Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TÌM HIỂU ĐẠI CƯƠNG VỀ VACCINE VÀ CÁC VACCIN HIỆN ĐANG ĐƯỢC LƯU HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.37 KB, 19 trang )

Hóa trị liệu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
MHV 1211050 CH 17

TÌM HIỂU ĐẠI CƯƠNG VỀ VACCINE VÀ CÁC
VACCIN HIỆN ĐANG ĐƯỢC LƯU HÀNH

TIỂU LUẬN MÔN HÓA TRỊ LIỆU
HÀ NỘI 2013
1


Hóa trị liệu

MỤC LỤC
Lời nói đầu
1.
2.
3.
4.
5.

Lịch sử…………………………………………………………….2
Cơ chế hoạt động của vaccine ……………………………………4


Phân loại vaccine………………………………………………….4
Hạn chế của vaccine………………………………………………5
Các loại vaccine trên thị trường………………………………….8
5.1.
Vaccine bạch hầu - ho gà - uốn ván hấp phụ ( Vaccine DPT)
5.2.
Vaccine bại liệt bất hoạt (vaccine Salk, IPV)
5.3.
Vaccine bại liệt uống (vaccine Sabin)
5.4.
Vaccine lao (BCG)
5.5.
Vaccine dại
5.6.
Vaccine giải độc tố bạch hầu
5.7.
Vaccine liên hợp Heamophilus typ B
5.8.
Vaccine não mô cầu
5.9.
Vaccine Rubella
5.10. Vaccine sốt vàng
5.11. Vaccine sởi
5.12. Vaccine tam liên sởi – quai bị - Rubella
5.13. Vaccine tả
5.14. Vaccine thương hàn
5.15. Vaccine uốn ván – giải độc tố uốn ván hấp phụ
5.16. Vaccine viêm gan B
5.17. Vaccine viêm não Nhật Bản (VNNB)
5.18. Vaccine HPV ngừa ung thư cổ tử cung


Tài liệu tham khảo

2


Hóa trị liệu

Vacxin là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch chủ động
nhằm tăng cường sức đề kháng của cơ thể đối với một hoặc một số tác nhân gây
bệnh cụ thể. Các nghiên cứu mới còn mở ra dùng vacxin để điều trị một số
bệnh. Thuật ngữ vacxin xuất phát từ vaccinia – một loại virus gây bệnh đậu bò
nhưng khi đem chủng cho người thì lại giúp ngùa được bệnh đậu mùa (tiếng
Latinh vacca co nghĩa là con bò cái). Việc dùng vacxin để phòng bệnh chung
được gọi là chủng ngừa hay tiêm phòng hoạc tiêm chủng. Vacxin không những
được cấy (chủng), tiêm mà còn có thể dùng qua đường miệng (ví dụ vacxin
phòng các bệnh đường ruột).
1.

Lịch sử

Vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, Vua Mithridate VI mỗi ngày đều uống
một lương nhở độc chất cho cơ thể quen dần nhằ đương đầu với nguy cơ bị ám sát.
Chuyện này đã tỏ ra hiệu quả vì về sau khi Mithridate thất trận và tự sát, liều thuốc
độc ông ta uống vào chẳng có hiệu quả gì.
Ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ 10, các thầy lang Đạo giáo đã bí mật dùng
một kỹ thuật phòng bệnh đậu mùa. Đậu mùa là chứng bệnh hiểm nghèo, nếu không
giết chết bệnh nhân thì nó cũng để lại những sẹo rỗ trên mặt. Các thầy lang đã lấy
vẩy sẹo của người bị bệnh (chứa mầm bệnh), cho vào một chiếc hộp kín rồi giữ ở
một nhiệt độ nhất định trong thời gian để giảm độc tính, sau đó nghiền nhỏ thổi

vào mũi người khỏe chưa từng mắc bệnh để ngừa bệnh đậu mùa.
Bỏ qua những huyền thoại lẻ loi và không chắc chắn như trên, vacxin đầu tiên
với tên tuổi của Edward Jenner, một bác sĩ người Anh. Năm 1796 Châu Âu đang
có dịch đậu mùa, Jenner đã thử nghiệm vacxin thành công để ngăn ngùa bệnh này.
Kinh nhiệm dân gian cho thấy những bệnh nhân vắt sũa bò có thể lây bệnh đậu bò,
nhưng sau khi khỏi bệnh họ trở nên miễn nhiễm đối với bệnh đậu mùa. Dựa vào đó
3


