có thể gây
ra chuột rút, đặc biệt là hạ canxi máu(thiếu canxi) hoặc hạ kali máu(thiếu kali)
hay khi ra mồ hôi quá nhiều mà không được bù đắp.
5


Chuột rút rất nguy hiểm khi bơi lội. Cơn đau do chuột rút có thể làm giảm khả
năng bơi lội. Nghiêm trọng hơn là bị chết đuối.
3. Một số khó khăn trong công tác phòng, chống đuối nước ở trẻ em
Công tác phòng chống tai nạn đuối nước gặp nhiều khó khăn, trong đó nổi lên
là:
- Nhận thức của cộng đồng về các nguy cơ gây đuối nước ở trẻ em còn chưa cao.
Công tác tuyên truyền cho cộng đồng về các kiến thức phòng, chống đuối nước
ở trẻ em, tuyên truyền quy định của luật pháp về an toàn giao thông đường
thủy cho người điều khiển phương tiện và người tham gia giao thông đường
thủy, cán bộ làm nhiệm vụ đảm bảo an toàn trận tự đường thủy vẩn còn hạn
chế. Thiếu các tài liệu hướng dẫn bơi cho các em, hướng dẫn các kỹ năng an
toàn khi tiếp xúc với môi trường nước.
- Vẩn còn nhiều nguy cơ gây đuối nước cho trẻ em chưa được loại bỏ tại gia
đình, cộng đồng.
- Việc dạy bơi cho trẻ em chưa được triển khai rộng rãi tại các địa phương. Các
cán bộ , giáo viên Thể dục trong trường học được tập huấn các kỹ năng dạy bơi
cho các em còn ít, chương trình đào tạo chưa cụ thể.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phổ cập môn bơi chưa được đầu tư.
- Nhiều địa phương trong tỉnh chưa có bể bơi, nếu có còn rất ít không đủ đáp

ứng yêu cầu cho trẻ.

Bài 2
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG ĐUỐI NƯỚC CHO TRẺ EM
1. Truyền thông giáo dục sức khỏe
Các cơ quan truyền thông đại chúng phải có trách nhiệm xây dựng, phát
triển những thông điệp tuyên truyền về nguy cơ tai nạn đuối nước và phổ biến
biện pháp phòng tránh để chuyển tải nội dung trên các phương tiện truyền thông
cùng với các tài liệu tuyên truyền khác. Cần lồng ghép hoạt động phòng tránh
đuối nước vào các hoạt động ngoại khóa của nhà trường, đặc biệt trước khi học
sinh nghỉ hè để nâng cao nhận thức bảo vệ, phòng ngừa cho các em.
6


2. Phát triển kỹ năng bơi lội, tập huấn sơ cấp cứu đuối nước
Cần phát triển kỹ năng bơi lội và dạy bơi cho học sinh nói riêng, trẻ em ở
các nhóm tuổi nói chung; chú ý ở những địa bàn thường hay bị ngập lụt, có
nhiều sông suối, ao hồ, mặt nước. Tổ chức tập huấn về sơ cấp cứu, nhất là
phương pháp hô hấp nhân tạo cho thanh niên, giáo viên … thậm chí cộng đồng
người dân cũng cần phải biết phương pháp này để ứng cứu khi cần thiết.

3. Tăng cường ý thức giám sát trẻ em đầy đủ của gia đình, của cộng đồng và của
nhà trường
Để đảm bảo an toàn nhất có thể cho trẻ, bên cạnh việc dạy trẻ bơi, điều cấp
thiết là phải giám sát và hướng dẫn trẻ những biện pháp an toàn khi tiếp xúc với
nước. Biết bơi thôi cũng chưa hẳn đã an toàn, rất nhiều người có cơ bắp khỏe,
bơi thành thạo cũng bị đuối nước dẫn đến tử vong nếu chủ quan, lơ là.

7



4. Thay đổi môi trường sống cho an toàn hơn
Để thay đổi môi trường sống nhằm bảo đảm sự an toàn, nên tuyên truyền,
vận động cộng đồng tham gia thực hiện các biện pháp đơn giản như: đậy nắp
bảo vệ ở giếng nước, bể nước, hồ thoát nước...; làm rào chắn ở xung quanh
những ngôi nhà ở bên sông suối, ao cá, hố xây dựng ở công trình… có thể chứa
nước.

