Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số biện pháp phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của học sinh trong dạy tập làm văn lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.92 KB, 16 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐAM RÔNG
TRƯỜNG TH LƯƠNG THẾ VINH

Giải pháp hữu ích

Người viết : Đậu Thị Vân
Đơn vị: Trường TH Lương Thế Vinh

Tháng 11 năm 2012


MỤC LỤC

I.ĐẶT VẤN ĐỀ.

II.THỰC TRẠNG.

III.NGUYÊN NHÂN.

IV.GIẢI PHÁP

V.DẠY THỰC NGHIỆM.

VI.KẾT QUẢ.

VII.KẾT LUẬN.


UI/ ĐẶT VẤN ĐỀ :
Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp
học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những


ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những
tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
Để làm được một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các
kiến thức về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trường
xung quanh, về vốn hiểu biết, … nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng
hợp các kiến thức mà học sinh đã học được ở các phân môn tiếng việt khác.
Bởi vậy, tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn
thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của
mỗi học sinh.
Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh
thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt
động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn,
diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do
đó, sau một thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các
em hứng thú khi học môn này.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng
cho sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông.
Vì vậy phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt. Việc
hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn hình thành nếp tư
duy sáng tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông.
Hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học đang
diễn ra một cách sôi động, được nghiên cứu ứng dụng rộng rãi cả về lí luận
cũng như về mặt thực tiển. Việc dạy học theo hướng “ tích cực hóa người
học” hay “hướng tập trung vào học sinh” tăng cường phương pháp dạy học
tổ chức cho học sinh hoạt động để các em chiếm lĩnh kiến thức bằng chính
hoạt động học của chính mình là định hướng cơ bản trong đổi mới phương
pháp dạy học của Tiểu học.



Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp
học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những
ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những
tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy. Đặc biệt là phân môn Tập
làm văn là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở các phân môn:
Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Với mục tiêu rèn
học sinh bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kỹ năng viết “ một đoạn
văn ngắn” là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn tập làm văn lớp 2.
Để làm được một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các
kiến thức về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trường
xung quanh, về vốn hiểu biết, … nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng
hợp các kiến thức mà học sinh đã học được ở các phân môn tiếng việt khác.
Bởi vậy, tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn
thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của
mỗi học sinh.
Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh
thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt
động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn,
diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do
đó, sau một thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các
em hứng thú khi học môn này.
Bởi vậy hiệu quả giờ dạy học sinh viết đoạn văn ngắn còn rất hạn chế.
Một phần người dạy còn chưa tìm ra quy trình và phương pháp dạy thích
hợp. Hơn nữa đây là loại bài hoàn toàn mới đối với học sinh lớp 2. Vì các
em từ lớp 1 lên và đến bây giờ các em mới làm quen với thể loại này. Với
đối tượng này vốn từ, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế. Học sinh chưa hiểu sâu
về nghĩa các từ ngữ và bản chất của câu nên khi viết một đoạn văn các em
thường bộc lộ các yếu điểm về diễn đạt như : từ lặp lại nhiều, câu không rõ
nghĩa, các câu trong đoạn văn còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả

lời câu hỏi. học sinh thường rập khuôn theo sự hướng dẫn của giáo viên.