Hóa trị liệu

Jenner lấy dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của cô bệnh nhân Sarah Nelmes rồi
cấy dịch này vào tay của cậu bé tám tuổi khỏe mạnh cùng làng tên James Phipps.
Sau đó Phipps đã có những triệu chứng của bệnh đậu bò. 48 ngày sau, Phipps khỏi
hẳn bệnh đậu bò, Jenner liền tiêm chất có chứa bệnh đậu mùa cho Phipps, nhưng
Phipps không hề mắc căn bệnh này. Cách làm của Jenner xét theo tiêu chuẩn các y
đức ngày nay thật không ổn, nhưng rõ rang đó là một hành động có tính chất khai
phá: đứa trẻ được chủng ngừa đã đề kháng được bệnh.
Thời của Jenner các virus vẫn chưa được khám phá, các vi khuân tuy đã được
tìm ra nhưng vai trò gây bệnh của chúng chưa được biết. Thời điểm 1798, khi
Jenner công bố kết quả thí nghiệm của mình, người ta chỉ hình dung có các “mầm
bệnh” gây sự truyền nhiễm.
Tám mươi năm sau, Louis Pasteur nghiên cứu bệnh tả khi dịch tả đang tàn sát
đàn gà. Ông cấy các vi khuẩn tả trong phòng thí nghiệm rồi đem tiêm cho gà,
những con bị tiêm chết sạch. Mùa hè năm 1878, ông chuẩn bị một bình dung dịch
nuôi cấy dạng huyền phù, rồi để đó, đi nghỉ mát. Khi trở về, ông lại trích lấy huyền
phù đó đem tiêm cho gà. Lần này thì bầy gà chỉ bị nhẹ rồi dần dần khỏe lại. Pasteur
hiểu rằng khi ông đi vắng đám vi khuẩn trong huyền phù đó đã bị biến tính suy yếu
đi. Ông bèn lấy vi khuẩn tả bình thường đem tiêm cho những con gà vừa trải qua
thí nghiêm trên và những con gà chưa hề bị chích vi khuẩn. Kết quả là những con

gà nào từng được chích vi khuẩn biến tính thì có khả năng đề kháng lại mầm bệnh,
còn lai chết hết. Qua đó Pasteur đã xác nhậng rằng cá giả thuyết của Jenner đã mở
đường cho khoa miễn dịch học hiện đại.
Từ đó chủng ngùa đã dẩy lùi được nhiều bệnh, triệt tiêu các bênh đậu mùa trên
toàn cầu, thanh toán hầu như hoàn toàn bênh bại liệt, giảm đáng kể các bệnh sởi,
bạch hầu, ho gà, bệnh ban đào, thủy đậu, quai bị, thương hang và uốn ván…
4


Hóa trị liệu

Nguyên tắc vẫn không có gì thay đổi: gây miễn dịch bằng một vi khuẩn hoặc virus
giảm độc lực, hoăc một Protein đặc hiêu có tính kháng nguyên để gây một đáp ứng
miễn dịch, rồi tạo một trí nhớ miễn dịch đặc hiệ, tạo ra hiệu quả đề kháng cho cơ
thể về sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập với đầy đủ độc tính.
Hiện nay các nhà khoa học hướng tới triển vọng dùng vacxin để điều trị một số
bệnh còn nan y như ung thư, AIDS…
Tuy nhiên nhiều bệnh vẫn còn đang thách thức con người, chưa có vacxin nào
đủ hiệu quả để ngăn ngừa. Trong đó phải kể đến nhiều bệnh do ký sinh trùng ( trị
sốt rét, giun, sán), vi khuẩn ( lao), virus (cúm, sốt xuất huyết, AIDS…). Một số lý
do có thể là các tác nhân gây bệnh biến đổi thường xuyên khiến cho miễn dich
không còn hữu hiêu hoặc tấn công ngay vào hệ miễn dịch như trường hợp của
HIV… Đã có lúc bệnh lao ssuwowcj đẩy lùi bằng nhiều biện pháp phối hợp (thuốc,
vacxin và các biện pháp phòng ngừa khác), nhưng sự xuất hiện của bệnh AIDS làm
cho dịch lao có dịp bùng phá, nhất là tại các nước đang phát triển.
2.

Cơ chế hoạt động của vacxin

Hệ miễn dịch nhận diện vacin là vật lạ nên hủy diệt chúng và ghi nhớ chúng. Về

sau khi tác nhân thực thụ xâm nhập cơ thể, hệ miễn dịch đã ở tư thế sẵn sàng để tấn
công tác nhân gây bệnh nhanh chóng hơn và hữu hiệu hơn (bằng cách huy động
nhiều thành phần của hệ mễn dịch đặc biệt là đánh thức các tế bào lympho nhớ).
Đây là các ưu điểm của đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
3.

