Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước cấp huyện tại huyện viengphukha, tỉnh luangnamtha, cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.48 KB, 115 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hình vẽ


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

CHDCND Lào

Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

HĐND

Hội đồng Nhân dân

KT - XH

Kinh tế - Xã hội



NS

Ngân sách

NSĐP

Ngân sách Địa phương

NSTW

Ngân sách Trung ương

NSNN

Ngân sách Nhà nước

UBND

Ủy ban nhân dân


3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TT

Tên bảng

Trang



4

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TT

Tên hình

Trang


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự tồn tại và phát triển của một Nhà nước luôn luôn cần thiết
phải có nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động chi tiêu thường
xuyên, chi đầu tư xây dựng cơ bản của những tổ chức, cơ quan,
đơn vị thuộc bộ máy quản lý Nhà nước. Để đáp ứng nguồn kinh phí
đó Nhà nước phải tạo ra các nguồn thu để đảm bảo, đó là các
nguồn thu từ các loại thuế và các nguồn khác. Tất cả quá trình thu
nộp và sử dụng nguồn kinh phí đó của Nhà nước đều phải được
phản ánh qua NSNN.
NSNN là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo trong hệ
thống tài chính của mỗi quốc gia, là nguồn lực vật chất để Nhà
nước duy trì hoạt động của bộ máy quản lý và thực thi các nhiệm
vụ phát triển KT - XH của đất nước. Với bất cứ một quốc gia nào,
NSNN cũng luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Vì vậy, Chính phủ
các nước luôn tạo lập cơ chế và có biện pháp để không ngừng tăng

cường tiềm lực của NSNN và sử dụng nó một cách tiết kiệm có
hiệu quả. NSNN cấp huyện, xã là một bộ phận cấu thành NSNN và
là công cụ để chính quyền cấp huyện, xã thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình quản lý kinh tế xã hội, an
ninh quốc phòng.
Huyện Viengphukha là một huyện miền núi thuộc tỉnh
Luangnamtha, CHDCND Lào. Huyện có trên 85% diện tích là đồi
núi, trong huyện có 46 làng, các làng phân bố không tập trung,
nghề nghiệp chính của người dân là làm ruộng, làm nương, trồng
trọt, chăn nuôi do đó kinh tế - xã hội còn kém phát triển, sở hạ
tầng còn hạn chế, khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư từ bên
ngoài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây cùng với quá trình đổi


6

mới kinh tế đất nước, huyện Viengphukha đã không ngừng thay
đổi và phát triển KT - XH, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện phần nào. Để đạt được những thành tựu đó
không thể không kể tới sự đóng góp của công tác quản lý NSNN,
nhờ có sự đổi mới và đạt được nhiều tiến bộ trong công tác quản lý
ngân sách của huyện đã tạo ra tiềm lực tài chính là cơ sở để phát
triển KT – XH của huyện.
Tuy vậy, qua tìm hiểu thực tế cho thấy công tác quản lý
NSNN tại huyện Viengphukha vẫn còn nhiều bất cập như: còn để
sót một số khoản thu; chi ngân sách còn lãng phí, dàn trải chưa
tiết kiệm; hiệu quả các đơn vị dự toán ngân sách gò bó vào chính
sách chế độ, tiêu chuẩn định mức nhưng lại không bị ràng buộc về
hiệu quả sử dụng ngân sách được giao; tính năng động và tích cực
của đơn vị sử dụng ngân sách chưa phát huy, tâm lý ỷ lại trông chờ

vào NSNN còn phổ biến; đội ngũ cán bộ quản lý NSNN của huyện
còn hạn chế về chuyên môn, chậm đổi mới nên dẫn đến nhiều sai
sót trong quản lý… Điều đó ảnh hưởng không tốt đến việc huy
động và khai thác các nguồn lực cho đầu tư nhằm đạt được các
mục tiêu phát triển và giải quyết được các vấn đề xã hội.
Xuất phát từ đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Tăng cường quản
lý ngân sách nhà nước cấp huyện tại huyện Viengphukha,
tỉnh Luangnamtha, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” làm
luận văn tốt nghiệp với mục đích góp phần hoàn thiện công tác
quản lý NSNN cấp huyện tại huyện Viengphukha nói riêng và NSNN
tại Lào nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra một số giải pháp
tăng cường công tác quản lý NSNN cấp huyện tại huyện