Vì những lý do trên tôi mạnh dạn nghiên cứugiải pháp : “ Một số biện
pháp phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của học sinh trong dạy tập làm
văn lớp 2” để góp phần nâng dần chất lượng học tập làm văn nói riêng và
học Tiếng Việt nói chung trong nhà trường Tiểu học.
II. THỰC TRẠNG
Năm học 2012-2013 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2B .Tổng số
học sinh của lớp có 32 em , trình độ nhận thức của học sinh trong lớp không
đồng đều . Một số em việc nhận mặt chữ và đọc bài còn rất chậm,chữ viết
xấu và sai chính tả nhiều .Khi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 2,
bản thân tôi rất quan tâm đến việc học tập của học sinh .Khi dạy môn Tập
làm văn tôi nhận thấy việc nói và viết văn của các em còn rất nhiều lúng
túng,nhiều em làm bài còn mang tính chất rập khuôn và bắt chước bạn một
cách máy móc .Đa số các em đã biết viết văn nhưng chưa phong phú,chưa
biết chọn từ ngữ để diễn đạt ý của mình .Một số em chưa mạnh dạn nói, khi
bắt buộc phải nói thì đọc những câu đã chuẩn bị nên diễn đạt không rõ ràng,
chưa biết sắp xếp ý, chọn lọc từ ngữ để nói dẫn đến khi viết đoạn văn thường
dài dòng,ý lủng củng, chưa rõ nghĩa.Khi làm văn các em đơn thuần nói từng
câu,còn yêu cầu nói liền mạch, thành ý, thành đoạn còn rất nhiều hạn chế
hay lặp lại từ .Với tình hình thực trạng của lớp tôi được phân công chủ
nhiệm, tìm hiểu về tình hình của lớp tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến các em làm văn chưa được , còn lúng túng trong khi nói và viết văn .tôi
xin đưa ra một số nguyên nhân như sau:
III .NGUYÊN NHÂN.
* Về phía giáo viên :
-Chưa chú trọng đến việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với
đặc điểm của lớp .
-Chưa thường xuyên chuẩn bị, làm và sử dụng đồ dùng dạy học trong

các tiết học .
-Trong quá trình dạy chưa kịp thời quan tâm và sửa sai cho học sinh
khi nói và viết văn.


* Về phía học sinh :
-Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 2 lứa tuổi mau nhớ nhưng
cũng mau quên,mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa
cao.
-Sang lớp 2 các em phải làm quen với phân môn rất mới như luyện từ
và câu, tập làm văn.Đòi hỏi các em biết dùng từ đặt câu, nói thành câu, thành
đoạn, nói liền mạch để ứng dụng thành đoạn văn ngắn kể hay tả.
-Kiến thức thực tế cuộc sống của học sinh còn hạn chế , ảnh hưởng
đến việc tiếp thu bài học .Vốn từ vựng của học sinh còn hạn chế cũng hạn
chế đến việc thực hành luyện tập .Cụ thể là các em viết câu trả lời rời rạc,
chưa liên kết, tính sáng tạo trong thực hành viết chưa cao.
Chất lượng khảo sát môn Tập làm văn tháng 9
TSHS TTB
DTB
TS
%
TS
%
32
16
50%
16
50%
Từ kết quả khảo sát trên tôi đã tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu thực tế từ
đối tượng học sinh để đề ra một số biện pháp phù hợp vói các em.

IV. GIẢI PHÁP .
Trong quá trình dạy học nói chung và đặc biệt là phân môn Tập làm
văn thì khi dạy đòi hỏi người giáo viên cần phải nắm vũng các phương pháp
và lựa chọn phương pháp cần thiết, phù hợp với đặc điểm đối tượng học sinh
của lớp để áp dụng như phương pháp trự quan, phương pháp hỏi đáp,
phương pháp luyện tập thực hành, phương pháp trò chơi trong học tập
1/ Nghi thức lời nói :
Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên , có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít nói.
Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nhút nhát
nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể là sắm vai, có thể là
trò chơi hay thi đua cùng nhau … mỗi em có một suy nghĩ khác nên lời nói


cũng khác, giáo viên cứ để các em tự do bộc lộ nhưng giáo viên cũng nên
thống nhất những điểm chung sau :
• Đại từ xưng hô với đối tượng của bản thân mình phải phù hợp.
• Thái độ , cử chỉ, lời nói phải phù hợp với tình huống.
• Lịch sự, tự nhiên khi nói cũng như khi viết .
a/ Chào hỏi, tự giới thiệu, xin lỗi, mời nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia
buồn, khen ngợi, chia vui…
Đây là những câu nói thường ngày các em giao tiếp. Đa số các em đã
biết nói. Tuy vậy, để các em có thể nói rõ ràng, rành mạch hơn giáo viên nên
cho các em nhập vai bằng cách giao cho học sinh những tình huống cụ thể
Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng
đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ
xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác tùy tình huống vui
hay buồn.
Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu
văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a …

