1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với các quốc gia trên thế giới, việc đổi mới hay cải cách giáo dục luôn
luôn là yêu cầu thường xuyên, bức thiết nếu không muốn bị tụt hậu trong cuộc chạy
đua cho sự phát triển đang diễn ra ngày càng gay gắt. Lịch sử đã chứng minh rằng:
Không có một sự tiến bộ và thành đạt của quốc gia nào mà lại tách rời ra khỏi sự
tiến bộ và thành đạt của quốc gia đó trong lĩnh vực giáo dục. Ở đâu coi nhẹ giáo dục
hoặc không có đủ tri thức và khả năng để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì ở
đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn sự phá sản.
Việt Nam mặc dù vẫn là một nước đang phát triển, nhưng chúng ta không thể
không tính đến tìm một lối đi tiến nhanh vào nền kinh tế tri thức theo cách của
mình, và để đào tạo được nguồn nhân lực tri thức này, điều quan trọng đặt ra vẫn là
hệ thống giáo dục phải đảm bảo tốt nhất.
Tuy nhiên, với sự bùng nổ quy mô đào tạo cũng như sự gia tăng nhanh chóng
về số lượng của các cơ sở giáo dục nên dẫn đến việc quản lý và sự chu cấp về tài
chính gây nhiều khó khăn cho Chính phủ. Hoàn thiện cơ chế tăng cường giao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc hệ
thống giáo dục sẽ là nền tảng cho sự nghiệp phát triển của ngành giáo dục cũng như
sự phát triển chung của đất nước.
Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội là trường công lập trực thuộc
Bộ Công Thương, tiền thân là trường Trung cấp nghiệp vụ Bộ Công Nghiệp Nặng
được thành lập năm 1961 và được nâng cấp thành trường Cao đẳng Kinh tế Công
nghiệp Hà Nội theo quyết định số : 1206/QĐ-BGDĐT năm 2006 của Bộ trưởng Bộ
Giáo Dục và Đào tạo. Trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành Nhà trường luôn
giữ vững nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo cán bộ nghiệp vụ kinh tế; và công chức ngành
công nghiệp nay là ngành công thương. Kể từ khi thành lập, trường đã không ngừng
phấn đấu nhằm đa dạng hoá và mở rộng quy mô đào tạo, nâng cao chất lượng và uy
tín của nhà trường, cho đến nay Nhà trường đã đào tạo được hơn 100 nghìn lượt
2
cán bộ quản lý Kinh tế cho ngành và xã hội và nâng cao thu nhập cho cán bộ công
nhân viên.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động về công tác quản lý tài chính và nhiệm
vụ đào tạo của Nhà trường còn tồn tại một số hạn chế do những nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo, phát huy được tính
năng động, tự chủ, nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của Nhà trường thì trong
những năm tới vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý tài chính là rất cần thiết. Vì những
lý do trên, tác giả chọn đề tài: “ Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả
việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong đơn vị sự
nghiệp có thu cho trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở tình hình thực tiễn của Nhà trường, đề xuất một số giải pháp có
căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn, nâng cao hiệu quả tài chính của trường
Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội nhằm góp phần xây dựng Trường ngày càng
phát triển trong cơ chế thị trường
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1- Đối tượng nghiên cứu: Tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
trong đơn vị sự nghiệp có thu
3.2- Phạm vi nghiên cứu: Kết quả của nghị định 43/2006/NĐ-CP và hoạt
động tài chính của trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2007 –
2011 để đưa ra những giải pháp phù hợp, hiệu quả trong thời gian tới
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong đơn vị
sự nghiệp có thu
- Phân tích thực trạng việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính với trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính cho trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội
5. Phương pháp nghiên cứu
3
Sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, trong đó sử dụng những phương
pháp sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu liên quan, phân tích thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp sử dụng đồ thị, bảng biểu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa lý luận cơ bản về cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu nói chung và các trường đại
học, cao đẳng nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá và đề xuất các giải pháp hoàn thiện ở trường
Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội. Là tài liệu tham khảo cho trường Cao đẳng
kinh tế công nghiệp Hà Nội và các trường khác thuộc Bộ công thương
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Tổng quan về hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
trong đơn vị sự nghiệp có thu.
1.1. Tổng quan lý thuyết về hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
trong đơn vị sự nghiệp có thu nói chung và các trường đại học, cao đẳng nói riêng
1.2. Thực trạng hiệu quả việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính trong các trường đại học, cao đẳng công lập ở Việt Nam và một số nước trên
thế giới
1.3. Các công trình, luận văn, luận án đã công bố có liên quan đến đề tài
Chương 2: Phân tích hiệu quả việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
tài chính với trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2010-2012
2.1. Giới thiệu chung về trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội
2.2. Thực trạng việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính với
trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội
2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
với trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội
4
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu cho trường Cao đẳng kinh tế
công nghiệp Hà Nội
3.1. Định hướng đổi mới cơ chế tài chính trong trường Cao đẳng kinh tế công
nghiệp Hà Nội giai đoạn 2013- 2015
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tài chính cho trường Cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU
TRÁCH NHIỆM VỀ TÀI CHÍNH TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU
1.1. Tổng quan lý luận về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
trong đơn vị sự nghiệp có thu nói chung và các trường đại học, cao đẳng
nói riêng
1.1.1. Những vấn đề lý luận về đơn vị sự nghiệp có thu
1.1.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của đơn vị sự nghiệp có thu
a. Khái niệm
Theo Nghị định 43 ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định về
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Đơn vị sự nghiệp công lập (hay còn
gọi là đơn vị sự nghiệp có thu) được khái niệm như sau:
Đơn vị sự nghiệp có thu là những đơn vị do Nhà nước có thẩm quyền quyết
định thành lập nhằm thực hiện cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực giáo dục,
môi trường, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm.