7

Viengphukha, tỉnh Luangnamtha, CHDCND Lào nhằm nâng cao
hiệu quả công tác thu – chi NSNN tại huyện, góp phần vào sự phát
triển kinh tế xã hội của huyện..
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về công tác quản lý NSNN cấp huyện và các yếu tố tác động đến
công tác quản lý NSNN cấp huyện. Tập trung vào các vấn đề: từ
khâu lập dự toán, quản lý thu chi NSNN, quyết toán NSNN cho đến
thanh kiểm tra, giám sát thu chi NSNN để tìm ra các giải pháp
hoàn thiện khâu quản lý thu, chi NSNN cấp huyện tại huyện
Viengphukha, tỉnh Luangnamtha, CHDCND Lào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Công tác quản lý NSNN cấp huyện tại

huyện Viengphukha, tỉnh Luangnamtha, CHDCND Lào, các tài liệu
thu thập để phục vụ cho công tác nghiên cứu từ năm 2013 đến
2015.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề:
- Những lý luận liên quan đến công tác quản lý NSNN cấp
huyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý NSNN cấp
huyện tại huyện Viengphukha, tỉnh Luangnamtha, CHDCND Lào để
từ đó chỉ ra các hạn chế, bất cập trong công tác này tại huyện.
- Trên cơ sở đánh giá những hạn chế bất cập ở trên, luận văn
đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý NSNN cấp
huyện tại huyện Viengphukha và tại các huyện nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu


8

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt trong đề
tài là phương pháp duy vật biện chứng. Dựa vào phương pháp này,
các khoản thu, chi NSNN được xem như một hệ thống luôn biến
đổi, vận động và do đó cần được quan tâm đổi mới. Đồng thời, còn
sử dụng phương pháp quy nạp, phân tích tổng hợp, thống kê, so
sánh dựa trên lý thuyết quản lý nhà nước về quản lý kinh tế, kinh
tế học vĩ mô, vi mô, kinh tế ngành như: Lý thuyết tài chính - tiền
tệ, Ngân hàng, Thuế, Kho bạc, Thống kê kinh tế,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa những lý luận về công tác
quản lý NSNN nói chung và quản lý NSNN cấp huyện nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả phân tích và lựa chọn giải

pháp tăng cường công tác quản lý NSNN cấp huyện được nghiên
cứu trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo có
giá trị cho huyện Viengphukha và các huyện khác về việc tăng
cường công tác quản lý NSNN cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Tổng quan lý luận và thực tiễn về quản lý ngân
sách nhà nước cấp huyện
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân sách nhà nước
cấp huyện tại huyện Viengphukha, tỉnh Luangnamtha, Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác quản lý ngân sách
nhà nước cấp huyện tại huyện Viengphukha, tỉnh Luangnamtha,
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.


9


10

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP HUYỆN
1.1. Tổng quan lý luận về quản lý ngân sách nhà nước cấp
huyện
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù kinh tế, lịch sử gắn liền với sự hình

thành và phát triển của Nhà nước và của hàng hóa, tiền tệ. Nhà
nước với tư cách là cơ quan quyền lực thực hiện duy trì và phát
triển xã hội thường quy định các khoản thu mang tính bắt buộc
các đối tượng trong xã hội phải đóng góp để đảm bảo chi tiêu cho
bộ máy Nhà nước, quân đội, cảnh sát, giáo dục. Trải qua nhiều giai
đoạn phát triển của các chế độ xã hội, nhiều khái niệm về NSNN
đã được đề cập theo các góc độ khác nhau. Một số khái niệm về
NSNN có thể kể đến như sau:
NSNN là một văn kiện lập pháp hay một đạo luật chứa đựng
hay có kèm theo một bảng kê khai các khoản thu chi dự liệu cho
một thời gian nào đó, là một khuôn mẫu mà các cơ quan lập pháp,
hành pháp cùng các cơ quan hành chính phụ thuộc phải tuân theo
[16].
NSNN là kế hoạch thu chi tài chính hàng năm của Nhà nước
được xét duyệt theo trình tự pháp định [17].
NSNN là bản dự toán (bản ghi) cân đối hàng năm về thu, chi
cho các cơ quan chính quyền Nhà nước [8].