Phân loại vacxin: có 3 loại vacxin kinh điển
Vacxin bất hoạt là các vi sinh vật độc hại bị giết bằng các hóa chất hoặc bằng

nhiệt như cá vacxin chống cúm, tả dịch hạch và viêm gan siêu vi A. Hầu hết các

5


Hóa trị liệu

loại vacxin này chỉ gây miễn dịch không hoàn toàn và ngắn hạn, cần phải tiêm
nhắc lại nhiều lần.
Vacxin sống, giảm độc lực la các vi sinh vật được nuôi cấy dưới điều iện đặc
biệt nhằm làm giảm tính độc hại của chúng. Vacin điển hình loại này thường gây
đáp ứng miễn dịch dài hạn và là các loại vacxin được ưa chuộng dành cho người
lớn khỏe mạnh. Các vacxin ngừa bệnh sốt vàng, bệnh sởi, bệnh ban đào, bệnh quai
bị đều thuộc loại này.
Các “toxoid” là các hợp chất độc bị bất hoạt từ các vi sinh vật (trong trường hợp
chính các độc chất này là phương tiện gây bệnh của các vi sinh vật). Ví dụ vacin
ngùa uốn ván và bạch hầu.
Vaccine tái tổ hợp là một hay nhiều gen đặc hiệu của virus được tách riêng ra,
sau đó được chuyển vào loại tế bào có khả năng nhân lên nhanh, thích hợp với quy
mô công nghệp, biểu hiện được và dễ tinh chế kháng nguyên (thướng sử sụng nấm
men)

Vaccin AND loại vaccine này xâm nhập tương tự như cơ chế tự nhiên của cơ
thể khi tiếp xúc với virus
Vacxin sống ngừa bệnh lao không phải là dòng vi khuẩn lao gây bệnh mà là một
dòng lân cận được gọi là BCG.
4.

Hạn chế của Vacxin
• Hiệu quả kém
Một số vacxin rất có hiệu quả ( như vacxin đậu mùa nổi tiếng, uốn ván,

sởi…). Một số vacxin có hiệu quả vừa phải (như hiệu quả của BCG chỉ 50%).
Ngược lại có những bệnh đến đầu thế kỷ 21 vẫ chưa có vacxin thích hợp ( AIDS,
sốt rét…). Do vậy vacxin chưa phai là vũ khí vạn năng để đối phó với bệnh tật.
6


Hóa trị liệu

Hiệu quả của Vacxin cũng khó đánh giá chính xác. Kết quả nghiên cứu cho
động vật cugnx không thể áp dụng 100% cho loài người, vì những đặc điểm riêng
của từng loài. Trên lý thuyết, phương pháp duy nhất ddeer chứng minh hiệu quả là
lấy hai nhóm người, một nhóm được tiêm chủng, một nhóm không rồi truyền mầm
bệnh cho cả hai nhóm rồi xem kết quả. Dĩ nhiên phương pháp này khoog thể suer
dụng được vì trái đạo đức. Do đó, người ta biến hóa đi một chút, cũng chia àm hai
nhóm được chủng và không được chủng như trên nhưng không truyền bệnh mà chỉ
quan sát sự nhiễm bệnh qua các ngã thông thường. Hạn chế cuẩ phương pháp này
là nếu một vacxin tỏ ra hiệu quả, họ không thể triển khai nghiên cứu trên quy mô
rộng để tính chính xác hiệu quả vì như thế một số lớn quần chúng sẽ bị thiệt thòi
do không được bảo vệ.
Bởi thế nên khi một vacxin được xem là có hiệu quả người ta đem tiêm

chủng cho mọi người và quan sát sự giảm số người mắc bệnh. Tuy nhiwwn ngay cả
khi một bệnh có chiều hướng giảm xuống, người ta cũng không thể đánh giá được
hiệu quả thật sự của vacxin, ví dụ tần suất bệnh lao đã giảm đi khá nhiều, nhưng
vai trò của các biện pháp bệnh sinh, cách ly nguồn lây cũng rất đáng kể.
Tính kém hiệu quả của vacxin có thể biểu hiện về mặt chất ( đáp ứng miễn
dịch không đáng kể) hoặc về mặt lượng (không có đáp ứng miễn dịch).
-

Lượng:
+ Các “ lỗ hổng” trong kho tang hệ miễn dịch: trên lý thuyết các tế

bào lympho B có thể tạo ra hơn 10^12 loại kháng thể đặc hiệu còn lympho T
có thể nhận diện trên 10^15 kháng nguyên khác nhau. Con số này tuy lớn
nhưng không phải vô hạn, hệ miễn dịch không thể chống lai mọi thứ.