5. Những điều các em nên làm
• Tuyệt đối tuân theo các bảng chỉ dẫn báo nguy hiểm.
• Chỉ bơi khi có người lớn biết bơi và cứu đuối đi kèm.
• Phải khởi động kỹ trước khi xuống nước.
• Lên bờ ngay khi trời tối, mưa, sấm chớp.
• Làm hàng rào quanh ao, hố nước, rãnh nước quanh nhà, làm cổng cửa
chắn (đặc biệt khi nhà ở gần sông hồ…).
• Luôn đậy giếng, bể, lu chứa nước…bằng các nấp đậy an toàn (cứng, trẻ
dẫm lên không vở).
• Chỉ tập bơi hoặc bơi ở những nơi có người lớn và phương tiện cứu hộ ,
tuân thủ các quy định của bể bơi.
• Khi tham gia giao thông đường thuỷ, cần ngồi đúng vị trí quy định của
mình.
6. Những điều các em không nên làm
• Chấp hành tốt các quy định về an toàn khi tham gia các phương tiện giao thông
đường thuỷ.
• Tuyệt đối không lội qua suối khi trời mưa lũ,dông bão.
• Các phương tiện giao thông đường thuỷ không được chở quá quy định.
• Không bơi ở những nơi có biển báo nguy hiểm, nước chảy xiết, nước sâu.
• Không nhảy cấm đầu hoặc bơi thi ở những nơi không có chỉ dẫn.
• Không tự ý lái xuồng, thuyền…khi chưa xin phép người lớn.
8



• Không nhảy xuống nước khi vừa đi ngoài nắng về hoặc khi có nhiều mồ hôi.
• Không ăn uống khi đang bơi, hay bơi khi mới ăn xong.

9


Bài 3
CÁC BIỆN PHÁP CỨU, CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢI THOÁT KHI BỊ
ÔM, TÚM VÀ CẤP CỨU NGƯỜI BỊ ĐUỐI NƯỚC
1. Những nguyên tắc và biện pháp khi cứu người bị đuối nước
Dấu hiệu nhận biết
- Nạn nhân đang chới với dưới nước hoặc sắp có
nguy cơ bị chìm.
- Có dấu hiệu bị sặc nước : ho dữ dội, sặc sụa, mặt p
hoặc tím, khó thở, hoặc ngừng thở.
- Bất tỉnh do tắc thở.
Nguyên nhân
Úp mặt vào nước không tự thoát ra được.
- Bị rơi hoặc ngã xuống chỗ nước sâu,
nước xoáy nguy hiểm.
- Không biết bơi.
- Bị chuột rút khi đang bơi, đang ở dưới nước Do thiên tai, lũ lụt.
- Môi trường sống trong gia đình và cộng
đồng không an toàn: bể nước không nắp,
giếng, ao, hồ,...
Nguy cơ
-


Đuối nước sẽ dẫn đến ngạt thở, ngừng tim

-

Ngừng thở, ngừng tim dẫn đến tử vong
- Lưu ý khi nạn nhân bị đuối nước:
o

Phút thứ 1 nạn nhân mất

thở. o Phút thứ 2 – 3 nạn
nhân thở dưới nước. o Phút

10


thứ 4 nạn nhân mất cảm giác và ngừng tim (não nguy
hiểm).
o Phút thứ 5 – 8 nạn nhân chết nhưng còn hy vọng cứu
sống. o Phút thứ 9 trở đi : hết hy vọng.
- Yêu cầu đối với người cấp cứu:
 Bình tĩnh
 Đánh giá nhanh hiện trường
 Đánh giá tổn thương của nạn nhân
 Sơ cấp cứu - Gọi hỗ trợ
 Xử trí ban đầu các tổn thương theo thứ tự ưu tiên.
 Nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế.
- Khi phát hiện có người bị đuối nước, cần hô hoán để nhiều người
có thể nghe được chạy đến trợ giúp.
- Người không biết bơi tuyệt đối không bao giờ được nhảy xuống