11

NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà
nước" [17].
Về hình thức, các khái niệm này có sự khác nhau nhất định,
tuy nhiên, chúng đều phản ánh về các kế hoạch, dự toán thu, chi
của Nhà nước trong một thời gian nhất định với hình thái biểu hiện
là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và Nhà nước sử dụng quỹ
tiền tệ tập trung đó để trang trải cho các chi tiêu gồm: chi cho

hoạt động của bộ máy Nhà nước, chi cho an ninh quốc phòng, chi
cho an sinh xã hội...
Trong thực tiễn hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo thu) và
chi tiêu (sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài
chính vận động giữa một bên là Nhà nước với một bên là các chủ
thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc
dân dưới hình thức giá trị. Đằng sau các hoạt động thu chi đó chứa
đựng các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác.
Nói cách khác, NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước
với các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế - xã hội và trong phân
phối tổng sản phẩm xã hội. Thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập
bằng tiền của các chủ thể thành thu nhập của Nhà nước và Nhà
nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thụ hưởng
nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Năm ngân sách hay còn gọi là năm tài chính, là giai đoạn mà
trong đó, dự toán thu - chi tài chính đã được phê chuẩn của Quốc
hội có hiệu lực thi hành. Ở tất cả các nước, năm ngân sách đều có
thời hạn bằng một năm dương lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết


12

thúc ở mỗi nước có khác nhau. Ở đa số các nước, năm ngân sách
trùng với năm dương lịch (bắt đầu ngày 1/1 và kết thúc vào ngày
31/12), như: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc, Philipine, ... Ở các nước
khác, thời điểm bắt đầu và kết thúc năm ngân sách không giống
nhau như: Anh, Nhật, Canada, Singapore, .... có năm ngân sách
bắt đầu vào ngày 1/4 năm trước và kết thúc vào ngày 31/3 năm
sau; Ý, Na Uy, Đài Loan, Úc... có năm ngân sách bắt đầu vào ngày

1/7 năm trước và kết thúc vào ngày 30/6 năm sau; Mỹ có năm
ngân sách bắt đầu vào ngày 1/10 năm trước và kết thúc vào ngày
30/9 năm sau.
Việc quy định năm ngân sách hoàn toàn là ý định chủ quan
của Nhà nước. Tuy nhiên, ý định này cũng bắt nguồn từ những yếu
tố tác động khác nhau, trong đó có hai yếu tố cơ bản là:
- Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế có liên quan đến
nguồn thu của NSNN (chế độ kế toán, thống kê; tính thời vụ của
sản xuất nông nghiệp).
- Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp (các kỳ họp của
Quốc Hội để phê chuẩn NSNN).
Ở Lào, năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 và kết
thúc ngày 30 tháng 9 của năm tiếp theo.
1.1.1.2. Đặc điểm của NSNN
- Đặc điểm 1: Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn với
quyền lực của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà
nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định.
- Đặc điểm 2: NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn
chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Lợi ích của Nhà nước
(lợi ích chung của quốc gia ) thể hiện trong phân phối thu nhập


13

của các doanh nghiệp, của dân cư, phân phối GDP, GNP và cả
trong phân bổ các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng của quốc gia.
- Đặc điểm 3: Quỹ NSNN luôn được phân chia thành các quỹ
tiền tệ nhỏ hơn trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình phân chia quỹ
NSNN chính là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành
các loại quỹ nhằm thoả mãn các nhu cầu chi tiêu của các lĩnh vực,

các ngành theo yêu cầu quản lý của Nhà nước.
- Đặc điểm 4: Hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện theo
nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.1.3. Vai trò của NSNN
Có những thời điểm Nhà nước thường điều hành kinh tế bằng
mệnh lệnh hành chính và bỏ qua các quy luật kinh tế cơ bản. Sự
can thiệp đó không làm cho kinh tế của quốc gia phát triển được
và hậu quả là nền kinh tế trì trệ, tệ quan liêu xa rời thực tế phát
triển, trật tự xã hội không ổn định. Sự can thiệp của Nhà nước tại
các quốc gia hiện nay là tôn trọng các quy luật kinh tế cơ bản, các
quy luật thị trường, sử dụng triệt để các công cụ, chính sách tài
chính tiền tệ và các công cụ khác để tác động vào nền kinh tế và
thúc đẩy kinh tế phát triển, trong các công cụ trên, công cụ đặc
biệt quan trọng luôn được sử dụng là NSNN.
NSNN có vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo các
chi tiêu của Nhà nước, giúp Nhà nước có đủ sức mạnh để làm chủ
và điều tiết thị trường, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế;
NSNN là công cụ có tác động mạnh mẽ đến công cuộc đổi mới của
một quốc gia, đưa quốc gia đó nhanh chóng tiến tới các mục tiêu
đã hoạch định, thể hiện như sau:


14

a. Về kinh tế
NSNN giữ vai trò điều chỉnh nền kinh tế phát triển cân đối
giữa các ngành, các vùng, lãnh thổ, hạn chế những khuyết tật của
cơ chế thị trường chống độc quyền, chống liên kết nâng giá hoặc
cạnh tranh không bình đẳng làm tổn hại chung đến nền kinh tế.
NSNN còn giành một phần khác đầu tư cho các doanh nghiệp công

ích, doanh nghiệp cần thiết cho dân sinh; NSNN đã đảm bảo nguồn
kinh phí hợp lý để đầu tư cho xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng, tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự hình thành các doanh
nghiệp thuộc các ngành then chốt, các tập đoàn kinh tế, các Tổng
công ty, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác ra
đời và phát triển. Các chính sách thuế cũng là một công cụ sắc bén
để định hướng đầu tư nó có tác dụng kiềm chế hoặc kích thích sản
xuất kinh doanh, xuất khẩu hay nhập khẩu, có tác động đến tổng
cung, tổng cầu của kinh tế và điều tiết nền kinh tế theo định
hướng của Nhà nước.
b. Về xã hội
Kinh phí của NSNN được cấp phát cho tất cả các lĩnh vực điều
chỉnh của Nhà
nước. Khối lượng và kết quả quản lý, s ử dụng nguồn kinh phí này
cũng quyết định mức độ thành công của các chính sách xã hội.
Trong giải quy ết các vấn đề xã hội , Nhà nước cũng sử dụng công
cụ thuế để điều chỉnh, các loại thuế trực thu và gián thu ngoài mục
đích trên cũng có tác dụng hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.
Kinh phí của NSNN được chi cho các sự nghiệp quan trọng
của Nhà nước như sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp văn hóa, sự nghiệp
giáo dục - đào tạo, sự nghiệp khoa học... về hình thức là chi tiêu


15

dùng nhưng thực chất là đầu tư lâu dài đảm bảo cho xã hội phát
triển trong tương lai, ngang tầm của yêu cầu hội nhập và phát
triển, vì vậy NSNN có vai trò đối với xã hội rất lớn.
Như vậy, NSNN là công cụ rất quan trọng để tác động vào
nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã

hội, là hình thức cơ bản để hình thành và sử dụng có kế hoạch quỹ
tiền tệ tập trung nhằm mở rộng sản xuất theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Ngân sách được dùng để khuyến khích sử dụng hợp lý tài nguyên
trong tất cả các thành phần kinh tế, các ngành sản xuất xã hội,
phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường. NSNN được sử dụng
không chỉ nhằm đảm bảo sự tăng trưởng về của cải vật chất mà
còn cả sự phát triển về mặt văn hóa - xã hội.
c. Về thị trường
NSNN có vai trò quan trọng trong việc thực hiện điều tiết thị
trường, bình ổn giá cả và hạn chế lạm phát. Chính việc sử dụng
nguồn quỹ tài chính,những chính sách chi tiêu tài chính trong từng
thời điểm giúp cho việc hạn chế lượng tiền mặt lưu thông góp phần
kiềm chế lạm phát. Để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả Nhà
nước thường sử dụng các biện pháp: tạo lập các quỹ dự trữ về
hàng hóa và tài chính tạo lập và sử dụng quỹ Quốc gia hỗ trợ việc
làm …
Ngoài ba vai trò trên, NSNN còn có vai trò củng cố, tăng
cường sức mạnh bộ máy nhà nước, bảo vệ đất nước, giữ gìn an
ninh; vai trò kiểm tra các hoạt động tài chính khác trong việc làm
nghĩa vụ nộp thuế, các khoản phải nộp, trong việc sử dụng các tài
sản quốc gia và thực hiện các pháp luật, chính sách về ngân sách
và các pháp luật, chính sách khác có liên quan.