b/ Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn, xin lỗi, từ chối, chia vui …
Tất cả những lời đáp trên rất hay gặp trong đời sống nhưng các em lại
rất ít nói, có em chẳng hề nói nên các em thấy hơi xa lạ. Thế nên, giáo viên
không chỉ dạy thực hành trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc
mọi nơi với một thời gian dài.
Đối với lời đáp này các em thường ngại ngần không muốn nói nên
giáo viên cần cho các em sắm vai. Quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho
các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời
nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các em
có thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên
nhân là do các em chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi
vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt mình vào tình huống
của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy, các em mới không bị
lầm lẫn.
Ngoài ra giáo viên cũng cần lưu ý các em về thái độ lời nói với từng
đối tượng tương tự phần a .
c/ Nói và đáp lời khẳng định, phủ định:


Có lẽ dạng này đối với các em tương đối dễ, các em chỉ cần nói có
hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ khẳng
định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo mẫu trong sách
giáo khoa mà không thể phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Còn
nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài này các em sẽ tự giác hiểu và làm
bài tốt.
Riêng về đáp lời khẳng định, phủ định thì trong đời sống hàng ngày
các em ít khi nói. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành và sắm vai.
Ngoài ra, cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định

thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình.

2/ Các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày
Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng
ngày nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho các em
thấy một cách trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự thuật, danh sách
học sinh, mục lục sách, thời gian biểu. Giáo viên phải có một bản mẫu thật
to để các em được nhìn và nghiên cứu. Giáo viên phải chỉ rõ cách xem, cách
lập, từ đó các em mới biết cách sử dụng những kiến thức đã học được mà áp
dụng vào cuộc sống hàng ngày.
a/ Bản khai tự thuật
Các em chỉ cần điền từ vào bản khai nên điều giáo viên cần lưu ý nhất
là khi cho các em chuẩn bị trước ở nhà những thông tin về lý lịch bản thân.
Lúc này cũng rất cần sự quan tâm của phụ huynh thì học sinh mới làm bài
tốt được. Đặc biệt, giáo viên cần nhắc nhở thường xuyên về việc các em cần
viết hoa các từ cần thiết như : tên riêng, tên địa phương, … có những em
chưa nắm được cách viết hoa chữ cái, có những em viết sai chính tả tên địa
phương. Vì bài này nằm ở đầu chương trình nên học sinh còn chưa có thói
quen.
b/ Viết tin nhắn, bưu thiếp
Khi gặp dạng bài này các em rất ham thích. Giáo viên nên tận dụng
điều này để giúp học sinh nắm bố cục của bài là đầu tiên phải có thời gian,


địa điểm, có nội dung tin nhắn và cuối cùng là ký tên … Ngoài ra, giáo viên
có thể cung cấp thêm một số hình ảnh để người đọc tin nhắn thêm vui vẻ.
Ví dụ: Khi nhắn tin cho ba mẹ là con đi học nhóm, các em có thể vẽ
thêm một cây bút, một quyển vở …
c/ Nhận và gọi điện thoại
Trong thời đại ngày nay, việc nhận và gọi điện thoại là quá quen thuộc

với học sinh. Do đó, các em nói rất dễ dàng. Tuy nhiên khi viết các em gặp
nhiều trở ngại vì các em chưa nắm được khi nào là bản thân mình nói, khi
nào là người đầu dây bên kia nói. Bởi vậy, khi các em viết ra sẽ nhầm lẫn và
sai sót. Nên giáo viên phải giúp các em xác định nhân vật . Có thể giúp các
em hứng thú hơn bằng cách các em chuẩn bị những chiến điện thoại, cho các
em sắm vai, đọc kỹ đề và tưởng tượng mình là nhân vật. Có thế khi các em
viết mới không bị nhầm lẫn.
3/ Viết đoạn văn
Đây là dạng bài nòng cốt trong môn tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người
học sinh vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh tường,
óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài này giáo viên
cần nắm rõ tâm lý tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh nhìn nhận sự vật thế
nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em rất tỉ mỉ quan sát, có em rất
hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi con muốn tả bất cứ cái gì thì các
con phải hiểu rõ về cái đó. Con phải tìm hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi
bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế qua môn tự nhiên xã hội, qua
đọc sách, đọc báo, … Giáo viên cần phối hợp nhiều phương pháp và hình
thức dạy sao cho bảo đảm với mục tiêu.
Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện
tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực
tếm đôi khi tôi cho các em một bài tập tả một con vịt, có em bảo là con chưa
bao giờ nhìn thấy con vịt thật. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và
lớn lên ở thành phố nên các em không nhìn thấy con vịt là cũng đáng. Bởi
thế giáo viên cũng cần sưu tầm những phim ảnh để có thể trình chiếu cho
các em, cho các em quan sát vật thật, tham quan dã ngoại … hoặc vào dịp