biển, ao, hồ, sông sâu để cứu người bị tai nạn đuối nước.
- Khi cứu người bị đuối nước, cần phải có thuyền, cây, dây, phao
hoặc can nhựa để làm phao...
Ví dụ: Trong trường hợp nạn nhân ở gần bờ, không phải lúc nào cũng có
sẵn phao cứu hộ bên mình, ta có thể tận dụng một chiếc gậy, một cây sào... hoặc
xa hơn một chút thì dùng một cuộn dây buộc một đầu vào một vật gì đó nổi lên
được trên mặt nước như can nhựa, thùng nhựa, chai nước suối, thùng dầu ăn...
đều có thể dùng cứu họ được. Ta hãy thực hiện bằng cách níu chặt lấy một thân
cây, một mô đất hoặc một vật gì chắc chắn rồi ném hoặc đưa vật hiện có cho nạn
nhân nắm lấy và lôi vào bờ.
- Nếu có nhiều người, ta giăng một hàng người nắm tay để kéo nạn
nhân vào bờ.
- Nếu có thuyền, ta chèo thuyền đến chỗ nạn nhân, ghé mạn thuyền
cho nạn nhân bám vào, cũng có thể đưa tay hoặc mái chèo ra cho nạn nhân
nắm lấy, hoặc trong trường hợp khẩn thiết, ta buộc dây bám vào người và
nhảy xuống nước cứu họ và dìu lên thuyền.

11


- Khi không có vật gì nơi tay mà một đứa bé đang bị ngộp ở chỗ
không sâu lắm, tốt hơn hết là dùng áo của mình, quăng cho nạn nhân bám
lấy.
- Nếu có dây dài, ta nên cột một đầu vào một điểm nào đó thật chắc
chắn trên bờ, đầu kia buộc thật nhanh vào người bằng gút ghế đơn (nhớ
chừa một đoạn khoảng 2m để cột ngang người nạn nhân), bơi tới chỗ nạn
nhân, đưa họ nắm và kéo vào bờ, hoặc nếu nạn nhân còn tỉnh táo thì gọi
cho họ biết và ném dây cho họ. Trong khi đó, tìm cách trấn an cho họ vững
tâm tin tưởng là sẽ được cứu thoát. Theo kinh nghiệm cho thấy, lời nói trấn
an của người cứu hộ rất quan trọng. Lời nói kịp thời của chúng ta có thể

cứu được nạn nhân 50%, vì họ ổn định được tâm lý sẽ bớt uống nước.

- Người có khả năng bơi lội tốt có thể xuống nước để cứu người,
đây là giải pháp cuối cùng khi không còn giải pháp nào khác, bởi vì thực tế
đã có nhiều trường hợp người cứu nạn do chưa hiểu biết về các phương
pháp cấp cứu thủy nạn, nên bị nạn nhân ôm cứng và cả hai cùng chết chìm.
*. Khi nhảy xuống nước bơi để cứu nạn, cần tiến hành theo một trong
những biện pháp sau:
12


+ Biện pháp một: Để nạn nhân nằm ngửa, người cứu hộ bơi ở phía sau
nạn nhân, một tay dùng để bơi, một tay vắt lên ngang ngực xốc chéo qua nách
bên kia. Bơi kiểu nhái đưa họ vào bờ. Kiểu này khiến người cứu hộ khá mệt,
nhưng làm cho nạn nhân được an toàn tuyệt đối.
Điều kiện: Người được cứu phải khá tỉnh táo và có biết bơi đôi chút.

+ Biện pháp hai: Nâng cằm nạn nhân cho nằm ngửa hẳn mặt lên cho mũi
của nạn nhân sẽ được thoát ra khỏi mặt nước. Phương pháp này dùng cho những
nạn nhân có cơ thể hơi mập. Người cứu hộ có thể dùng tay còn lại để bơi vào bờ
cho nhanh.

+ Biện pháp ba: Tiếp cận người bị nạn từ phía sau, người cứu hộ dùng tay
nắm ngay chùm tóc phía trên trán, giựt ngửa đầu nạn nhân ra đằng sau. Phương
pháp này dùng để cứu các bạn nữ rất có lợi.

+ Biện pháp bốn: Nắm cổ áo, nếu nạn nhân còn mặc đầy đủ quần áo mà ta
lại không có thời gian cởi ra kịp dưới nước.

13



+ Biện pháp năm: Nếu nạn nhân đã bất tỉnh thật sự, ta có thể dùng hai tay ta
nâng đầu nạn nhân nổi lên mặt nước, bơi ngửa bằng 2 chân và kéo vào bờ.

+ Biện pháp sáu: Nếu nạn nhân có trọng lượng nhẹ hơn ta và đã bất tỉnh.
Ta có thể bơi ngửa, dùng ngực để đỡ đầu nạn nhân, hai tay xốc dưới nách cho
nạn nhân nằm sải với tư thế thoải mái. Hai chân đạp kiểu nhái đưa nạn nhân vào
bờ.