16

1.1.1.4. Hệ thống NSNN
NSNN


NSTW

NSĐP

NgânNgân
sách sách thành phố trực thuộc Trung ương
Ngân sách
Tỉnh
đặc thù khu vực
trực thuộc
trung ương

Ngân sách
Huyện
Hình 1.1: Hệ thống NSNN của nước CHDCND Lào
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ
với nhau, có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ thu chi của từng cấp NS. Hệ thống NSNN
ở Lào đã được triển khai từ năm 1999 và hiện nay được thực hiện
theo Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi số 02/QH, ban hành ngày
26/12/2006. Theo điều 34 của Luật này, hệ thống NSNN gồm có:
Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Hệ thống NSNN
của nước CHDCND Lào hiện nay được thể hiện trong hình 1.1.
Tổ chức hệ thống NSNN luôn gắn liền với việc tổ chức bộ máy
Nhà nước và vai trò, vị trí bộ máy đó trong quá trình phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước, mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân
sách riêng, cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc



17

hình thành hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp là một tất yếu
khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
trên mọi vùng của đất nước. Sự ra đời của hệ thống chính quyền
Nhà nước là tiền đề để tổ chức hệ thống NSNN nhiều cấp.
Hệ thống ngân sách nhà nước của Lào gồm có NSTW và
NSĐP: NSTW gồm có thu - chi của các bộ cơ quan ngang bộ, mật
trận tổ quốc và cơ quan tổ chức quần chúng cấp Trung ương. NSĐP
gồm thu - chi ngân sách của cơ quan địa phương, mật trận tổ quốc
và cơ quan tổ chức quần chúng cấp địa phương. NSĐP là thực hiện
cân đối các khoản thu và các khoản chi của Nhà nước tại địa
phương, cùng NSTW thực hiện vai trò của NSNN, điều tiết vĩ mô
nền kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Thông qua việc huy động
các khoản thuế theo pháp luật và sử dụng các nguồn quỹ ngân
sách, thực hiện phân bổ chi tiêu, NSĐP góp phần điều chỉnh cơ cấu
kinh tế của địa phương, định hướng đầu tư, sản xuất kinh doanh
trên địa bàn, vùng lãnh thổ.
Trong đó, NSNN cấp huyện là một bộ phận của NSĐP; dự toán
thu, chi NSNN cấp huyện được lập theo phân cấp của cơ quan có
thẩm quyền đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước ở cấp huyện bao gồm nhiệm
vụ của cấp huyện và nhiệm vụ điều hành kinh tế xã hội của địa
phương do huyện quản lý. Theo đó, chính quyền cấp huyện phải
chấp hành các quy định của hiến pháp, pháp luật và sáng tạo
trong việc khai thác các thế mạnh trên địa bàn huyện để tăng
nguồn thu, bảo đảm chi và thực hiện cân đối NSNN của cấp huyện.
Ở Lào, không có ngân sách cấp bản, làng, xã.
Nguồn thu NSNN tại Lào gồm có: thu từ trong nước và thu từ
nước ngoài. Các nguồn thu NSNN trong nước được thu từ thuế xuất



18

- nhập khẩu; hải quan (thuế hải quan); tài sản Nhà nước; vốn hoặc
quỹ của Nhà nước; cơ quan dịch vụ chuyên môn; lãi suất cho vay,
đền bù vốn vay; bán tài sản và cổ phần Nhà nước; phạt, hàng hoá
đã thu về vì không đúng pháp luật; huy động vốn, sự đóng góp của
cá nhân và tổ chức; lệ phí và v.v…Còn những nguồn thu từ nước
ngoài là nguồn thu từ sự hỗ trợ (giúp không) bằng hình thức tiền
mặt hoặc vật chất từ chính phủ, cơ quan tổ chức quốc tế, cá
nhân… Nước ngoài cho chính phủ và nhân dân Lào.
Nhiệm vụ chi NSNN tại Lào gồm có: chi phục vụ hành chính
thường xuyên; chi trả nợ; chi đầu tư để phát triển KT - XH quốc gia;
chi vốn, cơ quan dịch vụ hành chính chuyên môn; chi tiền tích luỹ
Chính phủ và tiền tích luỹ địa phương và chi khác…(i) Chi phục vụ
công tác hành chính thường xuyên là chi để phục vụ bộ máy của
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan tổ chức quần chúng, lực
lượng quốc phòng - an ninh mà gồm có chi tiền lương, chi hỗ trợ
khác cho công chức, tiền hành chính thường xuyên, chi phục vụ
chuyên môn từng ngành. (ii) Chi trả nợ gồm có trả nợ đầu vốn và
lãi suất vốn vay trong nước và quốc tế, trả nợ vốn vay, tiền nghĩa
vụ đóng góp tổ chức quốc tế. (iii) Chi đầu tư để phát triển KT - XH
quốc gia gồm: chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mua cổ phần
công ty và doanh nghiệp, chi mua vật tự mới như: phương tiện, cơ
khí và vật liệu.
1.1.2. Quản lý NSNN
1.1.2.1. Khái niệm
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý bằng một hệ thống phương pháp nhằm thay đổi trạng thái

của đối tượng quản lý, tiếp cận đến mục tiêu cuối cùng phục vụ
cho lợi ích của con người, quản lý là hoạt động có mục đích của


