Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bài tiểu luận tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.14 KB, 15 trang )

BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC TPHCM

KHOA XÂY DỰNG
BÀI TIỂU LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HCM
ĐỀ TÀI: Tư tưởng HCM về đoàn kết dân tộc với vấn đề xây
dựng khối đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay

TÊN SV: Nguyễn Văn Tấn
MSSV: 15520800348
Lớp học phần: 5019


Mục lục
Phần mở đầu
Phần nội dung
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của
dân tộc Việt Nam
2. Tinh hoa văn hóa phương Đông , phương Tây :
3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp
quần chúng
4. Cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và Thế giới
5. phẩm chất cá nhân HCM
II.

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng


2. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức
là Mặt trậndân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng:

III.

NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích
tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng
liêng của con người
2. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
3. Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn
kết rộng rãi, lâu dài, bền vững
4. Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê
bình, phê bình vì sự thống nhất bền vững


5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa
yêu nước chânchính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân
IV.

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong công cuộc đổi mới hiện nay

V.

Kết luận



Lời mở đầu
Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mac – Le6nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người , về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về
sức mạnh của nhân dân của khối đại đoàn kết dân tộc, ……
Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá
trình phát triển của dân tộc ta. Tư tưởng đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ
của mọi người Việt Nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc tạo nên sức mạnh to
lớn đưa tới những thắng lợi vẻ vang.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn,
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì
việc đoàn kết tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn
nhiều hạn chế ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số. Do vậy
chỉ có thể huy động sức mạnh đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta mới
đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh.
Vậy nên , đề tài tiểu luận: “Tư tưởng HCM về đoàn kết dân tộc với vấn đề xây dựng
khối đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay” sẽ nhận thức rõ về vấn đề quan trọng của
khối đại đoàn kết dân tộc.


Phần nội dung
I.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc:
Cơ sở hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết nằm trong nhận thức chung của cơ sở
hình thành tư tưởng HCM được tiếp nhận về phương diện đoàn kết
1. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và
củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian
đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, chúng làm cho vận mệnh mỗi cá
nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc.
Chúng là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì
nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển
của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm nên
truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa
yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã
được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và
chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố
kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là: “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Triết lý nhân sinh của dân
tộc:” Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tư duy chính trị
được phản ánh:” Nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc , lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí
nhân thay cường bạo. Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá
nhân với cộng đồng mà hàng đầu là trách nhiệm với tổ quốc.
Văn hóa Việt Nam “khoan thư sách dân để làm kế sâu rễ gốc bền”, hướng về dân lấy
dân làm gốc, “Chở thuyền là dân lật thuyền là dân. Lật thuyền mới biết dân như nước”.
Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến “Hội nghị Diên Hồng”, những kiểu “Tập hợp

bốn phương manh lệ”, “Phụ tử trên dưới một lòng, hòa nước sông chén rượu ngọt
ngào”.


Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa khoan dung hòa hợp, hòa đồng. Điểm này có nguồn
gốc từ cội rễ của văn hóa Việt Nam có gốc tích, tổ tiên chung. Điều này đã được HCM
nhiều lần nhấn mạnh khi nói về con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. Người nhấn
mạnh :
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể ba năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta,
Nước ta lúc đó gọi là Văn Lang «
2/ Tinh hoa văn hóa phương Đông , phương Tây :
Văn hóa phương Đông trong đó có nho giáo, phật giáo, bên cạnh nhiều điều không hợp
lý, có nhiều điểm tích cực . thuyết đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của nho
giáo . theo Khổng Tử, « thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ
thiếu chỉ sợ có không đều ». Quan điểm « nước lấy dân làm gốc »là của nho giáo.
Trong phật giáo cũng có những điểm hay như tư tưởng « đại từ, đại bi, cứu khổ cứu
nạn »…(tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn kết.
Văn hóa phương Tây được HCM khai thác từ lúc còn học trên ghế Trường Quốc học.
Sau này, trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài. Người đã chọn lọc những hạt
nhân hợp lý trong tuyên ngôn độc lập của cách mạng tư sản Mỹ, trong tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng tư sản Pháp. Người đã học được tư tưởng,
phong cách dân chủ phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa
nhân văn từ các triết gia tư sản trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương tây đã
góp phần làm giàu trí tuệ HCM
3/Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp quần chúng
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là