7


Hóa trị liệu

+ Hiệu quả của vacxin còn tùy thuộc vào thời gian bảo vệ: trí nhớ
miễn dịch có thể tồn tại suốt đời nhưng sự sản xuất kháng thể thì không nếu
không được tái kích thích.
+

Đột biến của tác nhân gây bệnh: tiêu biểu cho các cơ chế này là

HIV, virus sốt xuất huyết, cúm với nguy cơ đại dịch cúm gia cầm như hiên
nay.
-


Chất:
+ Vai trò của các “phụ gia” : Để giảm tác dụng không mong muốn

của Vacxin người ta thường tinh lọc các chế phẩm. nhưng có những vacxin
quá tinh khiết lại tỏ ra kém hiệu quả. Để khắc phục họ thường dùng một số
phụ gia như Freund, nhôm hydroxyd, nhôm phosphate hặc trộn lẫn các
vacxin với nhau.
+ Loại phản ứng miễn dịch và hiện tượng chuyển hướng miễn dịch:
đối với các tác nhân gây bệnh ngoại bào, đáp ứng hệ miễn dịch dịch thể là
thích hợp ( loại đáp ứng ngày được sự hỗ trợ của các tế bào lympho Th1).
Ngược lại đáp ứng miễn dịch tế bào (cầm sự hỗ trợ của lympho Th2) lại hữu
hiệu cho các tác nhân gây bệnh nội bào. Do đó nếu vacxin gây được đáp ứng
miễn dịch nhưng không phải loại đáp ứng nên có thì hiệu quả cũng không
được bảo đảm. Th1 và Th2 có xu hướng khắc chế lẫn nhau. Vacxin kinh điển
có xu hướng tạo đáp ứng Th. Do đó với những tác nhân gây bệnh nội bào
như nhiễm leishmania, miễn dịch đặc hiệu sau lành bệnh lại tốt hơn Vacxin
vì vacxin lại gây hiệu quả ngược, kiềm hãm phản ứng bảo vệ.


Các tai biến đi kèm: có 2 loại là nhiễm bệnh và các bệnh miễn dịch
- Nhiễm bệnh:

8


Hóa trị liệu

+ Vacxin sống, giảm độc lực có thể gây bệnh cho người suy giảm miễn
dịch.

+ Nguy cơ hồi phục của các tác nhân vi sinh: một vacxin giảm đọc lực
tìm lại được độc tính của mình. Nguy cơ này ở vacxin ngừa bại liệt là 10^-7,
nghĩa là cứ mười triệu trẻ em uống vacxin Sabin thì có một em bị tai nạn loại
này. Tỷ lệ đó được xem là có thể chấp nhận được.
+ Nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh khác vào trong chế phẩm vacxin,
điều này có thể hạn chế bằng kiểm soát quy trình sản xuất, bảo quản và sử dụng
chặt chẽ.
-

Bệnh miễn dịch

+ Thử nghiệm vacxin phòng bênh dại trên cừu cho thấy xác suất gây
EAE, một bệnh tự miễn trên hệ thần kinh khoảng 1/3000 – 1/1000. Lý do có
thể là vacxin chiết xuất từ não chó đã mang theo những mẩu protein của tế
bào thần kinh, khi tạo miễn dịch, cơ thể đã được tiêm đã tạo ra kháng thể
chống lại cấu trúc thần kinh của mình.
+ Vacxin ngừa ho gà có thể gây sốc kèm di chứng thần kinh với xác suất
10^-4 – 10^-6. Việc tinh lọc vacxin này làm tăng mức an toàn nhưng một lần
nữa làm giảm hiệu quả.
5.

Một số vaxin trên thị trường
5.1.
Vaccine bạch hầu - ho gà - uốn ván hấp phụ ( Vaccine DPT)
Là loại vaccine tạo miễn dịch chủ động. vaccine là hỗn dịch vô khuẩn dùng

để tiêm, được điều chế bằng cách trộn các lượng thích hợp giải độc tố vi khuẩn
bạch hầu, uốn ván và vi khuẩn Bordetella pertussis tế bào hoặc không tế bào bất
hoạt và được hấp phụ trên nhôm hydroxyd ( tối đa 1,25mg/liều).
9



Hóa trị liệu

Vaccine bạch hầu – ho gà – uốn ván hấp phụ có trong danh mục thuốc thiết
yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999. Thuốc phải được kê đơn và bán theo
đơn.
5.2.

Vaccine bại liệt bất hoạt (vaccine Salk, IPV)

Vaccine thuộc loại virus bại liệt đã mất hoạt lực. Dùng để tiêm. Chủng virus
Salk hoặc Lepine (IVV). Kháng nguyên virus bại liệt được điều chế dưới dạng hỗn
dịch đậm đặc bao gồm 3 typ 1, 2 và 3 của virus bại liệt đã mất hoạt lực bằng nhiệt
và formandehyd.
Vaccine bại liệt được điều chế bằng cách nuôi cây virus in vitro trong các tế
bào thận khỉ. Tạo miễn dịch bằng cách tiêm theo chỉ định đã chứng tỏ bảo vệ
phòng chống bại liệt 100%. Có thể kéo dài bảo vệ suốt đời. Vaccine Salk có trong
danh muc thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999. Thuốc phải
được kê đơn và bán theo đơn.
5.3.