19

chủ thể tuân theo những nguyên tắc nhất định và là quá trình thực
hiện đồng thời hàng loạt các chức năng liên kết hữu cơ với nhau từ
dự đoán - kế hoạch hóa - tổ chức thực hiện - động viên phối hợp điều chỉnh - hạch toán - kiểm tra.
Quản lý NSNN là việc sử dụng những công cụ, biện pháp tổng
hợp để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành
quỹ NSNN và thực hiện phân phối, sử dụng nguồn quỹ đó một cách
hợp lý, có hiệu quả nhằm thoả mãn các nhu cầu của Nhà nước và
đạt được những mục tiêu kinh tế, xã hội.
Quản lý NS phải được thực hiện ở tất cả các khâu của chu
trình NS (từ Lập dự toán NS - Chấp hành NS - Quyết toán NS); phải
đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện và quản lý thu, chi NS
trong hệ thống NS các cấp; phải đảm bảo tính cân đối của NS; phải
quản lý rành mạch, công khai để mọi đối tượng biết trong suốt chu
trình NS và phải được áp dụng cho tất cả các cơ quan tham gia vào
chu trình NS (cả ở cơ quan quản lý và cơ quan, đối tượng thụ
hưởng), tạo tiền đề cho mọi đối tượng có thể nhìn nhận được hiệu
quả các chương trình hành động của Chính quyền địa phương trên
cơ sở các chính sách tài chính quốc gia.
1.1.2.2. Nguyên tắc quản lý NSNN
Quản lý NSNN được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản
sau:
a. Nguyên tắc đầy đủ, trọn vẹn
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của
quản lý NSNN.Nội dung của nguyên tắc này là: Mọi khoản thu, chi

phải được ghi đầy đủ vào kế hoạch NSNN, mọi khoản chi phải được
vào sổ và quyết toán rành mạch. Chỉ có kế hoạch NS đầy đủ, trọn


20

vẹn mới phản ánh đúng mục đích chính sách và đảm bảo tính
minh bạch của các tài khoản thu, chi. Nguyên tắc quản lý này
nghiêm cấm các cấp, các tổ chức nhà nước lập và sử dụng quỹ
đen. Điều này có ý nghĩa rằng mọi khoản thu chi của NSNN đều
phải đưa vào kế hoạch NS để Quốc hội phê chuẩn, nếu không việc
phê chuẩn NS của Quốc hội sẽ không có căn cứ đầy đủ, không có
giá trị.
b. Nguyên tắc thống nhất trong quản lý NSNN
Nguyên tắc thống nhất trong quản lý NSNN bắt nguồn từ yêu
cầu tăng cường sức mạnh vật chất của Nhà nước. Biểu hiện cụ thể
sức mạnh vật chất của Nhà nước là thông qua hoạt động thu - chi
của NSNN. Nguyên tắc thống nhất trong quản lý NSNN nước được
thể hiện:
+ Mọi khoản thu - chi của NSNN phải tuân thủ theo những
quy định của Luật NSNN, phải được dự toán hàng năm và được cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt.
+ Tất cả các khâu trong chu trình NSNN khi triển khai thực
hiện phải đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực, ở
Trungương là Quốc hội, ở địa phương là Hội đồng nhân dân.
+ Hoạt động NSNN đòi hỏi phải có sự thống nhất với hoạt
động kinh tế, xã hội của quốc gia. Hoạt động kinh tế, xã hội của
quốc gia là nền tảng của hoạt động NSNN. Hoạt động NSNN phục
vụ cho hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời là hoạt động mang tính
chất kiểm chứng đối với hoạt động kinh tế, xã hội.

c. Nguyên tắc cân đối Ngân sách
NSNN được lập và thu - chi NS phải được cân đối. Nguyên tắc
này đòi hỏi các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đó có đủ các