người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng
phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của
cách mạng.Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải
phóng. Lê nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân
là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không


có sự đồng tình và ửng hộcủa đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó,
tức giai cấp vô sản, thì cáchmạng vô sản không thể thực hiện được.Đó là những quan
điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trongsự đánh giá
chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyềnthống, trong
tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách
mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
4/ Cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và Thế giới
Ra đi tìm đường cứu nước, HCM đã phân tích nguyên nhân thất bại của các cuộc đấu
tranh trong nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX. Dưới ngọn cờ Cần Vương và các sĩ
phu yêu nước đầu thế kỉ XX, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam chưa thực sự có
đường lối đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ , có đoàn kết rộng rãi. HCM rút ra rằng đã làm
cách mạng, dù là cách mạng tư sản hay vô sản thì điều chủ chốt là “ dân chúng công
nông là gốc cách mạng. Cách mạng thì có tổ chức rất vững bền mới thành công. Đàn
bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mạng được nhiều. Dân khí mạnh thì quân lính
nào,súng ống nào cũng không chống lại”.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa trên thế giới chưa giành được thắng lợi
không phải vì thiếu lòng yêu nước, câm thù bọn xâm lược, mà thiếu lực lượng lãnh
đạo thiếu tổ chức , chưa biết đoàn kết phạm vi trong nước và trên thế giới. Vì vậy
muốn giành được thắng lợi như cách mạng Nga năm 1917 thì dân chúng công nông
làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh , phải thống nhất.
5/ phẩm chất cá nhân HCM:
Cơ sở hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết , cùng với những nội dung về lý luậntư tưởng , phải kể tới những phẩm chất cá nhân HCM trên các phương diện đạo đức,
trí tuệ, bản lĩnh. Hồ Chí Minh là lãnh tựu quyết tâm , suốt đời hết lòng , hết sức phục

vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng , phục vụ nhân dân, đến khi phải từ biệt thế giới này,
không có điều gì phải hối hận , chỉ tiết là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa ,
nhiều hơn nữa. Người thương dân trọng dân , kính dân, tin tưởng nhân dân ; hiểu rõ
dân tình, dân tâm, dân ý, chú trọng tới dân quyền , dân sinh, dân trí , dân chủ . vì vậy
người được dân tin, dân phục , dân yêu.
II.

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh: là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục. Tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến
bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự


nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác,
đó là tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai đoạn, giải phóng con người
1.Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
Trước hết, HCM nhận thức rõ vị trí, vai trò của đoàn kết trong sự nghiệp cách mạng.
Đoàn kết trong tư tưởng HCM không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời , sách
lược mà là một chiến lược. Theo Người, “ đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc. Lúc nào
dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết tạo
nên một sức mạnh thực sự , là “ điểm mẹ”, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con
cháu đều tốt .
Đoàn kết trong tư tưởng HCM vừa là chiến lược vừa là yêu cầu khách quan của của sự
nghiệp cách mạng. Bởi vì, cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ, muốn giành thắng
lợi thì phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại
của toàn dân. Mặt khác, trong thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười,
phải chống kẻ thù mới là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, nếu không có lý luận khoa học

và cách mạng về đoàn kết thì khó thành công.
2.Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Trong tư tưởng HCM, yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của
mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương
chính sách , tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
Đại đoàn kết là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu
của mọi giai cấp cách mạng . Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò của thực
lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ
mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đáng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu , nhiệm
vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp
quần chúng , tạo thực lực cho cách mạng. thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân
tộc.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn
kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong
phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp ,quần chúng nảy
sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết


quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc cũng là đại đoàn kết toàn dân. Theo một nghĩa nào đó thì khái
niệm “dân tộc” rộng hơn khái niệm “nhân dân”. Nhưng trong nhiều trường hợp, nhất là
khi bàn về đoàn kết, khái niệm “dân cũng rộng như dân tộc, có biên độ rộng lớn, gồm
mọi con dân nước Việt, không phân biệt đa số hay thiểu số , già trẻ, gái trai, cùng sống
trên đất nước Việt Nam. “Dân tộc” thường được hiểu theo nghĩa cộng đồng, còn “dân”
vừa được hiểu theo nghĩa cộng đồng tức toàn thể đồng bào, cũng có thể được hiểu là
mỗi cá nhân. Vì vậy, dân không phải là một khối đồng nhất mà là một cộng đồng bao

gồm nhiều giai cấp, dân tộc tầng lớp, cá nhân có lợi ích cchung và riêng, có thái độ và
vai trò khác nhau đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân thể hiện nhiều tầng nấc, cấp độ các mối quan hệ rộng hẹp khác
nhau theo tinh thần đoàn kết rộng rãi, lâu dài vì độc lập thống nhất của tổ quốc và xây
dựng nước nhà. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh ai có tài có đức, có lòng phụng sự tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Trong khối đông đảo toàn dân tộc đó, đa số
nhân dân gồm công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác là nền gốc
của đại đoàn kết, trong đó nồng cốt là liên minh công nông.
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng:
Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, xoá bỏ chế độ
cũ, xây dựng chế độ mới; vì vậy, nó phải được biến thành lực lượng vật chất, sức mạnh
vật chất có tổ chức, đó là mặt trận thống nhất. Quần chúng nhân dân chỉ trở thành một
lực lượng thống nhất và có sức mạnh to lớn khi họ được giác ngộ về mục tiêu chiến
đấu chung, được tổ chức thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chính
trị đúng đắn.
Tuỳ theo yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của cách mạng trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn, quần chúng nhân dân được tập hợp vào các tổ chức mặt trận rộng rãi với những
tên gọi phù hợp, như Mặt trận dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt
trận Việt minh (1941)… và ngày nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy có nhiều tên
gọi khác nhau như vậy, song về thực chất, các tổ chức đó chỉ là một. Đó là tổ chức
chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng
phái… phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do,
hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với từng thời kỳ và


được tổ chức theo các nguyên tắc chặt chẽ: được xây dựng trên nền tảng liên minh
công - nông - lao động trí óc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; hoạt động theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi
ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng; chủ

trương đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thực sự, chân thành và thân ái giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu phải đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, với
các đảng phái, với các dân tộc anh em, giữa đồng bào lương với đồng bào thuộc các
tôn giáo để sống hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc(8). Bên cạnh những điểm tương
đồng, giữa các thành viên không tránh khỏi có những điểm khác nhau và cần phải bàn
bạc để đi đến nhất trí. Muốn giải quyết vấn đề ấy, Người nhấn mạnh phương châm
“cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Theo Hồ Chí
Minh, “đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất
trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau,
phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của
mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo mặt trận. Tuy nhiên, “
Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là
một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh
và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".
III.

NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH

Chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây dựng, hoàn thiện và
tuân theo nhữngnguyên tắc nhất quán sau:
1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của
dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người:
Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp
khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích
khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp,
giai cấp cóthực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự
do, có đoàn kế thay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích
đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng

và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác
biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay
cho sự đào sâu tách biệt, thựchiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác
nhau về lợi ích.


Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹnlãnh
thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức
mạnhdân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là
nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp
để thực hiệnnguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
2/Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Ngườikế
thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ nghĩa duy vật lịch sử:
cáchmạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.Tin vào
dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắcvào sức
mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của
lựclượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn
mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải
quyết nhiều vấnđề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớnnghĩ mãi không ra”.
3/Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi,
lâu dài, bền vững:
Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đoàn kết
thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn
kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với
tính cáchlà Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức,
giữ mối liên hệvới bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị
và tư tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp công

nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là
chủ nghĩa Mác – Lênin:”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để
đoàn kết các tầng lớp kháctrong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng cố được
lực lượng cách mạng và đưacách mạng đến thắng lợi cuối cùng ”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có
định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư
tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp
lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong
khu vực và trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần
chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác –


Lênin là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc lập trường vô
sản, mà sức mạnh chủ yếu của nó là liên minh công nông.
4/Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê
bình vì sự thống nhất bền vững:
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồngcòn
có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để
điđến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc
phục.Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để
tăng cườngđoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi
chiều, nêu cao tinhthần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục
những mặt chưa tốt, củngcố đoàn kết: “Đoàn kết that sự nghĩa là mục đích phải nhất
trí và lập trường cũng phảinhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình
trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát
triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thốngnhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp
hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủtất cả những lực lượng có thể tranh thủ

được; đồng thời chống khuynh huớng đoàn kết màkhông có đấu tranh đúng mức trong
khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới,
cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thìtrước hết phải tự cải tạo bản
thân chúng ta”
5/Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước
chânchính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân:
Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác định con đường
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được
thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Về
sau,trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng
thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề cách mạng trong nước
phải gắnvới phong trào và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là
với nhân dân Pháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
khác, với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân
dân thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành 3 tầng Mặt
trận: Mặt trận đại đoànkết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết vớiViệt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ


Chí minh về đại đoàn kết. Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến
việc thực hiện đoàn kết quốc tế, nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là yếu tố hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn
toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
IV.

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong công cuộc đổi mới hiện nay:

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang chứng minh sức sống kì diệu của tư

tưởng đại đoàn kết HCM. Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại đoàn kết
HCM, nghiên cứu để kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết
của Người là một trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó
khăn thử thách, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần xây dựng thành công một nước Việt
Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ , văn minh.
Theo tư tưởng HCM, trong công cuộc đổi mới hiện nay, đại đoàn kết phải được
củng cố và phát triển nhằm rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu
xa hơn về kinh tế, khoa học, công nghệ so với các nước trong khu vực và ttren6 thế
giới, làm cho Việt Nam có thể tự tin sánh vai với các cường quốc năm châu; khơi
dậy tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ thời
cơ, vượt qua mọi thách thức; phát huy được tính năng động của mỗi người, của cả
cộng đồng, khắc phục những tác động của nền kinh tế thị trường để không làm
phương hại nền văn hóa truyền thống dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay, đại đoàn kết theo tư tưởng HCM đòi hỏi phải xây dựng
được một đảng cầm quyền thật sự trong sạch , vững mạnh, cán bộ, đảng viên thật sự
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; một chế
độ thật sự do nhân dân là chủ và làm chủ; một nhà nước thật sự của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; một hệ thống chính trị có hiệu quả và hiệu lực thực tế.
Trong khuôn khổ luật pháp, tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội,
hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với tri thức, chính
sách đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, tập hợp đến mức rộng rãi mọi nhân
tài , vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền
với xây dựng kinh tế tri thức.
Đảng và Nhà nước phải chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc tế trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay, thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu, hợp tác, đa
phương hóa, đa dạng hóa, cũng cố khối đoàn kết với mọi lực lượng tiến bộ trên thế
giới vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển.


Đại đoàn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định. Đại đoàn kết dân tộc

trước hết nhằm tạo lực và thế để vươn ta bên ngoài; ngược lại, mở cửa, hội nhập quốc
tế là nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tăng lên. Thực hiện đại đoàn kết
dân tộc gắn liền với đại đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại sẽ là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
V. Kết luận:
Trong tất cả mọi người việt nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn
tiềm ẩn tinhthần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát
triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người việt nam, thực thi chiến
lược đại đoàn kết dân tộc của HCM một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng
nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ
sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do đảng cộng sản lãnh đạo, phấn
đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh
nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trịquan trọng
trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất
nướctrong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.cách mạng nước ta đã bước
sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và
giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất nhiều so với những năm trước.
Đại hội IX và X của đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là một động lực chủ
yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan
điểm và bài học kinh nghiệm của đảng và bác hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và
phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc.
Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kếtdân tộc
có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân
thực sự) thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác
không thểđại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của
giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng
không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người việt nam trong nước hay người
việt nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của đảng ta.

Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành độngthực tiễn của mỗi
người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.




×