Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN VĂN HỢP tác văn hóa xã hội GIỮA VIỆT NAM và ASEAN từ năm 1995 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 102 trang )

i

        ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

LÊ NGỌC DIỆU

HỢP TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI GIỮA VIỆT NAM
VÀ ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: SƯ PHẠM LỊCH SỬ
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:ĐẠIHỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS LÊ TÙNG LÂM

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 6, NĂM 2017


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là
trung thực, được các đồng tác giả cho phép
sử dụng và chưa từng được công bố trong
bất kì một công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Ngọc Diệu




iii

MỤC LỤC

MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ.......................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................ii
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT................................................................................vi
MỞ ĐẨU..................................................................................................................... 8
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề...........................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vấn đề............................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................11
6. Đóng góp của đề tài............................................................................................12
7. Cấu trúc của đề tài...............................................................................................12
Chương 1 QÚA TRÌNH VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN....................................13
1.1. Sự thành lập ASEAN.......................................................................................13
1.2. Những nhân tố tác động đến Việt Nam và ASEAN đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX..................................................................................................................... 19
1.3. Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN.....................................................23
Chương 2 THÀNH TỰU HỢP TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI GIỮA VIỆT NAM VÀ ASEAN
(1995 - 2015)................................................................................................................. 30

2.1. Thành tựu về văn hóa.......................................................................................30
2.1.1. Cơ sở về hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và ASEAN................................30

2.1.2. Những kết quả hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN................................................................38

2.2. Thành tựu về xã hội.........................................................................................53
2.2.1. Cơ sở về hợp tác xã hội giữa Việt Nam và ASEAN...................................53
2.2.2. Những kết quả hợp tác xã hội giữa Việt Nam và ASEAN.........................54
Chương 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ......................................................72


iv

3.1. Những thuận lợi ..............................................................................................72
3.2. Những khó khăn và thách thức.........................................................................75
3.3. Triển vọng cho hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN..........................................80
KẾT LUẬN............................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................85


v

LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học cho đến nay.
Em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Khoa Khoa Sư phạm Khoa học - xã hội lời cảm ơn chân
thành vì đã gửi tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Lê Tùng Lâm, Giảng viên hướng dẫn học tập và
cũng là giảng viên hướng dẫn trực tiếp em làm khóa luận. Nếu không có những lời
hướng dẫn, dạy bảo của Thầy thì em nghĩ bài khóa luận này của em rất khó có thể hoàn
thiện được. Xin được cảm ơn đến Cha Mẹ, bạn bè, những người luôn sát cánh, ủng hộ và
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Bài khóa luận được hoàn thành trong thời gian

ngắn và kiến thức của em còn hạn chế, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý
báu của quý Thầy Cô và các bạn để được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, Em xin chúc quý thầy cô trong Khoa Sư phạm KH-XH và thầy Lê Tùng
Lâm ngày càng gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong sự nghiệp trồng người.
Em xin chân thành cảm ơn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2017
Sinh viên

Lê Ngọc Diệu


vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AEC

ASEAN Economic Community

Cộng đồng Kinh tế ASEAN

AEM

ASEAN Economic Meeting

AFTA

ASEAN Free Trade Area

AIT


Asian Institute of Technology

Hội nghị Bộ trưởng kinh tế
ASEAN
Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN
Viện Công nghệ châu Á

AMM

ASEAN Ministerial Meeting

ANZUS
ASA

Autralia, New Zealand, United
States Security Treaty
Association of Southeast Asia

Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN
Khối hiệp ước An ninh quân sự
Úc -New Zeland - Mỹ
Hiệp hội Đông Nam Á

ASC

ASEAN Standing Committee

Ủy ban Thường trực ASEAN


ASCC

ASEAN Socio - Cultural
Community
Association of South East Asian
Nations

Cộng đồng Văn hóa - Xã hội
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á

EEC

European Economic Community

Cộng đồng Kinh tế châu Âu

EU

European Community

Cộng đồng châu Âu

FTA

Free trade area

Hiệp định thương mại tự do


ASEAN


vii

GDP

Gross Domestic Product

SEAMEO Southeast Asian Ministers of
Education Organization

Tổng sản phẩm quốc nội
Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục
các nước Đông Nam Á


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày 8-8-1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập
gồm 5 nước thành viên là: Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia. Đến
nay, ASEAN đã mở rộng bao gồm 10/11 quốc gia ở Đông Nam Á. Trải qua 50 năm tồn
tại và phát triển, ASEAN đã đạt được những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế
đánh giá là một trong những tổ chức quốc tế khu vực thành công nhất. Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của ASEAN vào ngày 28-7-1995.
Sau hơn 2 thập kỉ sống dưới mái nhà chung ASEAN, Việt Nam đã có nhiều đóng
góp quan trọng cho tổ chức này. Năm 1998, Việt Nam đã đăng cai tổ chức thành công
Hội nghị cấp cao ASEAN 6 tại Hà Nội. Sau thành công của Hội nghị cấp cao ASEAN
6, Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò trong ASEAN trên sở kinh nghiệm tích lũy được

trong vai trò chủ trì điều phối hoạt động của ASEAN. Việc tham gia ASEAN không chỉ
tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,
tăng cường liên kết an ninh, tạo môi trường thuận lợi để thông thương hàng hóa mà
cònthúc đẩy sự phát triển văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN.
Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam luôn quan tâm đến mối quan hệ đoàn kếtvới
các nước thành viên ASEAN để cùng nhau xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, ổn
định, hợp tác phát triển.Đó cũng là mong muốn chung của các nước trong khu vực sau
nhiều bất ổn, nghi kỵ và chia rẽ thể hiện tinh thần trách nhiệm cao và ý thức đoàn kết
cộng đồng, cũng cố sự tin cậy, và đó là nền tảng cho ổn định khu vực. Giữa các nước
ASEAN, vấn đề hợp tác văn hóa - xã hội cũng được coi là rất quan trọng vì những lí
do như sự cần thiết tăng cường sự kế thừa những nét đẹp và đặc trưng của văn hóa dân
tộc ASEAN cùng với nền văn hóa ngoài khu vực, bảo vệ vốn văn hóa dân tộc phong
phú khỏi những tác động tiêu cực của hiện đại hóa. Hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt
Nam và ASEAN chịu tác động trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình khu
vực và thế giới, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ
và toàn cầu hóa, sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với khu vực. Việt Nam
8