2. Các phương pháp giải thoát khi bị ôm, túm
Người cứu đuối phải biết giải thoát trong những tình huống bất ngờ.
2.1 Phương pháp giải thoát khi bị túm tay
Do tâm lý hoảng sợ, họ thường dãy dụa, hoảng loạn tìm chỗ để bám và bám rất
chặt. Vì vậy nếu người cứu đuối bị bám, ôm chặt thì phải bình tĩnh cách giải
thoát bằng biện pháp lợi dụng nguyên lý đòn bẩy hoạt động trái khớp…
Nếu người bị đuối túm hai tay từ dưới hoặc phía trên, người cứu đuối phải nắm
chặt hai nắm tay để xoay vào trong hoặc ngoài về phía ngón cái của người bị
đuối để giải thoát (Hình 222)

14


Nếu bị túm chặt một tay người cứu đuối, thì người cứu đuối nắm chặt nắm đấm
của tay bị túm, tay kia cài vào giữa hai tay của người bị đuối, nắm lấy nắm đấm
của tay bị túm kéo xuống để giải thoát.
2.2 Phương pháp giải thoát khi bị ôm ghì phía sau gáy
Cầm chặt cổ tay người bị đuối nước, tay kia đưa xuống dưới đẩy khuỷu từ dưới
lên làm cho người bị đuối phải quay người. Sau đó cúi đầu luồn qua nách và
quay người lại để kéo cổ tay của họ ra sau đó rồi dìu vào bờ (Hình 221)

2.3 Phương pháp giải thoát khi bị ôm cổ từ phía trước
Dùng tay trái (phải) đẩy khuỷu tay bên phải (trái). Tay phải (trái) nắm chặt lấy
cổ tay của người bị đuối kéo xuống dưới rồi đột ngột chui qua vòng tay của
người bị đuối. Cầm cổ tay của người bị đuối xoay về phía dưới ra sau để tiến
hành dìu họ vào bờ (hình 221)
2.4 Phương pháp giải thoát khi bị ôm ngang lưng ở phía trước
Một tay giữ chặt phía sau đầu người bị đuối, một tay đỡ cằm xoay đầu họ ra ngoài
làm cho lưng người bị đuối xoay lưng vào mình rồi dìu vào bờ (Hình
223)
2.5 Phương pháp giải thoát khi bị ôm ngang từ phía sau
Dùng hai tay túm lấy một ngón tay ở cả hai bàn tay của người bị đuối, sau
đó kéo dần sang hai bên buông một tay người bị đuối ra rồi quay người ra sau
lưng người bị đuối nước và dìu họ vào bờ (hình 223)

15


2.6 Phương pháp giải thoát khi bị ôm cả thân và hai tay từ phía sau lưng
Hai chân dùng sức đạp mạnh xuống dưới làm cho cả hai đều nổi lên cao. Khi
nhô đầu lên khỏi mặt nước, hít vào một hơi thật sâu, đồng thời hai tay dùng sức
khuỳnh ra trước đột ngột chìm xuống và thoát ra hai tay của người bị đuối. Tiếp
đó quay lưng người bị đuối về phía mặt mình để dìu họ lên bờ.
Trong những trường hợp khi người bị đuối ôm chặt cổ, chân mà sức lại khỏe
hơn người cứu đuối thì phải kêu cứu hoặc dùng những thế võ để tự giải thoát và
tìm cách cứu người bị đuối.

3. Cấp cứu người bị bất tỉnh
Dấu hiệu nhận biết

• Gọi hỏi

không đáp ứng.
• Người
mềm nhũn. 
Các biểu hiện
toàn thân: da
tím tái, xanh
nhợt, người
lạnh, vã mồ
hôi,...