Vaccine bại liệt uống (vaccine Sabin)

Vaccine uống chứa một hỗn hợp virus sống giảm độc lực, gồm 3 chủng typ
1, 2 và 3. Các virus này được nhân lên trong môi trường nuôi cấy là các tế bào thận
khỉ hoặc tế bào VERO. Ưu điểm nổi bật nhất của vaccine phòng bại liệt uống là tạo
ra được miễn dịch tại ruột đối với virus bại liệt. Vì vậy trẻ em được miễn dịch
bằng vaccine này sẽ không còn khả năng lây truyền virus bại liệt hoang dại cho trẻ
em khác. Dùng 3 – 4 liều vaccine sẽ có hiệu quả 100% phòng bệnh bại liệt. Vaccin

Sabin là loại vaccine được tổ chức y tế thế giới khuyến cáo sử dụng. Tại các nước
có virus bại liệt hoang dại đang lưu hành mà con đường lây nhiễm chủ yếu là phân
– miệng thì việc sử dụng Sabin là phương pháp tốt nhất. Do bệnh bại liệt chỉ có ở
người và không có nguồn virus nào khác trong tự nhiên cho nên việc thanh toán

10


Hóa trị liệu

căn bệnh này là hoàn toàn có thể được. Vaccin bại liệt uống có trong danh mục
thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999.
5.4.

Vaccine lao (BCG)

Vaccin BCG (Bacillus Calmette – Guerin) là chế phẩm dạng đông khô của
chủng Calmette – Guerin giảm hoạt lực, có nguồn gốc từ vi khuẩn Mycobacterium
bovis . Hiện có rất nhiều loại vaccine BCG được lưu hành trên thế giới.
Vaccin được điều chế bằng phương pháp đông khô hỗn dịch vi khuẩn nuôi
cấy trong môi trường có chứa dextran, glucose và Triton WR 1339 hoặc có chứa
glycerin, aspagin, acid uric, kali phosphate, magie sulphat và sắt amoni citrate. Sau
khi được pha để tiêm chủng qua da như lời chỉ dẫn vaccine BCG chứa 100 – 800
triệu đơn vị tạo khuẩn lạc Bacillus BCG trong 1ml. Dịch thuốc tiêm không được có
các vi khuẩn khác. Vaccin BCG dùng để tạo miễn dịch chủ động với bệnh lao. Vì
chủng Calmette Guerin của vi khuẩn M.bovis Calmette – Guerin trong vacin BCG
có đặc tính miễn dịch sinh học tương tự như chủng gây ra bệnh lao ở người là M.
tuberculosis nên tiêm vaccine BCG kích thích nhiễm M. tuberculosis tự nhiên và
thúc đẩy miễn dich qua trung gian tế bào chống lại bênh lao.
Vaccine BCG có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ

tư năm 1999.
5.5.

Vaccine dại

Có hai dạng thuốc được dùng đó là dạng đông khô và dạng hỗn dịch tiêm.
+ Dạng đông khô là một liều tạo miễn dịch có hoạt tính bảo vệ tương đương
hoặc lớn hơn 2,5 đơn vị quốc tế, trước và sau khi ủ ở 37 độ C trong vòng 1 tháng.
Virus dại (chủng dại Wistar PM/WI 38 – 1503) thu được do nuôi cấy dòng tế bào
thường trực Vero, dùng beta propiolacton để bất hoạt. thêm vào maltose và
11


Hóa trị liệu

albumin người vùa đủ cho một liều tạo miễn dịch. Dung môi pha loãng Natri clorid
0,4%, 0,5ml.
+ Dạng hỗn dịch vaccine được điều chế từ chủng CVS kisling/MDPH virus
dại phát triển trong dòng tế bào lưỡng bội bắt nguồn từ phổi bào thai khỉ rhesus.
Vaccin virus được bất hoạt bằng beta propinolacton và cô đặc bằng hấp phụ với
nhôm phosphate.
Vaccin dại có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư
năm 1999. Thuốc phải được kê đơn và bán theo đơn.
5.6.

Vaccine giải độc tố bạch hầu

Thuốc tiêm giải độc tố bạch hầu tinh khiết. Độc tố được sản xuất từ dich lọc
của môi trường nuôi cấy vi khuẩn bạch hầu dao động từ 100 đến 280 đơn vị Lf/ml
(Lf: giới hạn của sự lên bông) tùy theo điều kiên của sự nuôi cấy.