gia nhập ASEAN đã đem đến cho tổ chức này một sức mạnh mới, một vị thế mới trên
trường quốc tế, đồng thời cũng mang lại cho Việt Nam những cơ hội và môi trường
quốc tế rất quan trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Việc nghiên cứu hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN có ý nghĩa quan
trọng hơn khi Cộng đồng ASEAN (AC) thành lập vào năm 2015. AC được xây dựng
dựa trên 3 trụ cột có quan hệ gắn bó và ảnh hưởng lẫn nhau một cách chặt chẽ, là Cộng
đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN ( AEC) và
Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC).Vì vậy, nghiên cứu hợp tác văn hóa - xã
hội cũng là nghiên cứu một trong ba trụ cột chính của Cộng đồng AC.Nghiên cứu hợp
tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN là vấn đề hết sức quan trọng và cần
thiết cả về phương diện khoa học và thực tiễn. Đề tài góp phần làm rõ những thành

tựu, thách thức và triển vọng cho quan hệ hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và
ASEAN. Đồng thời, đề tài cũng là một nguồn tư liệu hỗ trợ học tập, công tác giảng dạy
ở phổ thông sau này. Đó là lí do tôi chọn đề tài Hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt
Nam và ASEAN từ 1995 đến 2015để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN từ 1995 đến 2015đã thu hút sự
quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, học giả như:
Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp (2012), Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm
1995 đến nay. Thành tựu, vấn đề và triển vọng, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà
Nội; Nguyễn Trần Quế (2003), 35 năm ASEAN hợp tác và phát triển, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (1997), Lược sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục. Các công
trình trên đã có đề cập đến quá trình hợp tác Việt Nam - ASEAN trong các lĩnh vực chính
trị - an ninh, văn hóa - xã hội theo từng thời kìnhưng vẫn chưa đề cập đến những thành
tựu đạt được trong quan hệ an ninh, văn hóa - xã hội. Công trình chủ yếu khái quát
chung, chưa đi sâu đề cập đến vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến 2015
mà chỉ tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, cơ cấu tổ chức của ASEAN.

9


Bên cạnh đó cũng có những công trình mang tính cụ thể hơn như: Đào Huy Ngọc
(1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả
đã nêu lên những thành tựu vềvăn hóa - xã hội đã và đang đạt được trong quan hệ Việt
Nam-ASEAN.Công trình nghiên cứu đã trình bày một cách cụ thể quá trình Việt Nam gia
nhập ASEAN, những thành tựu, khó khăn trong quan hệ Việt Nam-ASEAN và đánh giá
triển vọng quan hệ Việt Nam-ASEAN đến năm 2020; Vũ Dương Ninh (2004), Việt Nam ASEAN: Quan hệ song phương và đa phương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, cũng đã
đề cập đến quan hệ Việt Nam - ASEAN trên các lĩnh vực chính trị - an ninh và cả trong
lĩnh vực văn hóa - xã hội. Đặc biệt là quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước thành
viên ASEAN.
Bên cạnh đó, một số tác phẩm, công trình khoa học tuy không nghiên cứu nhiều về

hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam với ASEAN nhưng cũng có một số nội dung liên
quan đến mối quan hệ Việt Nam - ASEAN như:
Đặng Đình Quý (2015),Tìm kiếm giải pháp vì hòa bình và công lý ở Biển Đông,
NXB Thế giới, Hà Nội. Công trình nghiên cứu với 16 bài viết được chọn lọc về các vấn
đề chính yếu liên quan đến tranh chấp Biển Đông, những khía cạnh pháp lý quan trọng và
nêu lên các biện pháp quản lý tranh chấp cùng những đề xuất để tăng cường hợp tác giữa
các bên nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định trên biển Đông.
Trần Nam Tiến (2014), Hợp tác ở biển Đông từ góc nhìn quan hệ quốc tế, NXB
Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh,đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về những hoạt
động hợp tác để thúc đẩy an ninh và hòa bình trong khu vực, trên cơ sở tập hợp các bài
viết tiêu biểu xoay quanh vấn đề hợp tác tại biển Đông.
Những công trình nghiên cứu trên cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản, quan
trọng về mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN. Trên cơ sở đó, chúng tôi phân
tích, tổng hợp để làm rõ hơn về những thành tựu và thách thức, triển vọng cho mối quan
hệ Việt Nam - ASEAN trên lĩnh vực văn hóa - xã hội.

10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:đề tài tập trung làm rõ quan hệ hợp tác văn hóa - xã hội giữa
Việt Nam và ASEAN từ năm 1995 đến năm 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu: đề tài tập trung giải quyết các vấn đề như:
Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN.
Những thành tựu tiêu biểu trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên
các lĩnh vực như giao lưu văn hóa, giáo dục đào tạo….
Những thuận lợi, thách thức và triển vọng trong quan hệ hợp tác văn hóa - xã hội
giữa Việt Nam và ASEAN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:

Quan hệ giữaViệt Nam với ASEAN trên trên lĩnh vựcvăn hóa-xã hội từ năm 1995
đến 2015.
Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu: từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN (năm 1995) đến năm
2015. Ngoài ra để đảm bảo tính hệ thống, khóa luận còn tập trung nghiên cứu quan hệ
Việt Nam - ASEAN từ khi ASEAN thành lập năm 1967 cho đến khi Việt Nam gia nhập
tổ chức này.
Không gian nghiên cứu: Việt Nam và ASEAN.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Dựa trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa MácLêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa văn hóa - xã hội với kinh tế, chính
trị trong sự phát triển của quốc gia.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong đề tài là phương pháp lịch sử
và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử là trình bày các sự kiện theo một trình tự thời gian, diễn tiến
sự kiện tiêu biểu để làm rõquá trình thành lập ASEAN (1967), quá trình Việt Nam gia

11


nhập ASEAN(1995), thành tựu trong hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và
ASEAN.
Phương pháp logic dựa trên các sự kiện, hiện tượng lịch sử cơ bản khi Việt Nam
gia nhập ASEAN để rút ra những thuận lợi, khó khăn và đánh giá triển vọng cho mối
quan hệ Việt Nam - ASEAN. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp tổng hợp tư
liệu, so sánh, đối chiếu nhằm đưa ra cách nhìn tổng quát vấn đề.

6. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học
Trình bày hệ thống, khá đầy đủ về những thành tựu trong quan hệ hợp tác văn hóa xã hội giữa Việt Nam và ASEAN. Qua đó, rút ra những thách thức trong lĩnh vực văn
hóa - xã hội cho mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN.

Về mặt thực tiễn
Năm 2015, AC được thành lập, nhu cầu tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
thành viên ASEAN càng trở nên cấp thiết hơn. Vì thế, đề tài giúp đọc giả có cách nhìn
toàn diện về quan hệ văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN. Đây là việc làm mang
tính thiết thực để Việt Nam hiểu hơn về ASEAN.
Đồng thời, đề tài cũng là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên trong nghiên
cứu, học tập về hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên lĩnh vực văn hóa - xã hội từ 1995
đến 2015.
7. Cấu trúc của đề tài
Chương 1. Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN
Tập trung nghiên cứu quá trình ASEAN thành lập, cơ cấu tổ chức cũng như hoạt
động của ASEAN. Những nhân tố tác động đến Việt Nam và ASEAN trong những năm
đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Quá trình Việt Nam từng bước gia nhập vào ASEAN và
trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Chương 2. Thành tựu hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN (19952015)

12


Tìm hiểu cơ sở hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN, chú trọng nghiên
cứu, đánh giá những thành tựu tiêu biểu trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN
trên các lĩnh vực văn hóa - xã hộivà có tác động như thế nào đến 2 bên. Cụ thể như:Về du
lịch và quảng bá văn hóa, nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, hợp tác lao động, môi trường,
phòng chống ma túy và tội phạm xuyên quốc gia.
Chương 3. Một số nhận xét, đánh giá về hợp tác văn hóa -xã hội giữa Việt Nam
và ASEAN
Nhận xét về những điều kiện thuận lợi góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác giữa Việt
Nam và ASEAN đạt hiểu quả cao, bên cạnh đó nêu ra nhữngkhó khăn thách thức mà Việt
Nam và cả ASEAN đang gặp phải, từ đó đưa ra hướng giải quyết khắc phục để hoàn thiện.
Đánh giá triển vọng trong quan hệ hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và ASEAN sau

năm 2015.

CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN

1.1 Sự thành lập ASEAN
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Đông Nam Á nhiều quốc gia ra đời với các hình
thức khác nhau. Năm 1945, Indonesia, Việt Nam, Lào tuyên bố độc lập. Năm 1946, Mỹ
trao trả độc lập cho Philippines. Năm 1947, Anh trao trả độc lập cho Miến Điện
(Myanmar). Năm 1965, Singapore tách khỏi Liên bang Malaysia, tuyên bố thành nước
Cộng hòa độc lập. Năm 1984, Anh trao trả độc lập cho Brunei. Sau khi giành được độc
lập, nhiều nước Đông Nam Á có dự định thành lập một tổ chức khu vực nhằm tạo nên sự
hợp tác phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hóa; đồng thời hạn
chế ảnh hưởng của các nước lớn đang tìm cách biến Đông Nam Á thành “sân sau” của họ.
Năm 1954, Mỹ thành lập Khối quân sự Đông Nam Á (SEATO), lôi kéo Philippines
và Thái Lan vào chiến tranh Việt Nam. Khi Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh Đông
Dương, tổ chức này buộc phải giải tán. Một số nước khác như Malaysia, Singapore đã
tham giaKhối hiệp ước An ninh quân sự Úc - New Zealand - Mỹ(ANZUS -thành
lậpnăm1952) dưới sự bảo hộ của Mỹ hoặc Anh. Mặt khác, trong quá trình tìm kiếm sự hợp
13


tác giữa các nước Đông Nam Á, đã xuất hiện nhiều tổ chức khu vực và kí kết hiệp ước
giữa các khu vực nhưHiệp ước Hữu nghị và kinh tế Đông Nam Á (SEAFET) gồm
Malaysia, Philippines (tháng 1-1959).
Ngày 31-7-1961, Hiệp hội Đông Nam Á (The Association of Southeast Asia- ASA)
gồm Thái Lan, Philippines, Malaysia được thành lập1. Thể chế của ASA được xát định tại
hội nghị ở Băng Cốc tháng 6-1961. Tuyên bố Băng Cốc (được thông qua tại hội nghị) nêu
những mục tiêu của tổ chức là: phát triển hợp tác kinh tế, văn hóa và khoa học giữa các
nước hội viên. Nhưng những mâu thuẫn trong tổ chức đã xuất hiện ngay sau đó. Năm
1962, giữa Malaysia và Philippines đã bùng nổ tranh chấp về chủ quyền đối với Xaba (ở