tết các em hay được ba mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có
thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.
Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ

phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận
dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người
cung cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều.
Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài
thơ nói về chủ để đó.
Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và
chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học
sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận
dụng. Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn
tả về chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn
xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. Vốn từ còn có trong phân
môn luyện từ và câu. Giáo viên có thể cho các em chơi trò chơi, thi đua tìm
từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất hứng thú và tìm được rất nhiều từ.
Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài
(giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trước khi
làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một trò chơi
“em và chú gà” như sau . Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em
lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo
viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
• “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “nhà em có nuôi
một chú gà”
• Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà : “tôi có bộ lông nhiều màu
sắc. Tôi có cái màu trên đầu. Tôi gáy rất to …”
• Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em
thường rải thóc cho gà ăn …”
Hoặc có thể tinh giảm em “người tả” chỉ cần một em sắm vai “chú
gà”.
- Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ như
sau :



Chú gà ở nhà em

Gáy to

Mào đỏ
Con gà

Lông nhiều màu

Ăn thóc
Em yêu mến chú gà

Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển
thành một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn qua trò
chơi “tiếp sức”.
Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo
thành câu, cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo
viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu. Có thể câu văn
lúc ấy còn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa.
Trong phần giới thiệu, ta có thể gặp trường hợp sau :
Ví dụ : học sinh thành lập câu “Nhà em có nuôi một con gà”. Ta có
thể lưu ý rằng câu của con đúng nhưng chưa hay và có thể bị trùng lắp
với các bạn khác. Vậy con hãy thành lập một câu khác sao cho vừa
giới thiệu được chú gà, vừa lồng tình cảm của con vào để người đọc
cảm thấy thích thú như câu “Chú gà trống tía nhà em trông mới oai
vệ làm sao !” hoặc “ Ôi! Chú gà con nhà em sao mà ngộ nghĩnh
quá! …”
Trong phần nội dung (quan trọng nhất) giáo viên luôn nhắc nhở học
sinh rằng nội dung thường có hai phần đó là : tả hình dáng và tả hoạt động

của con vật. Đây chính là lúc giáo viên phải khai thác triệt để vốn sống của
học sinh, đồng thời gợi mở để học sinh lĩnh hội kiến thức mới. Đưa một số
trò chơi như : viết tiếp sức một đoạn văn, sắm vai người thân …. Để tạo sự
hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời tiếp thu kiến thức một cách
tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn được phát triển cả về thể lực và
nhân cách, giúp cho học sinh học tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo


sự thân thiết giữa thầy trò với nhau. Trò chơi về chú gà đã phần nào nói lên
đặc điểm của chú gà mà các em cần vận dụng để tạo thành đoạn văn.
Khuyến khích học sinh lồng cảm xúc vào bài.
Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện
thoải mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em mới tự
nhiên. Ví dụ : Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống như sau : “Nó
đập cánh và gáy to lắm”. Ta có thể khuyến khích các em là con tả đúng rồi
nhưng nếu con sử dụng một số từ gợi tả hơn thì chắc chắn câu văn của con
sẽ hay hơn nhiều như “ nó vỗ cánh và rướn cổ gáy vang “
Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều
từ ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển xanh và
rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại
thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là ….
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự , ví dụ: Bác Hồ thành Bác,
Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt
hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh. Ví dụ: Sau
khi thành lập sơ đồ mạng, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn như sau :
“Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to.
Em rất yêu nó”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là “con làm đúng
nhưng chưa hay. Từ những ý tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành
một đoạn văn hay hơn nhé : “Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm

sao ! Toàn thân nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía
nhảy tót lên ụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi khi đi học về,
em thường rải cho nó một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong của
nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã
được lột xác, thêm thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp
hơn, nghệ thuật hơn.
Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe
để học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp để
các em noi gương. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt gặp ở đâu đó


vào một quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của các em sẽ ngày
càng nhiều, càng phong phú.
V.DẠY THỰC NGHIỆM
Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh học
tập làm văn, tôi đã lấy số liệu kết quả kiểm tra giữa kì 1 như sau :
Đối tượng : 32 học sinh lớp 2 B
TSHS
32