b. Vai trò của đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế:
Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế và có vị
trí quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay cả nước có khoảng
25.631 đơn vị sự nghiệp, trong đó có 845 đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt
động, 10.431 đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động và 14.355
đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động. Trong thời gian qua,
các đơn vị sự nghiệp công ở Trung ương và Địa phương đã có nhiều đóng góp cho
sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thể hiện:
- Cung cấp các dịch vụ công về giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao... có
chất lượng cao cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, góp phần
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
- Thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao như: đào tạo và cung cấp
nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng, khám chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân
6
dân, nghiên cứu và ứng dụng các kết quả khoa học, công nghệ, cung ứng các sản
phẩm văn hóa và nghệ thuật... phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Đối với từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp, các đơn vị sự nghiệp công đều
có vai trò chủ đạo trong việc tham gia đề xuất và thực hiện các đề án, chương trình
lớn phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Thông qua hoạt động thu phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước đã góp
phần tăng cường nguồn lực cùng với NSNN đẩy mạnh đa dạng hóa và xã hội hóa
nguồn lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Thực hiện chủ chương xã hội hóa hoạt
động sự nghiệp của Nhà nước, trong thời gian qua các đơn vị sự nghiệp ở tất cả các
lĩnh vực đã tích cực mở rộng các loại hình, phương thức hoạt động, một mặt đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đồng thời thu hút sự đóng góp của nhân
dân đầu tư cho sự phát triển hoạt động sự nghiệp của xã hội.
c. Đặc điểm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu
Đơn vị sự nghiệp có thu là các đơn vị sự nghiệp, do vậy đặc điểm hoạt động
trước hết giống với các đơn vị sự nghiệp nói chung đồng thời cũng có những đặc
điểm riêng của một đơn vị hoạt động có thu, ảnh hưởng quyết định đến cơ chế quản
lý tài chính của đơn vị. Các đặc điểm đó là:
+ Do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập;
+ Hoạt động theo nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao, không vì mục
đích lợi nhuận;
+ Do khả năng hạn hẹp của ngân sách Nhà nước, không thể đảm bảo tất
cả các khoản chi của các ĐVSNCT, đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhà nước cho phép các
ĐVSNCT được thu một số loại phí, lệ phí;
+ Các đơn vị sự nghiệp có thu được tổ chức sản xuất kinh doanh, cung cấp
dịch vụ phù hợp với lĩnh vực hoạt động chuyên môn của mình;
+ Đơn vị sự nghiệp có thu chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản
(Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố). Đồng thời chịu sự quản lý về mặt
chuyên môn của các Bộ, ngành, chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực hoạt động
sự nghiệp và chính quyền địa phương nơi đơn vị đóng trụ sở.
7
+ Có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế
toán theo quy định của Luật kế toán.
1.1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu
Nhà nước có một hệ thống các đơn vị sự nghiệp có thu rất lớn. Vì vậy, để
đảm bảo quản lý thống nhất và có hiệu quả hoạt động của các đơn vị này, người ta
tiến hành phân loại đơn vị sự nghiệp có thu như sau:
a. Theo đối tượng quản lý:
Đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc cơ quan hành chính Nhà nước như các
Cục, Bộ, cơ quan ngang bộ: Những đơn vị này hoạt động theo các quy định của Nhà
nước và của Cục, Bộ chủ quản, nên có tính linh hoạt và chủ động khá cao.
Đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc một doanh nghiệp Nhà nước; là những
đơn vị thực hiện những chức năng, nhiệm vụ mà doanh nghiệp này giao cho. Tính
linh hoạt của đơn vị sự nghiệp này không cao vì không chỉ phụ thuộc vào quy định
của Chính phủ mà còn phải tuân theo các quy chế hoạt động của doanh nghiệp.
Đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc một tổ chức do Nhà nước cấp giấy phép
hoạt động.
b. Theo phạm vi hoạt động:
Đơn vị sự nghiệp có thu ở Trung ương: các đơn vị này là các cơ quan trực
thuộc Cục, Bộ, cơ quan ngang Bộ, chịu sự quản lý trực tiếp của các Bộ cơ quan chủ
quản.
Đơn vị sự nghiệp có thu ở địa phương: các đơn vị này chịu sự quản lý trực
tiếp của chính quyền địa phương (các Ủy ban nhân dân)
Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu dựa trên căn cứ xác định mức kinh phí Nhà
nước cấp để đảm bảo cho hoạt động thường xuyên hàng năm của đơn vị ổn định
trong 3 năm của thời kỳ phân loại
8
Mức tự đảm bảo chi
Tổng số nguồn thu sự nghiệp
phí hoạt động thường =
thường xuyên (%)
x 100% (1.1)
Tổng số chi hoạt động thường xuyên
Tổng số nguồn thu sự nghiệp và tổng số chi hoạt động thường xuyên tính
theo dự toán thu, chi của năm đầu thời kỳ ổn định.
Dựa vào tiêu thức phân loại này, căn cứ vào mức độ tự đảm bảo chi phí hoạt
động thường xuyên, đơn vị sự nghiệp có thu gồm:
Đơn vị có nguồn thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên
(gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động): là đơn vị sự nghiệp có
mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên xác định theo công thức (1.1),
bằng hoặc lớn hơn 100%.