Giải độc tố bạch hầu được điều chế từ đọc tố vi khuẩn bạch hầu thu được từ
môi trường nuôi cấy chủng vi khuẩn Corynebacterium diphtheria đã được xử lý
bằng formanfehyd. Chế phẩm được hấp phụ bằng nhôm hydroxyd dưới dạng hỗn
dịch vì thế cần lắc kỹ trước khi tiêm. Để gây miễn dịch chống lại bệnh bạch hầu thì
cần phải tiêm giải độc tố 3 lần. Thời gian bảo vệ kéo dài ít nhất 5 năm sau mũi tiêm
nhắc lại thứ nhất. Để có miễn dịch trong cộng đồng cần có ít nhất 80 – 90% trẻ em
được tiêm phòng.
5.7.

Vaccine liên hợp Heamophilus typ B

Vaccine chứa polysaccarid và oligosaccarid có tính kháng nguyên chiết xuất
từ vỏ vi khuẩn Haemophylus influenza typ b (Hib). Những chất này là dẫn chất của
polyribosyl ribitol photphats (PRP), yếu tố độc hại chủ yếu cho cơ thể. Chúng được
liên hợp với các kháng nguyên protein phụ thuộc tế bào T (là những chất mang).
12


Hóa trị liệu

Vaccin trên thị trường là polysaccarid lien hợp với giải độc tố bạch hầu (PRP – D)
hoặc phức hợp protein màng ngoài của Neisseria meningitides (PRP – OMP) hoặc
giải độc tố uốn ván. Hoặc là oligosaccarid lien hợp với protein đột biến của
Corynebacterium diphtheria CRM197 (HbOC). Những vaccine lien hợp này khác
nhau ở chất mang có bản chât protein, ở kích cỡ polysacarid và phương pháp lien
hợp. Chúng không thay thế cho nhau được. Vì vậy suốt đợt tiêm chủng cơ bản chỉ
dùng một loại chế phẩm duy nhất.
5.8.

Vaccine não mô cầu


Là dạng bột đông khô dùng để tiêm. Vaccin sau khi hoàn nguyên là một
dung dịch không màu, gần như trong suốt.
Có hai loại vaccine thương phẩm: Vaccin nhị lien bao gồm 2 kháng nguyên
polisaccarid vỏ vi khuẩn thuộc nhóm A và C và các loại vaccine tứ lien bao gồm 4
kháng nguyên thuộc các nhóm A, C, Y và W – 135.
Vaccine não mô cầu có tác dụng kích thích miễm dịch chủ động với
Neisseria meningitides, khả năng bảo vệ chỉ có đối với vi khuẩn thuộc nhóm huyết
thanh nào có trong vaccine. Vaccine não mô cầu có trong danh mục thuốc thiết yếu
Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999.
5.9.

Vaccine Rubella

Chế phẩm chứa chủng Wistar RA 27/3 của virus Rubella đã làm giảm độc
lực. Có thể điều chế vaccine từ nuôi cấy tế bào thận thỏ hoặc các dòng tế bào
lưỡng bội ở người.
Vaccine Rubella là vaccine sống, giảm độc lực, dạng đông khô. Sau khi tiêm
liều vaccine hơn 95% người tiêm chủng được bảo vệ chống lây nhiễm Rubella. Tác
dụng bảo vệ của vaccine kéo dài ít nhất 15 năm và có thể là suốt đời.
13


Hóa trị liệu

Mục đích chủ yếu tạo miễn dịch phòng rubella là để ngăn lây nhiễm thai nhi
trong tử cung, có thể dẫn đến sẩy thai, đẻ non hoặc thai chết lưu, hoặc hội chứng
rubella bẩm sinh ở trẻ sơ sinh.
5.10.


Vaccine sốt vàng

Vaccine sốt vàng là chế phẩm đông khô, giảm độc lực của chủng 17D của
virus bệnh sốt vàng sốn. vaccine được điều chế bằng cách nuôi cấy virus sốt vàng
sống, chủng 17D trong bào thai gà.
Vaccine sốt vàng có tác dụng thúc đẩy hình thành miễn dịch chủ động với
bệnh sốt vàng, dùng cho những người có nguy cơ lây nhiễm cao. Chủ yếu dùng
cho những du khách hay những người sống trong những vùng có bệnh sốt vang lưu
hành. Tổ chức y tế thế giới đòi hỏi cứ 10 năm phải tái chủng vaccine sốt vàng để
duy trì giấy chứng nhận tiêm chủng của du khách.
5.11.

Vaccine sởi

Vaccine sởi là chế phẩm đông khô của virus sởi sống giảm độc lực. Chế
phẩm có chứa dòng virus sởi Ender giảm độc lực hơn tách chủng Edmonston giảm
đọc lực bằng cách cấy truyền nhiều lần trên nuôi cấy tế bào phôi gà ở nhiệt độ
thấp.
Vaccin sởi có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư
năm 1999.
5.12.