TS
26

TTB
%
81,25%

TS
6


DTB
%
18,75%

Nhìn chung vào các bảng kết quả trên cho thấy cách tổ chức học sinh
theo hướng phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của học sinh trong dạy tập
làm văn lớp 2” theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh học và viết đoạn
văn chắc chắn, thành thạo, chất lượng đoạn văn viết của học sinh tăng lên rõ
rệt qua từng đợt kiểm tra. …
Mặt khác qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp tôi thấy giờ học diễn
ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói
hơn cả là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn
nữa. Học sinh đã biết dùng các từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh
động, khi viết về các con vật và con người xung quanh mình.
VI . KẾT QUẢ
Sau một thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của học
sinh lớp tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Học sinh bước đầu biết viết đoạn
văn ngắn phù hợp theo yêu cầu của đề bài.
Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp
cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tập làm văn. Tôi thấy mỗi giờ
dạy bản thân mình cũng được say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em
học Tập làm văn. Cho nên tiết Tập làm văn bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn,
hiệu quả hơn so với trước.
Tôi đã mạnh dạn thực hiện kinh nghiệm của mình trong các giờ Tập
làm văn. Đầu năm học , khi mới bước vào phân môn tập làm văn có không ít


học sinh lớp tôi rất sợ học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên,
dìu dắt của tôi, số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần. thay
vào đó học sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ tập làm văn. Học

sinh lớp tôi đã ý thức hơn trong các giờ học tập làm văn, học sinh tự tin và
hứng thú học tập. Chất lượng học Tập làm văn có chuyển bến rõ rệt. Nội
dung các bài viết phong phú, các bài viết có sự khác biệt rõ do học sinh được
bộc lộ kinh nghiệm, sự cảm nhận của cà nhân khi quan sát, học sinh được tự
do diễn đạt bằng sự lựa chon từ ngữ, mô hình câu của riêng mình. Giờ học
hứng thú hơn bởi học sinh có động cơ nói ra, viết ra điều mình thấy, mình
cảm nhận được.
Đó chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nổ lực phấn đấu
hơn nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.
VII/ KẾT LUẬN
1. Kết luận .
Đề tài giúp học sinh có những bài viết sinh động, sáng tạo và mang
tính riêng biệt đã khép lại nhưng nó đã mở ra cho ta thấy việc dạy Tập làm
văn hay bất cứ phân môn nào khác dựa trên tính tích cực tự học, tự rèn luyện
của học sinh là vấn để rất cần thiết hiện nay. Nó đòi hỏi người giáo viên cải
tiến phương pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng và
hiệu quả đào tạo. Đảm bảo mục tiêu cuối cùng của nhà trường là đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện, hoàn thiện năng lực ngôn ngữ của học
sinh bao gồm việc làm giàu tiếng mẹ đẻ cho các em.
Từ đó, ta thấy được vai trò của người giáo viên rất quan trọng, chính
người giáo viên là người hướng dẫn, gợi mở, cố vấn trong các hoạt động học
tập, người mở ra khả năng tiềm ẩn của học sinh.
Qua đề tài này, tôi mong muốn góp một phần tích cực vào việc giúp
cho học sinh làm văn tốt hơn. Tuy nhiên, với vốn kinh nghiệm còn hạn chế
nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý chân thành của
thầy cô và các bạn.
2.Đề nghị


Tôi chỉ có một đề nghị nhỏ : đề nghị Phòng Giáo dục, nhà trường

trang bị thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để
giờ dạy đạt kết quả cao hơn.

Người viết

Đậu Thị Vân

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỔNG KHOA HỌC
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………



×