Đơn vị có nguồn thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên,
phần còn lại được ngân sách Nhà nước cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo
một phần chi phí hoạt động): là đơn vị sự nghiệp có mức độ tự đảm bảo chi phí hoạt
động thường xuyên xác định theo công thức (1.1) từ trên 10% đến dưới 100%.
1.1.2. Những vấn đề lý luận chung về các trường đại học, cao đẳng công
lập
1.1.2.1. Khái niệm và mục tiêu của giáo dục đại học và cao đẳng
a. Khái niệm
Giáo dục đại học, cao đẳng bao gồm:
- Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng
tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng
tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
9
- Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học;
- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong
trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trường đại học, cao đẳng công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất, đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên;
b. Mục tiêu của giáo dục đại học, cao đẳng
- Mục tiêu của giáo dục đại học, cao đẳng là đào tạo người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ
năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên
ngành được đào tạo.
- Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và
có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải
quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo
- Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao
về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải
quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo.
- Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và
thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết những
vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học và hoạt động
chuyên môn.
1.1.2.2. Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học, cao
đẳng
10
Trường đại học, cao đẳng được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy
định của Nhà nước và theo điều lệ Nhà trường trong các hoạt động sau:
- Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập đối với
ngành nghề được phép đào tạo;
- Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo,
công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng;
- Tổ chức bộ máy nhà trường; tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhà
giáo, cán bộ, nhân viên;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực;
- Hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hoá, thể dục, thể thao, y tế,
nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài theo quy định của Chính phủ.
1.1.2.3. Nguyên tắc tổ chức hoạt động của trường đại học, cao đẳng
Xã hội hóa nhà trường làm cho giáo dục và đào tạo đáp ứng những nhu cầu
rất khác nhau, rất phong phú, rất đa dạng, nhiều kiểu, nhiều vẻ của xã hội, của từng
vùng, từng khu vực, từng địa phương. Xã hội hóa trường học sẽ làm cho nhà trường
không còn là một thể chế dập khuôn, cứng nhắc, biệt lập, khép kín với bên ngoài.
Hệ thống nhà trường về nguyên tắc phải là hệ thống mở, các tính chất và nguyên tắc
của nó phải đa dạng. Trường đại học phải gắn liền với xã hội, thâm nhập vào các
quá trình đang diễn ra trong xã hội, thâm nhập vào các quá trình đang diễn ra trong
xã hội và thu hút nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội tham gia xây dựng và phát
triển Nhà trường.
Dân chủ hóa trong các trường đại học, cao đẳng nhằm phát huy tối đa năng
lực sáng tạo của tập thể Nhà trường và cá nhân vào việc tổ chức, quản lý giảng dạy
và giáo dục và sự phát triển trường đại học. Dân chủ hóa trường đại học sẽ biến tất
cả các thành viên trong Nhà trường thành những chủ thể của quá trình giáo dục,
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biến quá trình quản lý thành quá
trình tự quản lý. Dân chủ hóa trường đại học sẽ giải phóng cả thầy lẫn trò và người
quản lý khỏi sự ràng buộc, không ép bởi một thể chế đơn điệu cứng nhắc, mở ra
chân trời rộng lớn cho người lao động sáng tạo. Mạnh dạn phân cấp cho từng bộ
11
phận trong hệ thống tổ chức Nhà trường. Phát huy tính tự chủ của từng tập thể, từng
cá nhân, thực hiện trách nhiệm đi đôi với quyền lợi, khen thưởng đi đôi với kỷ luật,
bổ nhiệm đi đôi với bãi nhiệm, đó là những yếu tố then chốt trong quản lý nhằm
khai thác hết năng suất của mọi thành viên và mọi tập thể Nhà trường.
Nhân văn hóa trong trường đại học, cao đẳng là một yếu tố quan trọng của
chiến lược con người mà rất nhiều nước trên thế giới hiện rất quan tâm. Tư tưởng
chủ đạo của quá trình giáo dục và đào tạo là sự phát triển của người học. Yếu tố
then chốt trong tư tưởng đó là tôn trọng nhân cách, phẩm giá người học, tôn trọng
cá tính, những nhu cầu và hứng thú cá nhân của người học. Nhân văn hóa trong
trường đại học đảm bảo tôn trọng và kế thừa những di sản văn hóa quý báu của dân
tộc và thế giới. Nhân văn hóa trong trường đại học đòi hỏi phải giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục thể chất, chăm lo sức khỏe đời sống vật chất và tinh thần của người dạy và
người học trong trường.
Một vấn đề đặc biệt quan tâm nữa trong hoạt động đào tạo của trường đại
học là chăm lo đội ngũ giảng viên – lực lượng tri thức, những người vun đắp cho
các thế hệ tương lai của đất nước. Trong điều kiện khoa học, kỹ thuật phát triển
nhanh chóng, muốn hiện đại hóa giáo dục và đào tạo trước hết phải hiện đại hóa
thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là đội ngũ thầy cô giáo các trường đại học, cao đẳng,
phải có chế độ luân phiên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức và nghiệp
vụ sư phạm cho họ.
1.1.3. Cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp sự nghiệp có thu nói chung và
các trường đại học, cao đẳng nói riêng.
1.1.3.1. Khái niệm cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
Theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học, cơ chế tài chính là “tổng thể các biện
pháp, hình thức tổ chức quản lý quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn
tài chính trong nền kinh tế quốc dân. Cơ chế tài chính phải phù hợp và thích ứng với
cơ chế quản lý kinh tế của từng giai đoạn phát triển xã hội. [75 tr120-121].