Vaccine tam liên sởi – quai bị - Rubella

Trong vaccine sống sởi, quai bị,và rubella cho trẻ em ( 12 tháng tuổi hoặc
lớn hơn) và cho người lớn, virus sởi sống giảm họat lực được nuôi cấy trên tế bào

14



Hóa trị liệu

nguyên thủy phôi gà, virus quai bị được điều chế bằng cách nuôi cấy trong trứng
gà có phôi và virus rubella được nuôi cấy trên tế bào lưỡng bội ở người.
5.13.

Vaccine tả

Vaccine phòng bệnh tả là một hỗn dịch chứa vi khuẩn tả Vibrio cholerae bất
hoạt trong dung dich đệm natri clorid dùng để tiêm.
Vaccine chứa những phần bằng nhau của các chủng Ogawa và Inaba của vi
khuẩn tả Vibrio choleae nhóm 01 được tách chiết từ môi trường nuôi cấy có dung
dịch đệm là natri clorid và làm bất hoạt vi khuẩn bằng phenol.
Vaccine tả sản xuất tại Việt Nam là loại vaccine toàn tế bào chết/ bất hoạt có
chứa các thành phần của các chủng vi khuẩn tả cổ điển là Ogawa và Inaba của
Vibrio choleae nhóm 01, nhóm O139 và chủng vi khuẩn tả Eltor.
Vaccin tả có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư
năm 1999.
5.14.

Vaccine thương hàn: có 3 loại vaccine phòng bệnh thương hàn khác
nhau hiện dùng:

+ Vaccin thương hàn có vỏ polysacarid Vi: Dùng vaccine ViCPS có tác dụng
kích thích miễn dịch với S.typhi do hình thành các kháng thể kháng kháng nguyên
Vi. Kháng nguyên Vi được coi như là một tác nhân độc lực của S.typhi và các
kháng thể của kháng nguyên Vi có tác dụng bảo vệ cơ thể chống lại bênh thương
hàn. Hiệu quả tổng thể đạt 55%.
+ Vaccin thương hàn bất hoạt nhiệt/ phenol: Gây miễn dich cơ bản bằng loại
vaccine bất hoạt có tác dụng kích thích sản sinh các kháng thể trong huyết thanh

kháng một số nhóm kháng nguyên S.typhi và có lẽ các kháng thể trong tuần hoàn
15


Hóa trị liệu

có tác dụng phòng bệnh chủ yếu. Bằng loại vaccine này cơ thể sẽ tạo các kháng thể
kháng lại kháng nguyên H và có thể kháng cả kháng nguyên Vi để phòng chống
bệnh thương hàn trong khi các kháng thể kháng nguyên O thì không. Có thể là các
loại kháng thể trong tuần hoàn có tác dụng hỗ trợ bảo vệ cơ thể trong quá trình
nhiễm khuẩn ban đầu trước khi miễn dịch trung gian tế bào phát triển và cơ chế đại
thực bào phát động bằng hình thức làm giảm đi số lượng các vi khuẩn có khả năng
nhân lên trong tế bào. Khả năng miễn dịch có thê kéo dài ít nhất 2 năm sau lần tiêm
chủng cơ bản.
+ Vaccin thương hàn sống dùng uống; Cơ chế chính xác của vaccine sống
giẩm độc lực dùng đường uống trong việc tạo miễn dịch còn chưa rõ tuy nhiên
vaccine sống đường uống kích thích hình thành kháng thể cả trong huyết thanh, cả
trong ruột và đáp ứng qua trung gian tế bào. Sau khi gây miễn dịch cơ bản bừng
vaccine sống đường uốn, hàm lượng kháng thể trong huyết thanh kháng nguyên O
của Salmenella typhi có tương quan tới suej bảo vệ chống lại bênh thương hàn.
Trong một loạt các thử nghiệm thực địa tiến hành tại Chile hiệu quả là 68% đối với
lịch tiêm chủng ngắn sau 48 tháng.
Vaccin thương hàn có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành
lần thứ tư năm 1999.
5.15.

Vaccine uốn ván – giải độc tố uốn ván hấp phụ

Giải độc tố uốn ván có loại không hấp phụ tuy nhiên loại hấp phụ thông
dụng hơn.

Giải độc tố uốn ván được được điều chế bẳng cách dùng formandehyd xử lý
độc tố của vi khuẩn Clostridium tetani. Vaccin uốn ván kích thích sản sinh kháng
độc tố có tính chất bảo vệ. Khả năng miễn dịch thứ phát nhanh tiếp tục sản xuất
kháng độc tố ít nhất trong vòng 10 năm sau khi hoàn thành các lần tiêm chủng cơ
16


Hóa trị liệu

bản. khi một cá nhân đã từng dduwowwcj tiêm phòng vaccine uốn ván theo đúng
lịch mà bị thương thì cần tiến hành tiêm nhắc lại nếu như lần tiên gần nhất đã cách
đó 5 năm.
5.16.