Bắc Borneo) và Liên bang Malaysia thành lập tháng 9-1963 đã bị Philippines và Indonesia
từ chối công nhận. Quan hệ giữa hai nước Philippines và Malaysia căng thẳngtới mức cắt
đứt quan hệ ngoại giao với nhau.ASA lâm vào tình trạng khủng hoảng và tê liệt. Đối với
khu vực, tổ chức ASA cũng ít có tác dụng vì số lượng hội viên hạn chế. Do vậy, sau hai
năm tồn tại, tổ chức đã phải tuyên bố giải tán.Cùng thời gian đó, kế hoạch thành lập nhóm
nước gồm Malaysia, Philippines, Indonesia, gọi tắt là MAPHILINDO cũng đã không
thành công do những bất đồng giữa các nước về vấn đề lãnh thổ và chủ quyền.
ASA, MAPHILINDO không thành công, nhưng nhu cầu về một tổ chức hợp tác khu
vực rộng lớn hơn đã trở nên cần thiết ở Đông Nam Á. Sau cuộc đảo chính không thành ở
Indonesia vào tháng 9-1965, chính quyền quân sự của tướng Suharto lên nắm quyền đã có
những thay đổi về chính sách đối ngoại, chú trọng nhiều hơn đến quan hệ với các nước
láng giềng Đông Nam Á.Sự kiện này đã thổi luồng sinh khí mới vào xu hướng liên kết
khu vực ở đây2. Giữa các nước hội viên có điểm chung là họ đều chống lại tất cả các hình
thức của chủ nghĩa đế quốc và nhấn mạnh đến chính sách đối ngoại độc lập. Sự chống đối
mạnh mẽ các cường quốc lớn tăng cường ảnh hưởng trong khu vực xuất phát từ thực tế
lịch sử là hầu hết các nước Đông Nam Á (trừ Thái Lan) đều từng là thuộc địa của các
cường quốc lớn và chỉ mới giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau đó là

1
2

Phùng Đăng Bách (2007), Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, NXB Thông Tấn, Hà Nội,tr.20
Đào Huy Ngọc (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.8

14


thời kì các nước này xây dựng quốc gia - dân tộc, cũng cố nền độc lập, đồng thời tập trung
phát triển kinh tế.
Trước sự leo thang của Mỹ trong chiến tranh ở Đông Dương vào những năm 1960,

các nước Đông Nam Á lo ngại rằng điều này có thể dẫn đến sự thống trị hoặc đụng đầu
giữa một số nước lớn ở khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, các nước Đông Nam Á tin rằng
cách tốt nhất để tránh sự thống trị của các cường quốc bên ngoài là đoàn kết các nước gần
gũi về địa lý vào trong một tổ chức khu vực, nhấn mạnh đến hợp tác, tăng cường phát
triển kinh tế, theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập 3. Đồng thời, cũng cần thấy các trào
lưu hình thành chủ nghĩa khu vực thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai như sự ra đời
của Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC); Khu vực thương mại tự do Mỹ Latinh (LAFTA);
Thị trường chung Trung Mỹ (CACM)… đã tác động đến việc hình thành ASEAN. Từ kinh
nghiệm của EEC, các nước Đông Nam Á đều thấy rằng việc hình thành các tổ chức khu
vực sẽ giúp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường hợp tác kinh tế, buôn
bán và phân công lao động. Về mặt chính trị, các tổ chức khu vực giúp cũng cố tình đoàn
kết khu vực, giúp các nước vừa và nhỏ có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề quốc
tế. Còn về mặt xã hội, chủ nghĩa khu vực có thể đưa ra các phương hướng hợp tác để giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội đặt ra cho các nước thành viên 4.
Cuối năm 1966, Thanat Khoman, Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan bắt đầu chuyển
đến các Bộ trưởng Ngoại giao một số nước Đông Nam Á đề án lập “một tổ chức Đông
Nam Á về hợp tác khu vực”. Sau nhiều cuộc thảo luận, ngày 8-8-1967, Bộ trưởng Ngoại
giao các nước Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore và Phó thủ tướng Malaysia kí
tại Băng Cốc (Thái Lan) bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(Association of South East Asian Nations - ASEAN). Từ 5 nước thành viên ban đầu:Thái
Lan, Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia,đến nay ASEAN gồm 10/11 quốc gia
thành viên với diện tích 4,5 triệu km2, dân số gần 521 triệu người và tổng sản phẩm đạt
757 tỉ USD (2006).

3
4

Phùng Đăng Bách (2007), Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, NXB Thông Tấn, Hà Nội,tr.21
Đào Huy Ngọc (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.12


15


Cơ cấu tổ chức của ASEAN cho thấy ASEAN không phải là một tổ chức siêu quốc
gia, chỉ đạo các hội viên, mà là cơ quan phối hợp các hoạt động của các nước hội viên,
dung hòa quyền lợi dân tộc giữa họ với nhau và giữa từng nước hội viên. Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao họp hằng năm theo định kỳ và khi cần thiết có thể triệu tập hội nghị để
giải quyết các vấn đề cấp bách. Mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và các nước hội viên
được quyết định theo nguyên tắc nhất trí. Một Ủy ban thường trực chủ trì công việc của tổ
chức trong thời gian giữa hai cuộc họp Bộ trưởng Ngoại giao được thành lập, gồm chủ
tịch là Bộ trưởng Ngoại giao của nước đăng cai cuộc họp.
Ngoài ra, ASEAN còn có các tiểu bang đặc biệt và ủy ban thường trực gồm các
chuyên viên, quan chức về từng vấn đề. Mỗi nước hội viên đều lập một Ban Thư ký quốc
gia để thay mặt nước đó tiến hành công việc trong ASEAN. So với ASA và
MAPHILINDO thì ASEAN là một bước tiến mới trong các cố gắng của các nước Đông
Nam Á tiến tới thành lập một tổ chức hợp tác khu vực. Mục tiêu hợp tác, nguyên tắc hoạt
động và cơ cấu tổ chức cũng rõ ràng. Cùng với thời gian, những biến đổi của tình hình thế
giới, khu vực và của chính ASEAN, cơ cấu tổ chức cũng ngày càng được cải tiến và hoàn
thiện hơn để đáp ứng với tình hình và sự phát triển của ASEAN.
Đến nay, ngoài những nguyên tắc cơ bản xử lý quan hệ giữa các nước thành viên
được ghi nhận trong Hiệp ước Bali như: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ;
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình; không dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực 5. ASEAN còn có một
số nguyên tắc khác để điều phối hoạt động của Hiệp hội như: Việc quyết định các chính
sách hợp tác quan trọng cũng như trong các lĩnh vực quan trọng của ASEAN dựa trên
nguyên tắc nhất trí, tức là một quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các
nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu
dài, nhưng đảm bảo được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên.
Đây là một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của ASEAN.
Một nguyên tắc hoạt động khác chi phối hoạt động của ASEAN là nguyên tắc bình

đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, các nước ASEAN, không kể lớn
5

Đào Huy Ngọc (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.22

16


hay nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia
sẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên,
tức là các chức chủ tọa cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như
địa điểm các cuộc họp sẽ được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân phiên
theo vần A,B,C của tiếng Anh.
Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, trong Hiệp
định khung về tăng cường hợp tác kinh tế kí tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV ở
Singapore tháng 2-1992, các nước ASEAN đã thỏa thuận nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay
một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu các
nước còn lại chưa sẵn sàng tham gia.
Ngoài ra, còn có các nguyên tắc khác như: Trong quan hệ giữa các nước ASEAN
đang dần dần hình thành một số nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức, song
mọi người đều hiểu và áp dụng như nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện,
không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc
chung của Hiệp hội6.
Bộ máy tổ chức của ASEAN cũng được bổ sung và hoàn thiện dần, hình thành
những hệ thống cơ quan sau:
Các cơ quan hoạch định chính sách:
- Hội nghị cấp cao ASEAN họp chính thức ba năm một lần từ năm 1992. Nhưng từ
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5 tại Băng Cốc (tháng 12-1995) các nước thành viên
ASEAN đã quyết định có các hội nghị không chính thức xen kẽ các hội nghị chính thức.
- Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM): Theo tuyên bố Băng Cốc Năm

1967, AMM là hội nghị hằng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm
đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN, có thể họp không chính thức khi cần thiết.
- Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM): Họp chính thức hằng năm và có thể
không họp chính thức khi cần thiết. Trong AEM có Hội đồng AFTA (Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN) được thành lập theo quyết định của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tư năm
1992 tại Singapore để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện Chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA.
6

Phùng Đăng Bách (2007), Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, NXB Thông Tấn, Hà Nội,tr.30

17


- Hội nghị Bộ trưởng các ngành:Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác
kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể
đó. Hiện có Hội nghị Bộ trưởng Năng lượng, Hội nghị Bộ trưởng Nông nghiệp, Lâm
nghiệp. Các Hội nghị Bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM.
- Các Hội nghị Bộ trưởng khác: Hội nghị Bộ trưởng của các lĩnh vực hợp tác
ASEAN khác như y tế, môi trường, lao động, phúc lợi xã hội, giáo dục, khoa học và công
nghệ -thông tin, luật pháp có thể được tiến hành khi cần thiết để điều hành các chương
trình hợp tác trong các lĩnh vực này.
- Hội nghị liên Bộ trưởng (JMM): Được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác
giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng
Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN.
Các cơ quan hỗ trợ cho các cơ quan hoạch định chính sách:
- Ban Thư ký ASEAN, đứng đầu là Tổng thư ký: Được những người đứng đầu Chính
phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có
thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa; có hàm Bộ trưởng với quyền hạn
khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN, nhằm giúp nâng cao

hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng Thư ký ASEAN được tham dự các
cuộc họp các cấp của ASEAN, chủ tọa các cuộc họp của ASC thay cho chủ tịch ASC trừ
phiên họp đầu tiên và cuối cùng.
- Ủy ban Thường trực ASEAN (ASC): ASC bao gồm Chủ tịch là Bộ trưởng Ngoại
giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng Thư ký ASEAN và Tổng Giám đốc
của các Ban Thư ký ASEAN quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian
giữa hai kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
- Cuộc họp của các quan chức cấp cao (SOM): SOM được chính thức coi là một bộ
phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ ba tại Manila Philippines năm 1987. SOM chịu trách nhiệm về họp tác chính trị ASEAN và họp khi cần
thiết báo cáo trực tiếp cho AMM.
- Cuộc họp của các quan chức kinh tế cấp cao (SEOM): SEOM cũng đã được thể chế
hóa chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao tại Manila
năm 1987. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 Ủy ban kinh tế ASEAN đã bị giải

18


tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong họp tác kinh tế
ASEAN. SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
- Cuộc họp của các quan chức cao cấp khác: Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức
cao cấp về môi trường, ma túy, cũng như của các Ủy ban chuyên ngành ASEAN như phát
triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hóa thông tin. Các cuộc
họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, ASEAN thường xuyên thực hiện cải tổ cơ cấu tổ
chức sao cho phù hợp với tiến trình phát triển, phạm vi hợp tác trên các lĩnh vực khác
nhau. Qua các giai đoạn phát triển, cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay được tổ chức theo
quy định của Hiến chương ASEAN, có một số ưu điểm và nhược điểm. Về ưu điểm, Hiến
chương ASEAN ngày càng đảm bảo cho bộ máy của ASEAN, thực hiện có hiệu quả các
mục đích đề ra trong Hiến chương. Bên cạnh đó, vai trò của các cơ quan hiện hành ngày
càng được tăng cường hơn. Hệ thống các cơ quan của ASEAN theo Hiến chương bám sát