12
Do đó, cơ chế tài chính cho giáo dục đào tạo là tổng thể các biện pháp, các
hình thức tổ chức quản lý quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài
chính cho hoạt động giáo dục đào tạo.
Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong các đơn vị sự nghiệp
thực chất là cơ chế tài chính mà ở đó quyền định đoạt các vấn đề tài chính của đơn
vị gắn trách nhiệm thực thi quyền đó được đề cao.
Đơn vị sự nghiệp có thu là những đơn vị quản lý và cung cấp các dịch vụ
công cho xã hội do Nhà nước thành lập, đặt dưới sự quản lý của Nhà nước nên
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu
mang những đặc điểm riêng, cụ thể:
Tự chủ về tài chính là sự chủ động về việc đảm bảo và quản lý sử dụng các
nguồn kinh phí phục vụ cho các hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu. Quyền tự
chủ về tài chính nếu được thực hiện sẽ không tách rời việc đảm bảo các yêu cầu
chính đáng của người học, ĐVSNCT tự chịu trách nhiệm trước xã hội và đất nước.
Quyền tự chủ về tài chính sẽ quyết định tự chịu trách nhiệm về tài chính của
ĐVSNCT, tự chịu trách nhiệm về tài chính thể hiện trên 3 phương diện:
-
Trách nhiệm với người học, với xã hội:
Là trách nhiệm đảm bảo chất lượng cam kết, trách nhiệm sử dụng hiệu quả,
minh bạch kinh phí đóng góp của người học và xã hội cầu người học. Khi người
học và người sử dụng lao động đều có quyền tự do lựa chọn, các trường không thể
đào tạo không đáp ứng nhu cầu của xã hội, không thể thu mức học phí không tương
xứng với chất lượng đào tạo người học mong đợi.
-
Trách nhiệm với Nhà nước:
Là trách nhiệm đảm bảo mọi hoạt động của Nhà trường, theo sứ mạng đã
công bố, trong khuôn khổ của pháp luật, trách nhiệm sử dụng kinh phí đầu tư của
Nhà nước một cách hiệu quả và minh bạch, trách nhiệm báo cáo và chịu sự giám sát
của các cơ quan quản lý Nhà nước.
-
Trách nhiệm đối với chính đơn vị của mình
13
Là trách nhiệm phát triển đơn vị một cách bền vững, giữ vững và nâng cao
uy tín của đơn vị vì quyền lợi của tập thể của đội ngũ cán bộ viên chức.
1.1.3.2. Mục tiêu thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính trong đơn vị sự nghiệp có thu
Xây dựng và áp dụng cơ chế tài chính mới nhằm quản lý hiệu quả, phát triển
tài chính vững mạnh, đảm bảo điều kiện tốt thực hiện tốt các giải pháp nâng cao
chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp trong việc tổ
chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ, huy động sự
đóng góp của cộng đồng, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách Nhà nước.
Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp, Nhà
nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển
1.1.3.3. Tầm quan trọng của cơ chế tài chính trong đơn vị sự nghiệp có
thu nói chung và các trường đại học, cao đẳng nói riêng.
a. Tầm quan trọng của cơ chế tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu
Trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu về chất lượng dịch vụ công và
hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp là những vấn đề còn mang tính phức tạp
hơn nữa bên cạnh nguồn thu từ ngân sách Nhà nước cấp, các đơn vị này còn có
nguồn thu chi trả của dân cư, các nguồn do đơn vị tự tìm kiếm, khai thác. Cơ chế
quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu không những góp phần giảm bớt các
khoản chi sự nghiệp của ngân sách Nhà nước cấp, mà còn khuyến khích cung cấp
các dịch vụ chất lượng cao cho xã hội với chi phí tiết kiệm.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp liên quan
đến hiệu quả kinh tế xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân dân. Do đó nếu có cơ chế
quản lý tài chính hợp lý sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực,
tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của đất nước.
14
b. Tầm quan trọng của cơ chế tài chính trong các trường đại học, cao đẳng
Thứ nhất, đảm bảo nguồn tài chính giúp các trường đại học thực hiện đổi
mới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên cho Nhà trường, từ đó góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo.
Đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và có chất lượng là nhân tố quan trọng
quyết định chất lượng đào tạo của một trường đại học. Nếu các trường đại học đảm
bảo nguồn tài chính để trang trải tiền lương tối thiểu cho giáo viên và điều kiện làm
việc, cơ sở vật chất và cơ hội học tập, thăng tiến về mặt chuyên môn thì khi đó
giảng viên mới toàn tâm, toàn ý cho công tác giảng dạy nghiên cứu, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ hai, đảm bảo nguồn tài chính trong các trường đại học góp phần phát
triển kinh tế xã hội của đất nước
Cơ chế tài chính không những tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục đào tạo trong
các trường đại học phát triển, mà còn có ý nghĩa đảm bảo cho lĩnh vực này hoạt động
đúng hướng, đúng mục tiêu ý đồ của nhà cầm quyền. Nói cách khác, cơ chế tài chính là
biện pháp vĩ mô để nhà nước điều tiết hoạt động giáo dục đào tạo.