21

nguồn thu bù đắp. Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân luôn cố
gắng để đảm bảo cân đối nguồn NSNN bằng cách đưa ra các quyết
định liên quan tới các khoản chi để thảo luận và cắt giảm những
khoản chi chưa thực sự cần thiết, đồng thời nỗ lực khai thác mọi
nguồn thu hợp lý mà nền kinh tế có khả năng đáp ứng.
d. Nguyên tắc công khai hóa NSNN
Về mặt chính sách, thu - chi NSNN là một chương trình hoạt
động của Chính phủ được cụ thể hoá bằng số liệu. NSNN phải được
quản lý rành mạch, công khai để mọi người dân có thể biết nếu họ
quan tâm. Nguyên tắc công khai của NSNN được thể hiện trong
suốt chu trình và phải được áp dụng cho tất cả các cơ quan tham
gia vào chu trình NSNN.
e. Nguyên tắc rõ ràng, trung thực, chính xác
Nguyên tắc này là cơ sở, tạo tiền đề cho mỗi người dân có
thể nhìn nhận được chương trình hoạt động của Chính quyền địa
phương và chương trình này phải được phản ánh ở việc thực hiện
chính sách tài chính địa phương.
Nguyên tắc này đòi hỏi NSNN được xây dựng rành mạch, có
hệ thống; Các dự toán thu, chi phải được tính toán một cách chính
xác và phải đưa vào kế hoạch NS; Không được che đậy và bào
chữa đối với tất cả các khoản thu, chi NSNN; Không được phép lập
quỹ đen, NS phụ.
1.1.2.3. Nội dung của quản lý NSNN

a. Hoạch định chính sách ngân sách
Có thể nói chính sách ngân sách là bộ phận cực kỳ quan
trọng có vai trò dẫn đường trong chính sách tài chính Quốc gia, nó
ràng buộc, vạch ranh giới những bộ phận của các nguồn tài chính


22

được phép và có thể tập trung vào quý ngân sách. Đồng thời chính
sách ngân sách định rõ lĩnh vực, quy mô, mức độ chi dùng trong
phạm vi toàn xã hội…
b. Tổ chức cơ chế quản lý ngân sách
Đó là tổng thể các hình thức, phương pháp hình thành tập
trung, phân phối và sử dụng quý ngân sách. Theo cách hiểu này,
cơ chế quản lý ngân sách bao gồm cả các yếu tố bên trong và các
yếu tố bên ngoài của hệ thống ngân sách.
Một cơ chế quản lý được coi là hợp lý khi các bộ phận trong
cơ chế mang tính hệ thống, đồng bộ, không mâu thuẫn nhau làm
hạn chế tác dụng tích cực của cơ chế.
c. Khống chế và kiểm soát mức độ bội chi NSNN
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của quản lý
NSNN là đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi. Thâm hụt ngân sách
nếu không được xử lý đúng đắn sẽ tác hại lớn đến nền kinh tế
thường được giải quyết bằng cách: tăng thu, giảm chi; vay nợ
trong dân và vay nợ nước ngoài; in thêm tiền.
Các biện pháp trên cần được sử dụng một cách linh hoạt. Tuỳ
theo hoàn cảnh cụ thể mà sử dụng đơn lẻ một biện pháp hay kết
hợp nhiều biện pháp ở mức độ hợp lý nhằm xử lý thâm hụt ngân
sách một cách hiệu quả nhất.
d. Tổ chức bộ máy quản lý NSNN

Bộ máy quản lý nói chung cũng như bộ máy quản lý NSNN
nói riêng là bộ phận quan trọng để làm cho chính sách ngân sách,
và cơ chế quản lý NSNN thành hiện thực. Trong đó cán bộ là nhân
tố quyết định hiệu quả của quản lý NSNN. Bộ máy quản lý NSNN
làm sao vừa đảm bảo hoạt động có hiệu quả và hiệu lực.


23

1.1.2.4. Phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý NSNN là xác định phạm vi, quyền hạn,
trách nhiệm của các cấp chính quyền Nhà nước trong việc quản lý,
thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách. Phân cấp quản lý NSNN
nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính cho chính quyền Nhà nước thực
hiện theo chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước ở từng cấp, đồng
thời khuyến khích tính chủ động sáng tạo ở từng cấp chính quyền,
nâng cao hiệu quả các nguồn lực NSNN.
NSNN là một thể thống nhất, trong đó có phân cấp quản lý
phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước theo luật định.
Theo đó phân cấp quản lý NSNN bao gồm: quản lý NSTW và quản
lý NSĐP. Trong đó, quản lý NSĐP bao gồm: quản lý NSNN cấp tỉnh
(thành phố trực thuộc Trung ương); quản lý NSNN cấp huyện
(thành phố trực thuộc tỉnh và các cấp tương đương); quản lý ngân
sách xã (gọi chung cho ngân sách làng, xã, phường, thị trấn).
1.1.3. Quản lý NSNN cấp huyện
1.1.3.1. Khái niệm
NSNN cấp huyện là một bộ phận thuộc NSĐP, là quỹ tiền tệ
tập trung của huyện được hình thành bằng các nguồn thu và đảm
bảo các khoản chi trong phạm vi huyện.
Quản lý NS cấp huyện là quá trình quản lý hệ thống các quan

hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng
quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp huyện; quản lý các
khoản thu, chi của huyện đã dự toán bởi Ủy ban Nhân dân huyện
giao và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của cấp trên giao và Hội đồng nhân dân
huyện đề ra.