16


Nguyên nhân

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất
tỉnh:
- Dị vật đường thở
- Điện giật
- Đuối nước
- Bị kích động hệ thần kinh
- Ngộ độc
- Tai nạn giao thông
- Mất máu quá nhiều
- Ngạt khói, khí độc
- Các chấn thương khác không được sơ cứu kịp thời

Nguy cơ
- Thiếu máu não dẫn đến nhũn não không hồi phục
- Ngừng thở, ngừng tim và tử vong do :



0 - 4 phút : ngừng thở, tìm sẽ ngừng đập



Trên 4 phút : Não có thể tổn thương



6 - 10 phút : Não bị tổn thương



10 phút : Não tổn thương không có khả năng hồi
phục

Xử trí
17


D
Áp dụng nguyên tắc DRABC:
1) Quan sát đánh giá hiệntrường để phát
hiện những mối nguy hiểm tiềm ẩn.
3
Ver 1.0

Nguy hiểm tiềm ẩn tại hiện trường(D)


– 02/2004

- Nguồn điện cao thế
- Nước sâu
- Nguy cơ cháy, nổ - Khí độc, hoá chất
- Vật rơi từ trên cao
- Sạt lở,…
2)Đánh giá sự đáp ứng của nạn nhân (R).
Kiểm tra xem nạn nhân còn tỉnh hay bất tỉnh bằng
cách:

R

- Lay, gọi, hỏi nạn nhân.
Yêu cầu nạn nhân thực hiện những động tác đơn giản.

Đáp ứng của nạn nhân giúp bạn nhận biết được nạn nhân còn tỉnh hay không: *
Trường hợp nạn nhân có đáp ứng thì tiếp tục kiểm tra các tổn thương khác để tiến
hành sơ cứu, sau đó đưa nạn nhân về tư thế hồi phục an toàn (nếu không có tổn
thương xương) và sau đó gọi điện thoại huy động hỗ trợ .
* Một nạn nhân không có đáp ứng gì được xem là bất tỉnh và phải nhanh
chóng kiểm tra và làm thông thoáng đường thở.
3)Kiểm tra và làm thông đường thở (A).

A

đờm dãi, bùn đất... ).

• Để đầu nạn nhân
ngửa tối đa tránh

lưỡi tụt về phía
sau.
• Kiểm tra dị vật và
làm thông đường
thở (Ví dụ: máu,
dịch,

18


4)Kiểm tra sự thở của nạn nhân (B).

B

• Bằng cách “ nhìn, sờ, nghe và cảm
nhận”.
- Nhìn: Lồng ngực có/không di động theo nhịp thở.
- Sờ và cảm nhận : Đặt tay lên bụng để cảm nhận bụng
có/không sự cử động.
- Nghe và cảm nhận : Áp sát tai, má vào miệng và mũi nạn
nhân để nghe và cảm nhận có/không hơi thở của nan nhân.

Nếu nạn nhân bất tỉnh nhưng còn thở : Cần nhanh chóng đưa nạn nhân về tư
thế nằm nghiêng an toàn và tiếp tục theo dõi
Kỹ thuật đưa nạn nhân về tư thế nằm nghiêng an toàn

19


Nếu nạn nhân không có dấu hiệu của hô hấp sẽ chuyển sang C

5)Kiểm tra mạch của nạn nhân
(tuần hoàn).

C

Kiểm tra mạch của nạn nhân bằng cách bắt mạch tại
vị trí cổ, cổ tay hoặc bẹn. Nếu nạn nhân không thở,
không có mạch thì tiến hành hà hơi thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực.
Nếu nạn nhân đuối nước bị bất tỉnh cần phải được cấp cứu nhanh, kịp thời
và kiên trì. Khi đưa lên bờ, hãy dốc ngược nạn nhân hoặc đặt nạn nhân nằm đầu
thấp, kiểm tra dị vật đường thở rồi ép mạnh vào phần bụng dưới ngực để đẩy
nước ra. Cần thực hiện như vậy xen kẽ với hà hơi thổi ngạt.
Nếu tim không đập thì phải kết hợp thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng
ngực. Phải thực hiện cho đến khi nạn nhân thở trở lại hoặc đã chết thực sự. Chú
ý cởi bỏ quần áo ướt, lau khô người, xoa dầu nóng toàn thân và ủ ấm cho nạn
nhân.
* Các bước cụ thể như sau:
3.1 Xóc nước
Khi chúng ta đưa được nạn nhân vào bờ muốn xóc nước thì ta làm như
sau : Đưa nạn nhân lên cao rồi xóc vài cái cho nước trào ra, dùng tay móc những
vật lạ mà họ đã nuốt phải ra khỏi miệng để tránh bị nghẽn đường hô hấp.