Thứ ba, đảm bảo nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, tạo cơ hội cho sinh
viên từng bước tiếp cận thực tiễn, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo trong Nhà
trường
Nhờ có nguồn tài chính cho KH&CN, đội ngũ giáo viên có điều kiện tham
gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học. Do đó, qua tham gia nghiên cứu khoa học,
đội ngũ giáo viên trong trường đại học có điều kiện rèn luyện trong cả môi trường
nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn sản xuất kinh doanh. Tạo động lực để các nhà
khoa học không ngừng sáng tạo trong nghiên cứu, nâng cao năng lực nghiên cứu và
chất lượng đào tạo của đội ngũ giáo viên Nhà Trường.
- Thông qua tham gia vào hoạt động nghiên cứu, sinh viên tìm hiểu sâu hơn
những kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập, từng bước ứng dụng vào thực
tiễn, từ đó chất lượng đào tạo được nâng cao.
15
Thứ tư, góp phần huy động nguồn lực vật chất và tài chính vào phát triển
các trường đại học.
Qua hoạt động nghiên cứu, các trường đại học có được nguồn tài chính và
vật chất được đầu tư từ xã hội, Nhà nước, các doanh nghiệp và cá nhân trong nước
cũng như các tổ chức quốc tế. Từ đó, hoạt động nghiên cứu khoa học trong các
trường đại học góp phần vào việc phát triển Nhà trường.
Cuối cùng, cơ chế tài chính góp phần xây dựng mối quan hệ hữu cơ giữa các
đơn vị sự nghiệp có thu với toàn xã hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh, gắn lý luận
với thực tiễn, gắn học với hành.
1.1.3.4. Nội dung cơ bản của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính
* Nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu
Ngân sách Nhà nước cấp:
+ Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động (sau khi đã cân đối nguồn thu
sự nghiệp), được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao, trong phạm vi dự toán
được cấp có thẩm quyền giao;
+ Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị
không phải là tổ chức khoa học và công nghệ);
+ Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp:
+ Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước theo quy
định của pháp luật;
+ Thu từ hoạt động dịch vụ;
+ Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
- Nguồn khác:
+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ, viên
chức trong đơn vị;
16
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định của pháp luật.
Ngân sách nhà nước cấp
Nguồn thu
Thu từ hoạt động sự nghiệp
Hình 1.1: Nguồn thu của đơn vị sự nghiệp có thu
* Nội dung chi của đơn vị sự nghiệp có thu
- Chi thường xuyên:
+ Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao;
+ Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí;
+ Chi cho các hoạt động dịch vụ
- Chi không thường xuyên, gồm:
+ Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
+ Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố
định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
+ Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
Chi thường xuyên
Nguồn chi
Chi không thường xuyên
Hình 1.2: Nguồn chi của đơn vị sự nghiệp có thu
17
Tự chủ về sử dụng nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các
khoản chi thường xuyên [Quy định tại khoản 1 Điều 15] Nghị định này, Thủ trưởng
đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc
thấp hơn mức chi do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.
Tiền lương, tiền công và thu nhập của đơn vị sự nghiệp có thu
- Tiền lương, tiền công :
+ Đối với những hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ Nhà nước
giao, chi phí tiền lương, tiền công cho cán bộ, viên chức và người lao động (gọi tắt
là người lao động), đơn vị tính theo lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định;
+ Đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động, được quyết định tổng mức
thu nhập trong năm cho người lao động, sau khi đã thực hiện trích lập quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp [quy định tại điểm a khoản 1 Điều 19 Nghị định này];
Việc chi trả thu nhập cho người lao động trong đơn vị được thực hiện theo
nguyên tắc: người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu,
tiết kiệm chi được trả nhiều hơn. Thủ trưởng đơn vị chi trả thu nhập theo quy chế
chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp
khác theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có), đơn vị được sử dụng
theo trình tự như sau:
a) Đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động:
- Trích tối thiểu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp;
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động;
- Trích lập Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập.
Đối với 2 Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi, mức trích tối đa không quá 3 tháng
tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm.
Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do Thủ trưởng đơn vị sự
nghiệp quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
b) Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động:
18
- Trích tối thiểu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp;
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động theo quy định tại điểm b khoản
2 Điều 18 Nghị định này;
- Trích lập Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập.
Đối với 2 Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền
lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm.
Trường hợp chênh lệch thu lớn hơn chi trong năm, bằng hoặc nhỏ hơn một
lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm, đơn vị được sử dụng để trả thu nhập
tăng thêm cho người lao động, trích lập 4 quỹ: Quỹ dự phòng ổn định thu nhập,
Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, trong đó; đối
với 2 Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi mức trích tối đa không quá 3 tháng tiền
lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm.
1.2. Thực trạng hiệu quả việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tài chính trong các trường đại học, cao đẳng công lập ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
tài chính tại đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam
Triển khai nghị định 43/2006/NĐ-CP, các Bộ và cơ quan Trung ương đã giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho 741 đơn vị trực thuộc; trong đó
có 208 đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động; 461 đơn vị sự nghiệp tự đảm
bảo một phần chi phí hoạt động và 72 đơn vị do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí
hoạt động.
Các địa phương đã giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho
24.890 đơn vị sự nghiệp trực thuộc, trong đó: 637 đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi
phí hoạt động; 9.970 đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và
14.283 đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động. [Nguồn: báo
cáo của Bộ Tài chính 2011].
Để đánh giá kết quả thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn
vị sự nghiệp có thu ta tìm hiểu tình hình thực hiện và kết quả đạt được tại các đơn
vị sự nghiệp có thu của thành phố Hà Nội như sau:
19
Theo báo cáo sơ kết đánh giá kết quả thực hiện nghị định số 43/2006/NĐ-CP
của Sở Tài chính [Nguồn: Webside của Sở Tài chính] giai đoạn 2009-2012, 100%
đơn vị sự nghiệp công lập của thành phố đã được giao quyền tự chủ về tài chính, cụ thể:
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: là lĩnh vực sự nghiệp có tỷ lệ % số đơn
vị thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trên tổng số đơn vị sự nghiệp
được giao quyền tự của thành phố cao nhất (1578/1905 đơn vị tương đương 82,8%).