các mục tiêu của tổ chức. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của ASEAN theo Hiến chương vẫn có
một số nhược điểm như: chưa có nhiều cơ quan hoạt động thường kỳ (duy nhất chỉ có hai
cơ quan Ủy Ban đại diện thường trực và Ban Thư ký, so với các cơ quan còn lại chỉ tiến
hành họp theo thường kỳ hoặc khi cần thiết nhất). Điều đó tạo nên sự liên kết không chặt
chẽ giữa các nước thành viên, đồng thời sẽ làm hạn chế khả năng chỉ đạo, điều hành của
các cơ quan này trước những biến động, khó khăn bất thường.
1.2 Những nhân tố tác động đến Việt Nam và ASEAN đầu thập niên 90 của thế kỉ
XX
Tình hình thế giới
Những năm đầu thập niên 90, Liên Xô tan rã làm mất đi thế hai cực trong quan hệ
quốc tế và có tác động lớn đến khu vực Đông Nam Á nói chung và ASEAN nói riêng, tình
hình này đặt ra trước ASEAN sẽ có nhiều cơ hội và thách thức mới. Từ năm 1990,
ASEAN và các nước trong khu vực Đông Nam Á đã thực sự ổn định, nổi bật nhất là việc
giải quyết vấn đề Campuchia. Trong thời kỳ bị chủ nghĩa tư bản thực dân xâm lược, đô hộ,
trong đấu tranh giành độc lập, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN được cũng cố.
Việt Nam và ASEAN khắc phục dần sự khác biệt để xích lại gần nhau trên cơ sở bình
19


đẳng cùng nhau phát triển. Vì vậy, quan hệ với các nước ASEAN luôn luôn là phần quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam7.
Có thể nói, mong muốn về một Đông Nam Á đoàn kết, hữu nghị và hợp tác chặt chẽ
luôn là khát vọng của các nước trong khu vực. Ngay cuối thập niên 40 của TK XX, lãnh tụ
của phong trào giải phóng dân tộc Miến Điện là ông Aung San đã từng mơ ước về một tổ
chức khu vực để liên kết các nước mới giải phóng trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và
xây dựng tổ quốc. Đây cũng là mong muốn của vị Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Liên
bang Malaysia độc lập Ápdun Rátman. Trong những năm 1958-1961, ông đã bày tỏ mong
muốn các nước Đông Nam Á liên kết lại để cùng nhau giải quyết những vấn đề chung mà
các nước trong khu vực vấp phải. Nhưng những ước mơ này, trong nhiều năm sau Chiến
tranh thế giới thứ hai đã không được thực thi bởi sự khác biệt và chia rẽ giữa các quốc gia

trong khu vực. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khu vực Đông Nam Á xuất hiện nhiều
quốc gia mới với những đường lối phát triển và thể chế chính trị khác nhau. Có thể nói
rằng, Đông Nam Á có hai thực thể chính trị quan trọng, có ảnh hưởng trong khu vực, đó là
Indonesia ở vùng hải đảo và Việt Nam ở vùng bán đảo Đông Dương. Việt Nam và
Indonesia là hai nước có những vị thế và ảnh hưởng nhất định đối với tình hình ở khu vực.
Năm 1961, khi Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) được hình thành nhưng không được
sự ủng hộ của Indonesia nên nó chỉ tồn tại trên danh nghĩa, không được ai biết đến.
ASEAN ra đời vào năm 1967 do có sự tham gia tích cực từ quốc gia này. Không thể phủ
nhận trong nhiều năm qua nước này luôngiữ vai trò chủ đạo trong ASEAN. Khi ASEAN
ra đời, Việt Nam và các nước Đông Dương khác còn có thái độ nghi ngờ và chưa thiện
cảm. ASEAN lúc đó không gây được ảnh hưởng gì trên thị trường quốc tế 8.
Các nước ASEAN cũng nhận rõ vai trò và ảnh hưởng của Việt Nam trong những vấn
đề liên quan đến lợi ích khu vực mà cụ thể trước mắt là trong việc liên kết và hợp tác khu
vực. Vì lẽ đó mà các nước ASEAN luôn tìm cơ hội bày tỏ thiện chí và thành tâm của mình
đối với tình hình khu vực. Các nước ASEAN chào mừng việc kết thúc chiến tranh ở Đông
Dương, coi đó là một nhân tố tích cực góp phần vào việc thực hiện ý tưởng về một khu
7

Đinh Văn Liên (2007), “Ba nguy cơ thách thức sự bền vững của khối ASEAN”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học ASEAN
- 40 năm: Thành tựu và triển vọng, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị - Viện nghiên cứu xã hội, tr.124.
8
Phùng Đăng Bách (2007), Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, NXB Thông Tấn, Hà Nội, tr.170.

20


vực hòa bình. Các nước ASEAN cũng bày tỏ thiện chí sẵn sàng góp phần vào việc tái thiết
Đông Dương sau chiến tranh. Cùng với đó, việc liên kết của Việt Nam cùng các nước
Đông Dương khác không chỉ tạo cho ASEAN một diện mạo mới, mà còn tạo cho tổ chức
này một sức mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất để vươn lên chiếm lĩnh tầm cao mới trong