20


3.2 Hô hấp nhân tạo
3.2.1 Phương pháp thổi ngạt qua miệng
Cách xử lý: Đặt nạn nhân ở nơi thoáng mát, nới lỏng quần áo, dây nịt, cà
vạt … Nếu có thể thì đặt nạn nhân nằm ngửa trên một mô đất cao, hay bàn ghế,
giường … ,để chúng ta đỡ cúi gập người khi thao tác. Nếu trong miệng và cổ

họng nạn nhân có vướng vật gì, hãy quấn vải vào đầu ngón tay và móc sạch ra,
sau đó lau miệng nạn nhân cho sạch.
Thao tác : Kéo đầu nạn nhân ngửa về phía sau, kéo hoặc đẩy hàm dưới để
cho miệng nạn nhân mở ra. Sau đó dùng bàn tay vừa đẩy trán nạn nhân vừa bịt
mũi họ lại. Bàn tay kia dùng banh hàm nạn nhân và kéo miệng cho mở ra. Sau
đó cần hít vào đầy lồng ngực, đoạn há miệng rộng rồi áp sát vào miệng nạn
nhân.
Thổi hơi thật mạnh cho đến khi thấy lồng ngực của nạn nhân phồng lên,
mấy hơi đầu cần thổi thật mạnh. Sau đó nghiêng đầu lắng tai nghe hơi thở trở ra.
Lặp lại động tác trên với nhịp độ 12 lần trong/phút đối với người lớn và 20
lần/phút đối với trẻ em.

3.1.2 Phương pháp xoa bóp tim
- Phương pháp 1:
Ta quỳ cạnh nạn nhân, hai tay thẳng, hai bàn tay chồng lên nhau đặt lên
lồng ngực nơi xương ức nạn nhân. Đè tay ép lồng ngực nạn nhân xuống rồi từ từ
buông ra, làm theo chu kỳ: khoảng thời gian từ 14 - 15 giây, chúng ta ép ngực
21


nạn nhân khoảng 15 lần và thổi ngạt 2 lần. Sau mỗi chu kỳ chúng ta kiểm tra
mạch và hơi thở của nạn nhân một lần.

-

Phương pháp 2:

-

Nạn nhân nằm ngửa trên mặt phẳng cứng.


-

Nâng cao bụng nạn nhân (bằng gối hay mền cuộn tròn)

-

Đầu nạn nhân hơi ngửa về phía sau, cằm hướng lên trên.

-

Chân người bị đuối hơi cong, tay duỗi thẳng trước đầu, dùng khăn quấn
nửa người cho ấm.

-

Kéo lưỡi làm cho đầu lưỡi thò ra ngoài miệng hoặc dùng miếng gỗ đặt
giữa hai hàm răng cho miệng được há rộng.

-

Cấp cứu viên quỳ gối phía trước đầu nạn nhân, hai tay cầm tay nạn nhân
đưa từ từ xuống khép vào ngực, rồi dùng sức ấn xuống theo nhịp thở sau
đó từ từ đưa về tư thế ban đầu.

-

Phương pháp 3:

Phương pháp này hiệu quả hơn phương pháp trước, tương đối đơn giản và ít

mệt nhọc. Cách làm như sau:

22

-

Đặt nạn nhân nằm sấp trên một tấm ván, phiến đá phẳng, trên một ghế
dài (miễn sao bằng phẳng và chắc chắn là được), tay đưa lên phía đầu,
mặt ngoảnh về một bên;

-

Chèn giữa hai hàm răng một miếng nút chai hay một miếng gỗ nhỏ có
buộc dây, cốt để giữ thông đường thở trong suốt quá trình cấp cứu. Dây
là để đề phòng lúc nạn nhân tỉnh lại, có thể nuốt vật chèn răng này;


-

Cấp cứu viên quỳ phía sau nạn nhân, hai đầu gối tì xuống đất, hoặc ngồi
nhẹ lên bắp chân nạn nhân (trong trường hợp nạn nhân nằm trên ghế) và
đặt 2 bàn tay xòe trên lưng nạn nhân, phía trên khung xương chậu, hai
ngón tay cái có thể giáp nhau, các ngón tay khác áp chặt vào hai bên
sườn của nạn nhân, phía dưới các xương sườn cụt một chút, đừng để tay
tì lên gan;