Toàn thành phố có 05 đơn vị thuộc lĩnh vực này hoàn toàn tự đảm bảo kinh phí, 786
đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động, 787 đơn vị sự nghiệp
ngân sách đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động.
Trong lĩnh vực y tế có 103 đơn vị được giao quyền tự chủ: trong đó có 02
đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, 51 đơn vị sự nghiệp tự
đảm bảo một phần chi phí hoạt động, 50 đơn vị ngân sách đảm bảo toàn bộ.
Trong lĩnh vực khác (thương mại, dịch vụ...) là lĩnh vực có tỷ lệ các đơn vị
sự nghiệp công lập tự đảm bảo hoàn toàn chi phí hoạt động cao nhất: 27 đơn vị trên
tổng số 117 đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động chiếm
23%.
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính các đơn vị đã chủ
động được nguồn tài chính, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, khai thác các nguồn thu
đa dạng nhờ đó tăng thu nhập cho cán bộ, công nhân viên. Tổng thu nhập tăng thêm
của các đơn vị sự nghiệp toàn thành phố là 155.162 triệu đồng, đạt tỷ lệ 10,95% so
với tổng quỹ lương (1.416.747 triệu đồng).
Trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ, thủ trưởng các đơn vị được tự quyết định
mức chi quản lý, chi nghiệp vụ một cách linh hoạt theo quy định của nhà nước tùy
theo nội dung và hiệu quả công việc trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng.
Đặc biệt đối với các đơn vị tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động được tự chủ
trong chi tiêu, không phụ thuộc vào các định mức quy định của nhà nước.
Như vậy, thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu
của thành phố Hà Nội đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trên mọi lĩnh vực Giáo
dục và Đào tạo, Dạy nghề, Y tế, Văn hóa – Thông tin, Thể dục thể thao và lĩnh vực
20
khác. Số thu sự nghiệp, số kinh phí tiết kiệm trong năm, thu nhập bình quân đầu
người đều tăng trong khi tổ chức biên chế được tinh gọn.
Một số kết quả đạt được
Các ĐVSNCT khi được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
đã phát huy được quyền tự chủ, chủ động khai thác các nguồn thu sự nghiệp, mở
rộng và đa dạng hóa các loại hình cung ứng dịch vụ, chủ động sử dụng các nguồn
kinh phí theo yêu cầu hoạt động của đơn vị, đảm bảo chi tiêu có hiệu quả, tiết kiệm
trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ do đơn vị xây dựng.
Thu nhập của cán bộ viên chức được nâng lên. Ngoài việc đảm bảo tiền
lương cơ bản theo ngạch bậc do Nhà nước quy định, các đơn vị đều đã có nguồn để
tăng thu nhập cho người lao động tuy còn ở mức độ khác nhau tùy theo khả năng
thu và tiết kiệm chi của đơn vị. Từng bước giải quyết khó khăn về đời sống cho
người lao động và khuyến khích người lao động nâng cao tinh thần trách nhiệm,
gắn bó với công việc.
Thủ trưởng đơn vị được quyết định mức chi quản lý, nghiệp vụ cao hơn mức
chi Nhà nước quy định trong phạm vi nguồn thu được sử dụng.
Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần khẳng định việc giao quyền tự
chủ tài chính cho ĐVSNCT là một cơ chế đúng đắn, phù hợp với yêu cầu cải cách
tài chính công, phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị, nâng cao chất
lượng phục vụ nhân dân, cung cấp các dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng cho
xã hội, cải thiện từng bước thu nhập cho người lao động.
Những tồn tại, khó khăn, vướng mắc:
Thứ nhất, việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ chưa đúng quy định và thực
hiện quy chế chi tiêu nội bộ chưa đúng với hướng dẫn tại Thông tư số 71/2006/TTBTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính. Cụ thể là:
Quy định cước điện thoại di động, điện thoại nhà riêng cao hơn mức quy
định của nhà nước, hoặc không quy định mức cước điện thoại mà thanh toán theo
thực tế phát sinh không đúng quy định.
21
Quản lý sử dụng các quỹ còn tình trạng chưa xây dựng mức trích lập quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ phát triển hoạt
động sự nghiệp. Chưa quy định cụ thể về đối tượng chi, mức chi.
Tại các đơn vị đều chưa xây dựng tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ được giao như khối lượng công việc hoàn thành trong năm, chất lượng
công việc hoàn thành… nên việc chi trả thu nhập tăng thêm trong năm đều tính theo
hệ số chức vụ cấp bậc công tác và bình bầu A,B,C…
Nhiều khoản chi thường xuyên phát sinh nhưng chưa được qui định cụ thể
trong qui chế chi tiêu nội bộ mà thực hiện theo quyết định của thủ trưởng đơn vị,
dẫn tới hạn chế về tính công khai, dân chủ trong quá trình quản lý tài chính...
Thứ hai, việc lập và giao dự toán chưa sát với thực tế: vẫn còn một số đơn
vị sự nghiệp chưa xác định rõ cơ cấu nguồn thu và khả năng tự bảo đảm chi thường
xuyên, để làm cơ sở xác định chính xác mức hỗ trợ của NSNN. Bên cạnh đó, một số
đơn vị lập dự toán thu, chi NSNN vẫn mang theo tâm lý khi lập dự toán thu chưa
phản ánh hết các nguồn thu, hoặc lập dự toán với số thu thấp hơn số thực thu năm
trước, nội dung chi cao hơn để được tăng hỗ trợ từ NSNN.