sự nghiệp của mình.
Chiến tranh lạnh kết thúc, Hiệp định hòa bình Pari về Campuchia (tháng 10-1991)
được ký kết, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho cả ASEAN nói chung và Việt Nam nói
riêng. Sau nhiều năm chiến tranh xung đột, các quốc gia trong khu vực đã có cơ hội để
thiết lập một nền hòa bình lâu dài, xây dựng vững chắc tình hữu nghị ở khu vực. Bên cạnh
những cơ hội thì không thiếu những thách thức lớn xuất hiện ở khu vực mà ngay cả
ASEAN và Việt Nam đều phải đối đầu. Liên Xô tan rã làm cho quan hệ quốc tế dẫn đến
sự thay đổi cán cân lực lượng trên thế giới và khu vực. Chính vì sự rút lui của Mỹ đã làm
mất đi chỗ dựa truyền thống về an ninh của các nước ASEAN.
Với những thách thức lớn đó, buộc các nước ASEAN phải tính toán tìm ra cơ chế
đảm bảo an ninh, đảm bảo sự phát triển kinh tế cho các nước thành viên. Thách thức thứ
hai của các nước ASEAN sau chiến tranh lạnh là vấn đề phát triển kinh tế, sự tập trung
phát triển kinh tế đã trở thành một xu hướng lớn, lôi cuốn các nước phát triển và đang phát
triển. Trong khi đó, xu thế khu vực hóa đang ngày càng phát triển mạnh trên thế giới mà
biểu hiện rõ nhất là sự ra đời một thị trường thống nhất châu Âu gồm các nước Cộng đồng
châu Âu và các nước Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu; khái niệm đồng Yên ở châu Á
-Thái Bình Dương của Nhật; sự hình thành Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) 9.
Các nước ASEAN phải tìm cách để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của riêng mình. Giải
pháp của ASEAN cho vấn đề trên gồm 2 mặt: một mặt mở rộng quan hệ tích cực đấu tranh
với các nước để chống xu hướng bảo hộ mậu dịch; mặt khác, tăng cường sức mạnh của
bản thân khu vực, thông qua đẩy mạnh hợp tác trong khu vực để vừa tạo thế với bên ngoài
và duy trì được tốc độ phát triển kinh tế của mình. Trong khung cảnh đó, sự phát triển
quan hệ hợp tác với Việt Nam cũng như các nước Đông Dương khác trở thành chính sách
quan trọng của ASEAN.
9

Phùng Đăng Bách (2007), Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, NXB Thông Tấn, Hà Nội, tr.159.

21



Trong nước
Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, nên cần duy trì hòa bình và ổn định
khu vực, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi với công cuộc đổi mới. Việt Nam tập
trung hết sức mình vào phát triển nền kinh tế mà từ lâu nền kinh tế đó đã bị chiến tranh tàn
phá khốc liệt, cải thiện đời sống của nhân dân, đưa đất nước tiến lên hòa nhịp với tiến độ
phát triển của khu vực và thế giới. Việt Nam phải ưu tiên phát triển kinh tế, tránh tình trạc
lạc hậu nghiêm trọng về kinh tế. Để làm cho mục tiêu phát triển kinh tế đạt được hiệu quả
nhất định, thì Việt Nam phải tăng cường và phát triển các mối quan hệ hợp tác với bên
ngoài, trước hết là với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đẩy mạnh quan hệ với ASEAN là mục tiêu quan trọng đối với Việt Nam vì ASEAN
là một tập hợp của những nước nhỏ và vừa, có xuất phát điểm gần giống với Việt Nam, đã
vươn lên thành những nước có nền kinh tế phát triển nhất khu vực. Hợp tác chặt chẽ với
ASEAN sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp và hòa nhập với sự phát triển kinh tế của
các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, ASEAN có tiếng nói và vai trò ngày càng tăng trên
thế giới, là tổ chức khu vực duy nhất thế giới có mối quan hệ chặt chẽ và cơ chế đối thoại
thường xuyên với nhiều nước công nghiệp phát triển, trong đó bao gồm tất cả 5 ủy viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việc phát triển hợp tác Việt Nam - ASEAN
sẽ làm tăng vị trí cũng như vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận
lợi cho Việt Nam đi vào hợp tác với các nước công nghiệp phát triển và các trung tâm
chính trị, kinh tế lớn, tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia các cơ chế hợp tác lớn hơn ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương10.
Trước những thử thách của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, việc phát triển quan hệ hợp
tác Việt Nam - ASEAN đã trở thành một vấn đề có tính quan trọng chiến lược, cả về kinh
tế, chính trị đối với ASEAN và Việt Nam. Các chuyến viếng thăm diễn ra dồn dập ở các
cấp. Trong hai năm, Việt Nam đã ký với các nước ASEAN gần 40 hiệp định các loại (Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật; Hiệp định về bảo hộ đầu tư, Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định về bưu điện; Hiệp định về hàng không, hàng hải…).

10


Phùng Đăng Bách (2007), Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, NXB Thông Tấn, Hà Nội, tr.160.

22


Việt Nam cố gắng xúc tiến các công việc chuẩn bị để sớm trở thành thành viên chính thức
của ASEAN.
Chính sự tham gia tích cực của Việt Nam vào ASEAN, điều đó đã được các nước
khu vực đánh giá cao. Như vậy, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của ASEAN
và tham gia tích cực vào các cơ cấu hợp tác của ASEAN, quan hệ hợp tác Việt Nam ASEAN đã hoàn toàn bước sang một chương mới.
1.3 Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN
Là những nước láng giềng của nhau và cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, quan
hệ với các nước trong tổ chức ASEAN luôn giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam. Do tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan, bên trong và
bên ngoài khu vực, quan hệ Việt Nam và ASEAN kể từ khi tổ chức ASEAN thành lập từ
năm 1967 đến nay đã trải qua nhiều thăng trầm khác nhau, phản ánh các mối quan hệ quốc
tế phức tạp ở các giai đoạn khác nhau của thời kì Chiến tranh lạnh và sau Chiến tranh
lạnh11.
Vào những thập niên 60, 70, thế giới đang diễn ra Chiến tranh lạnh và tình trạng đối
đầu giữa hai hệ thống xã hội. Những biến đổi tình hình thế giới và khu vực cuối những
năm 60, đầu những năm 70 đã buộc các nước ASEAN phải điều chỉnh chính sách đối
ngoại của mình. Ở khu vực Đông Nam Á đã diễn ra một số chuyển biến có ý nghĩa chiến
lược, chủ trương giảm các cam kết của Mỹ ở châu Á, chuẩn bị rút dần quân khỏi Việt
Nam, cùng với đó Mỹ và Thái Lan cũng bắt đầu thương lượng về việc Mỹ rút 48.000 quân
ra khỏi Thái Lan.
Trong khi ảnh hưởng của Anh, Mỹ bị suy giảm ở khu vực, thì ảnh hưởng của Liên
Xô (trước đây) và Trung Quốc lại tăng lên. Trung Quốc thông qua lực lượng được hỗ trợ ở
các nước Đông Nam Á để gây áp lực đối với các chính quyền ASEAN,còn Liên Xô bắt
đầu triển khai chiến lược châu Á của mình để đối phó với sự cấu kết Trung - Mỹ cũng như

mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Thắng lợi vĩ đại của nhân dân các nước Đông Dương
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là những nhân tố tác động sâu sắc tới cục diện Đông
11

Đào Huy Ngọc (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.77.