24

Ngân sách huyện thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
NSNN trên phạm vi địa bàn huyện; đó là mối quan hệ giữa ngân
sách với các tổ chức, cá nhân trong quá trình phân bổ, sử dụng các
nguồn lực kinh tế của huyện. Ngân sách cấp huyện không có bội
chi ngân sách. Ngân sách huyện có vai trò rất quan trọng trong
hoạt động KT-XH, an ninh, quốc phòng, là công cụ quan trọng của
chính quyền cấp huyện trong việc ổn định, phát triển KT-XH trên
địa bàn.
1.1.3.2. Nội dung quản lý NSNN cấp huyện
Quản lý NS được thực hiện theo một chu trình có ba khâu: lập
NS, thực hiện NS và quyết toán NS. Trong một năm NS, đồng thời
có cả ba khâu đó, chấp hành NS của chu trình hiện tại, quyết toán
NS của chu trình trước và lập NS của chu trình sau. Quản lý NS cấp
huyện cũng tuân thủ chu trình NS trên bao gồm:
a. Lập, duyệt và phân bổ dự toán NS cấp huyện
Mục tiêu cơ bản của việc lập dự toán NS là nhằm tính toán
đúng đắn NS trong kỳ kế hoạch, có căn cứ khoa học và căn cứ thực
tiễn các chỉ tiêu thu, chi của NS trong kỳ kế hoạch.
- Yêu cầu trong quá trình lập NS cấp huyện phải đảm bảo:
+ Kế hoạch NS phải bám sát kế hoạch phát triển kinh tế, xã

hội và có tác động tích cực đối với việc thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội: Kế hoạch NS chỉ mang tính hiện thực khi nó
bám sát kế hoạch phát triển, xã hội, có tác động tích cực đến thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, cũng chính là thực hiện kế
hoạch NS.
+ Kế hoạch NS phải đảm bảo thực hiện đầy đủ và đúng đắn
các quan điểm của chính sách tài chính địa phương trong thời kỳ


25

và yêu cầu của Luật Ngân sách Nhà nước. Hoạt động NS là nội
dung cơ bản của chính sách tài chính. Do vậy, lập NS phải thể hiện
được đầy đủ và đúng đắn các quan điểm chủ yếu của chính sách
tài chính địa phương như: Trật tự và cơ cấu động viên các nguồn
thu, thứ tự và cơ cấu bố trí các nội dung chi tiêu. Bên cạnh đó, NS
hoạt động luôn phải tuân thủ các yêu cầu của Luật NSNN, nên
ngay từ khâu lập NS cũng phải thể hiện đầy đủ các yêu cầu của
Luật Ngân sách nhà nước như: Xác định phạm vi, mức độ của nội
dung các khoản thu, chi phân định thu, chi giữa các cấp NS, cân
đối NS.
- Căn cứ lập NS cấp huyện:
+ Nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Văn hoá - Xã hội đảm bảo
quốc phòng, an ninh của Đảng và Chính quyền địa phương trong
năm kế hoạch và những năm tiếp theo.
+ Lập NS phải dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương trong năm kế hoạch. Kế hoạch phát triển kinh tế,
xã hội là cơ sở, căn cứ để đảm bảo các nguồn thu cho NS. Đồng
thời, cũng là nơi sử dụng các khoản chi tiêu của NS.
+ Lập NS phải tính đến các kết quả phân tích, đánh giá tình

hình thực hiện kế hoạch NS của các năm trước, đặc biệt là của
năm báo cáo.
+ Lập NS phải dựa trên các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn
định mức cụ thể về thu, chi tài chính nhà nước. Lập NS là xây dựng
các chỉ tiêu thu chi cho năm kế hoạch, các chỉ tiêu đó chỉ có thể
được xây dựng sát, đúng, ngoài dựa vào căn cứ nói trên phải đặc
biệt tuân thủ theo các chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi tài


×