Thứ ba, việc xác định sai loại hình đơn vị sự nghiệp, dẫn đến cấp kinh phí
không chính xác: do các đơn vị sự nghiệp lập dự toán không sát và cơ quan chủ
quản chưa thẩm tra, đánh giá đầy đủ, nên đã xác định sai loại hình đơn vị sự nghiệp
để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
Đơn vị đã tự chủ toàn bộ chi phí hoạt động, nhưng cơ quan chủ quản vẫn cho
phép áp dụng cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí
hoạt động thường xuyên. Việc đơn vị xác định không đúng loại hình tự chủ dẫn đến
NSNN hàng năm vẫn phải cấp bù kinh phí hoạt động thường xuyên (Ví dụ có đơn
vị từ năm 2009 đến năm 2011, tỷ lệ tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên
năm 2009 là 144%, năm 2010 là 166%, năm 2011 là 146%, nhưng vẫn được NSNN
cấp bổ sung kinh phí: năm 2009 là 431 triệu đồng, năm 2010 là 200 triệu đồng...).
Thứ tư, quản lý các hoạt động dịch vụ còn nhiều sai sót, thiếu hướng dẫn:
Hoạt động dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp cũng đã đóng góp một phần đáng kể
22
nguồn thu cho đơn vị, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên... song việc quản lý
hoạt động dịch vụ tại các đơn vị cũng còn nhiều tồn tại như: chưa hướng dẫn giá thu
dịch vụ, phân phối việc liên kết với các tổ chức cá nhân có máy móc thiết bị (tại các
bệnh viện thuộc Bộ Y tế) hạch toán thiếu, không kịp thời doanh thu, chi phí dẫn tới
thực hiện nghĩa vụ với NSNN không đầy đủ, thiếu thuế GTGT, thiếu thuế TNDN...
Thứ năm, việc xác định quỹ tiền lương và thu nhập tăng thêm: một số đơn
vị, vừa đồng thời thực hiện các dự án, nhiệm vụ Nhà nước giao, vừa thực hiện hoạt
động kinh doanh dịch vụ, nên không thể tách bạch rõ về quỹ tiền lương, chi phí
quản lý, các khoản chi phí chung... Nhiều đơn vị đã không xây dựng đơn giá tiền
lương, thực hiện hạch toán quĩ tiền lương của hoạt động dịch vụ mà thường ký các
hợp đồng thuê khoán chuyên môn, trả tiền công theo các hợp đồng vụ việc; Như
vậy thực chất đã ẩn cả thu nhập tăng thêm, thậm chí là các khoản chi phúc lợi, lễ
tết... vào trong chi phí trước thuế TNDN, đã dẫn tới giảm số thuế TNDN phải nộp
NSNN và không thể hạch toán được chênh lệch thu-chi, không có nguồn để trích
quỹ theo đúng quy định.
Qui chế chi tiêu nội bộ qui định cụ thể mức chi tiền lương tăng thêm, dẫn tới
hàng tháng đã quyết toán chi tiền lương tăng thêm vào chi thường xuyên, trước khi
xác định chênh lệch thu chi. Do không xác định được chênh lệch thu - chi trước khi
trả tiền lương tăng thêm, trích lập các qũy, nên không đánh giá được kết quả tăng
thu, tiết kiệm chi của các đơn vị; tiền lương tăng thêm và chi khen thưởng, phúc lợi
chưa trở thành động lực khuyến khích tăng thu, tiết kiệm chi.
Cuối cùng, về cơ chế chính sách theo lĩnh vực còn nhiều bất cập và hạn chế:
* Trong lĩnh vực Giáo dục, Đào tạo:
Về chính sách học phí: Với khung học phí như hiện nay, để tăng thu, nhiều
đơn vị đã qui định các khoản thu thêm không có quy định của cấp có thẩm quyền.
Khung thu học phí đào tạo không chính qui chưa bao quát hết các loại hình đào tạo,
về học phí đào tạo các hệ không chính qui cần được nghiên cứu, sửa lại theo hướng:
cụ thể hoá thêm các loại hình đào tạo, xác định lại khung học phí phù hợp, mức cụ
thể do các đơn vị đào tạo tự quyết định.
23
Về chính sách lệ phí: Việc tuyển sinh hệ chính quy: các đơn vị thu đúng mức
qui định, nhưng cũng không đủ chi nên đã sử dụng các nguồn thu sự nghiệp hoặc
NSNN cấp để bù đắp chi; Việc tuyển sinh sau đại học: nhiều đơn vị đã thu lệ phí
tuyển sinh cao hơn qui định, do số lượng thí sinh dự thi ít nên số thu được không đủ
chi; Việc tuyển sinh các hệ không chính qui: hầu hết các đơn vị đều thu cao hơn qui
định mới đủ chi do phải tuyển sinh nhiều đợt, số thi sinh tham dự thi ít...Từ bất cập
đó, cần phải được nghiên cứu sửa đổi lại chính sách lệ phí theo hướng: bổ sung
thêm qui định về mức thu lệ phí tuyển sinh các hệ đào tạo không chính qui, mức thu
lệ phí của các hệ tuyển sinh nên qui định theo khung, mức cụ thể do các trường tự
qui định cho phù hợp với tình hình thực tế theo nguyên tắc tự cân đối thu - chi.
* Lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường:
Theo quy định hiện hành, dự án khi lập và phê duyệt dự toán, đơn giá tiền
lương không tính chi phí khấu hao TSCĐ, máy móc thiết bị vì các máy móc, trang
thiết bị là do NSNN đã đầu tư và trang bị cho các đơn vị. Tuy nhiên, trong xu thế
cải cách tài chính công hiện nay, NSNN sẽ giảm dần, tiến tới không cấp kinh phí
mua sắm trang thiết bị, tài sản cho các đơn vị này, vì vậy việc không tính chi phí
khấu hao máy móc, thiết bị, tài sản vào đơn giá thì về lâu dài các đơn vị sẽ không có
nguồn để tiếp tục tái đầu tư phát triển các hoạt động sự nghiệp.
* Lĩnh vực Thông tin và Truyền thông:
Các cơ quan có thẩm quyền chưa có văn bản hướng dẫn về việc thu lệ
phí cấp giấy phép nhập khẩu đối với loại thiết bị thu phát sóng vô tuyến điện, nên
đơn vị đã không thực hiện thu phí cấp giấy phép nhập khẩu thiết bị này chưa có quy
định về việc quản lý thu, chi đối với hoạt động duy trì, khai thác hệ thống trung
chuyển lưu lượng Internet quốc gia.
Tỷ lệ phí, lệ phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành, cho phép đơn vị được
để lại số thu lớn hơn nhu cầu chi thực tế của đơn vị, là không hợp lý và công bằng.
Ví dụ có đơn vị tỷ lệ phí, lệ phí được để lại cao (90%), thực tế chi phí hoạt động
hàng năm thấp; cụ thể: năm 2006 số chi hoạt động chỉ bằng 18,66% số thu, năm
24
2007 là 30,68%; năm 2008 là 32,63% và năm 2009 là 34,12%... do được để lại
nhiều, nên đơn vị đã chi tiền lương tăng thêm rất cao.
Một số nguyên nhân:
- Công tác tuyên truyền, triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở một
số Bộ, ngành, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, vì vậy một bộ phận cán bộ
chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ dẫn đến chưa thực hiện đúng tinh thần Nghị định số
43/2006/NĐ-CP.
- Cơ chế quản lý và phương thức hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công lập chưa được đổi mới đồng bộ dẫn đến chất lượng và hiệu quả
cung ứng các dịch vụ sự nghiệp chưa tương xứng
- Các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chưa thực sự quan tâm việc trao quyền tự
chủ tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế nên chậm
hướng dẫn.
- Một số Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương chưa có biện pháp đôn đốc,
kiểm tra thường xuyên các đơn vị triển khai thực hiện theo quy định của Nghị định
số 43/2006/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính; một số địa phương
chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác triển khai thực hiện giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp. Một bộ phận cán bộ, viên chức, người
lao động đơn vị sự nghiệp công lập nhận thức chưa đầy đủ về nội dung, mục đích và
yêu cầu về thực hiện giao quyền tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp, vẫn còn mang
nặng tâm lý ỷ lại, trông chờ bao cấp của nhà nước, e ngại khi thay đổi cơ chế quản lý.
1.2.2. Thực trạng hiệu quả việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tài chính trong các trường đại học và cao đẳng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tài chính cho 54 đơn vị theo công văn số 2971/BTC-HCSN ngày 14/3/2008 về
việc phân bổ dự toán NSNN (đợt II) và giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị
sự nghiệp, gồm:
- 08 đơn vị được giao tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên
- 35 đơn vị được giao tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên
25
- 09 đơn vị là đơn vị do NSNN đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động
[Nguồn: Báo cáo của Bộ Giáo dục – Đào tạo năm 2012]
* Về xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
Triển khai thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04//2006 của
Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài
chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo 54 đơn vị được giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính tổ chức xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định để
quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động thường xuyên, công khai trong đơn vị. Kết
quả thực hiện đến nay đã có 54/54 đơn vị đã xây dựng, ban hành quy chế chi tiêu
nội bộ.
Một số kết quả đạt được:
Thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho 54 đơn vị
trực thuộc Bộ, kết quả đạt được rất thuận lợi về quản lý và sử dụng so với cơ chế
trước đây, cụ thể là:
Thủ tục hành chính giảm thiểu đáng kể các thủ tục xác nhận và phê duyệt chi
tiêu cụ thể của Bộ với đơn vị, góp phần cải cách hành chính trong quản lý, không
còn tình trạng chờ đợi cấp trên phê duyệt, các đơn vị phải chịu trách nhiệm về quyết
định nội dung, chi tiêu cụ thể, tự đào tạo đội ngũ cán bộ và nâng cao năng lực trong
công tác quản lý.
Nhiều đơn vị đã có nhiều đổi mới trong hoạt động để mở rộng nguồn thu, cải
thiện thu nhập, tăng thu nhập cho người lao động, trích lập các quỹ khen thưởng,
phúc lợi chăm lo cho người lao động.
Nhiều đơn vị đã tự chủ động cân đối tài chính cho hoạt động, nhưng chi tiêu
rất tiết kiệm so với chế độ cho phép, đối với đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí
hoạt động thường xuyên, được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người
lao động không quá 3 tháng lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định.
Nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị trực thuộc Bộ, tăng hơn so với các năm
trước do Nhà nước có sự điều chỉnh về mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh, điều này
đã phần nào giảm bớt khó khăn về kinh phí cho các trường trong điều kiện hơn 10