23


Nam Á vào cuối những năm 1960, 1970, buộc các nước ASEAN phải tính toán lại chiến
lược của mình.
Một trong những biểu hiện đầu tiên của quá trình điều chỉnh chiến lược này là tháng
2-1969, Thủ tướng Malaysia đưa ra khái niệm trung lập hóa Đông Nam Á. Tuyên bố này
cũng đánh dấu sự chấm dứt việc các nước ASEAN ủng hộ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Singapore tỏ thái độ hữu nghị với Việt Nam bằng cách để cho Việt Nam đặt cơ quan Tổng
công ty xuất nhập khẩu (tháng 7-1971). Tháng 9-1970, Thái Lan cũng bắt đầu rút 12 nghìn
quân khỏi Việt Nam. Bên cạnh việc chấm dứt dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam,
năm 1972, một số nước ASEAN như Philippines, Malaysia, Singapore đã bắt đầu thăm dò
khả năng phát triển quan hệ với Việt Nam, cả về kinh tế, thương mại và ngoại giao. Việt
Nam cũng khuyến khích thái độ của các nước ASEAN tránh dần khỏi các chính sách xâm
lược của Mỹ12.
Tháng 1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được kí kết.
Tháng 9-1973, Mỹ buộc phải chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương, xu thế hòa
bình, trung lập ở khu vực phát triển mạnh mẽ. Về phía Việt Nam, từ sau khi kí Hiệp định
Pari năm 1973, Việt Nam bắt đầu tích cực triển khai chính sách khu vực, đẩy mạnh quan
hệ song phương với các nước thuộc tổ chức ASEAN. Tháng 3-1973, Việt Nam thiết lập
quan hệ ngoại giao với Malaysia, Singapore. Chính sách ngoại giao của Việt Nam đối với
khu vực Đông Nam Á lần đầu tiên được thể hiện rõ ràng trong chính sách 4 điểm tháng 71976, trong đó nêu lên những nguyên tắc cơ bản cho việc phát triển quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước Đông Nam Á như: tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, cùng tồn tại trong hòa bình, không để lãnh thổ của mình cho nước ngoài sử

dụng. Tháng 7-1976, Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền đã lần lượt đi thăm Philippines,
Singapore, Indonesia, Malaysia và các nước ASEAN đều tuyên bố ủng hộ chính sách 4
điểm của Việt Nam.
Như vậy, đến tháng 8-1977, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với các
nước thành viên ASEAN. Trong các năm 1977, 1978 quan hệ song phương của Việt Nam
với từng nước ASEAN đã phát triển mạnh mẽ với các chuyến thăm hữu nghị của Thủ
12

Đào Huy Ngọc (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.80,81.

24


tướng Phạm Văn Đồng thăm 5 nước ASEAN (tháng 9, 10-1978) và của Bộ trưởng Bộ
ngoại giao Nguyễn Duy Trinh thăm 5 nước ASEAN (tháng 12-1977 và tháng 1-1978).
Việt Nam đã lần lượt lập Đại sứ quán tại Manila (11-1976), Băng Cốc (2-1978), và các
nước Philippines, Malaysia, Thái Lan cũng lập Đại sứ quán tại Việt Nam vào các thời
điểm tương ứng13.Có thể nói trong thời kỳ này, quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN
phát triển tốt đẹp hơn so với trước đó. Việt Nam đã từng bước đặt nền móng cho quan hệ
Việt Nam với các nước ASEAN.
Từ năm 1979, sau khi xuất hiện vấn đề Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam với các
nước ASEAN chuyển sang đối đầu, quan hệ song phương của Việt Nam với từng nước
ASEAN giảm xuống mức thấp nhất. Trong giai đoạn này, Việt Nam vừa đấu tranh với
ASEAN về vấn đề Campuchia, vừa triển khai đấu tranh ngoại giao, gắn việc giải quyết
vấn đề Campuchia với việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á, thúc đẩy
đối thoại để đẩy lùi đối đầu. Việt Nam đã đưa ra nhiều đề nghị về hòa bình và hợp tác ở
Đông Nam Á.
Tuy nhiên, tất cả những lời đề nghị trên về đối thoại và hợp tác khu vực đều không
được ASEAN chấp nhận với lý do vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ yếu gây bất ổn
khu vực; phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hòa bình, hợp

tác khu vực; Việt Nam phải rút quân trước thì mới có đối thoại giữa hai nhóm nước.Giai
đoạn này, có thể thấy có hai nhóm nước tách biệt phản ánh lợi ích an ninh và quan niệm về
mối đe dọa về an ninh khác nhau trong các nước ASEAN.
Một nhóm tỏ ra lo ngại về nguy cơ cơ bản và lâu dài là Trung Quốc đối với khu vực
(Việt Nam, Lào, Campuchia), và do vậy chủ trương đối thoại với Việt Nam nhằm tìm một
giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Nhóm hai nước còn lại (Malaysia, Indonesia) chủ trương dựa vào Trung Quốc, gây
sức ép toàn diện với Việt Nam. Những chuyển biến quan trọng trong chính sách của
ASEAN đối với Việt Nam được đánh dấu bằng việc tại Hội nghị AMM tháng 2-1985, các
nước ASEAN đã nhất trí cử Indonesia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương
khẳng định xu thế đối thoại giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á. Trên cơ sở quyết định
13

Đào Huy Ngọc (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.85.

25


×