Vaccine viêm gan B

Có 2 loại vaccine thương phẩm phòng bệnh viêm gan B: Vaccin viêm gan B
chiết xuất từ huyết tương và vaccine viêm gan B tái tổ hợp từ gen và nấm men. Cả
hai loại vaccine này đều là hỗn dịch kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B
(HBsAg) hấp phụ vào gel hydroxyd nhôm. Hàm lượng HBsAg tùy theo nhà sản
xuất.
Nhìn chung cả hai loại vaccine đều được xem là tương đương nhau về khả
năng hình thành miễn dịch, mức độ bảo vệ và an toàn. Tuy nhiên ở các nước công
nghiệp phát triển vaccine tái tổ hợp được dùng nhiều hơn.
Vaccin viêm gan B tạo miễn dịch chủ động chống lây nhiễm virus viêm gan
B nhưng không chống laay nhiêm do virus viêm gan A gây ra và các virus không A
không B gây ra. Vì viêm gan D (do tác nhân delta gây ra) không xảy ra khi không
có nhiễm viêm gan B nên có thể kỳ vọng là viêm gan D cũng được phòng khi dùng
vaccine viêm gan B.
Vaccine viêm gan B có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành

lần thứ tư năm 1999.
5.17.

Vaccine viêm não Nhật Bản (VNNB)

Vaccine viêm não Nhật Bản thương phẩm hiện dùng là loại vaccine bất họa
do Viện nghiên cứu các bệnh do vi sinh vật gây ra thuộc trường Đại học Osaka
(Biken), điều chế từ não chuột đã cấy chủng virus Nakayama – NIH. Chủng này đã
được phân lập đầu tiên tuef một người bệnh nhiêm virus năm 1935. Vaccin được
17


Hóa trị liệu

bán ở Nhật năm 1954 và là loại vaccine viêm não Nhật bản được dùng rộng rãi
nhất.
Vaccin VNNB bất hoạt có tác dụng kích thích cơ thể tạo miễn dịch đối với loại
virus gây bệnh bằng cách tạo kháng thể trung hòa đặc hiệu. Vaacin viêm não Nhật
bản có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999.
5.18.

Vaccine HPV ngừa ung thư cổ tử cung

Là loại vaccine đầu tiên có tác dụng phòng ngừa ung thư cổ tử cung được tổ
chức FDA (Food and Drud Administration) Hoa Kỳ công nhận vào ngày 8 tháng 6
năm 2006 đã tạo ra một kỷ nguyên mới trong phòng chống ung thư phụ khoa ở phụ
nữ.
Có 2 loại:
+ Vaccine tứ giá: tác dụng ngừa ung thư cổ tử cung, bệnh mun cóc ở đường
sinh dục và những tổn thương tiền ung thư (CIN 1, 2 thậm chí 3 hoặc ung thư tại

chỗ), tân sản bểu mô âm hộ (VIN 2 hoặc 3) do bốn loại 6, 11, 16 và 18.
+ Vaccine song giá thì ngừa được hai loại 16 và 18.

18


Hóa trị liệu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Dược thư quốc gia Việt Nam. Xuất bản lần thứ nhất năm 2002.
Phạm Văn Ty. Virus học. NXB Giáo Dục. 2005
PGS. TS Nguyễn Đình Bảng, TS Nguyễn Thị Kim Hương. Vaccin và chế

4.

phẩm miễn dịch trong phòng và điều trị. NXB H học. 2003
V.M.ZDanop, S.I.Gaidamovich. Đoàn Xuân Mượu (dịch). Virus học. tập

5.

1, NXB Y học 1972.
Hoàng Thủy Long (chủ biên). Kỹ thuật xét nghiệm vi sinh vật y học.

6.

NXB Văn hóa 1991.

BS Nguyễn Đức Khởi, BS Ninh Đức Dự, BS Phạm Sinh, BS Hạ Bá
Khiêm, BS Nguyễn Hữu Hồng, BS Đặng Đức Trạch, BS Hoàng Thủy

7.

Nguyên. Vi sinh vật y học. NXB y học và thể dục thể thao 1966.
HPV vaccines and Screening in the Prevention of Cervical Cancer. Vol

8.

24, Sup 3, Aug 2006. ELSERVIER.
“MMR: Science and Fiction. Exploring the Vaccin Crisis; MMR and
Autism: What Parents Need to Know” (“Rapid Responses” to book
review), Bristish Medical Journal.

19



×