-

Nhô người lên, hai tay tì mạnh lên lưng nạn nhân, với sức nặng của thân
mình và đếm nhẩm trong 2 giây. Cử động này có mục đích ép bụng nạn

nhân, làm cho hoành cách mô bị đẩy mạnh lên cao, ép buồng phổi lại,
tống khí độc ra ngoài. Đếm xong lại từ từ trở lại tư thế đầu. Khi buông
ra, hoành cách mô hạ xuống, phổi nới rộng, khí trong lành tràn vào. Cứ
tiếp tục như trên (từ 15 đến 20 lần trong một phút) cho phù hợp với nhịp
thở bình thường của mình (THỞ RA ấn xuống, HÍT VÀO ngã người ra
sau);

-

Khi nạn nhân đã dần dần hồi tỉnh, đã thoi thóp thở, vẫn phải tiếp tục cấp
cứu. Phải để ý, khi nạn nhân hít vào, phải nhấc hẳn tay ra để nạn nhân
thở dễ dàng.

* Thực hiện theo từng lứa tuổi:
A. Đối với trẻ dưới 1 tuổi :
 Thổi ngạt 5 lần :
Cách thổi ngạt :
- Nâng ngửa đầu trẻ,
- Áp miệng trùm kín miệng và mũi trẻ và thổi
vừa phải đồng thời quan sát lồng ngực trẻ.
 Kiểm tra lại :
-

Nếu có mạch, có thở thì đặt nạn nhân tư thế nằm nghiêng an toàn, theo
dõi tiếp và chuyển đến cơ sở y tế.

23


-


Nếu không thở, không có mạch thì tiến hành thổi ngạt kết hợp với ép
tim ngoài lồng ngực Cách làm
-

Đặt trẻ nằm ngửa trên nền phẳng, cứng. - Ép
tim ngoài lồng ngực tại vị trí dưới điểm giao
nhau giữa xương ức và đường ngang qua 2
núm vú (đặt 3 ngón tay dọc theo xương ức bắt
đầu từ điểm giao nhau vừa xác định, sau đó rút
bớt 1 ngón tay sát điểm giao nhau) với tần số
30 lần ép tim và 2 lần thổi ngạt (một chu kỳ)

-

Thực hiện 5 chu kỳ liên tục, dừng lại kiểm tra mạch, nhịp thở của nạn
nhân.

-

Làm liên tục cho đến khi nạn nhân có đáp ứng.

B. Đối với trẻ từ 1 đến 8 tuổi :
Trình tự sơ cứu tương tự như trẻ trên 1 tuổi.
Lưu ý:
-

Khi thổi vào miệng người sơ cứu trùm kín
miệng trẻ và bóp 2 cánh mũi.


Khi tiến hành ép tim ngoài lồng ngực: Đặt bàn tay và ép vuông góc lên
điểm ép tim
bằng lực của 1 cánh tay

B. . Đối với trẻ trên 8 tuổi và người lớn :
-

Đặt nạn nhân nằm ngửa trên nền phẳng,
cứng. - Dùng gốc 2 bàn tay và lực của 2 cánh
tay ép vuông góc lên vị trí 1/2 dưới của đoạn
giữa hõm ức trên và hõm ức dưới với tần số
30 lần ép tim và 2 lần thổi ngạt (một chu kỳ)

-

Ép sâu 1/3 đến ½ độ dày lồng ngực đối với
trẻ và 4 – 5 cm đối với người lớn.

-

Thực hiện 5 chu kỳ liên tục, sau đó dừng lại
kiểm tra mạch, nhịp thở của nạn nhân. Làm
liên tục cho đến khi nạn nhân có đáp ứng.
24



 Các điểm cần ghi nhớ:
1. Thực hiện đúng nguyên tắc DRABC.
2. Nghi ngờ tổn thương cột sống không đưa về tư thế hồi phục.

3. Chỉ thay người sơ cứu sau khi thực hiện 5 chu kỳ.
4. Thường xuyên theo dõi hơi thở và mạch của nạn nhân, cả khi nạn nhân
đã có đáp ứng.
Lưu ý:
Bất tỉnh sau tai nạn chấn thương là một tình trạng nguy hiểm cần được theo dõi
thường xuyên để tránh những diễn biến xấu dẫn đến tử vong.
Khi nào dừng ép tim ngoài lồng ngực và thổi ngạt:
 Nạn nhân có đáp ứng: có mạch và thở được
 Có sự trợ giúp của nhân viên y tế
 Hiện trường sơ cứu trở nên không an toàn
 Nạn nhân không có đáp ứng: toàn thân lạnh, mềm nhũn, không thở,
không có mạch, da tím tái, đồng tử giãn không đáp ứng với ánh sang

25


×