Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học theo hướng tích cực ở trường MN hoa lan đông triều quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 37 trang )

Tên đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
HỌC THEO HƯỚNG TÍCH CỰC Ở TRƯỜNG MẦM NON HOA LAN
ĐÔNG TRIỀU - QUẢNG NINH”
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm đầu thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới quá
trình giảng dạy của giáo viên còn nhầm lẫn giữa dạy học thụ động với dạy học
tích cực trong khi đó từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên
không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để
học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức,
kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Giáo viên lên lớp với vai trò là
người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi
hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh chứ không đơn thuần là cô giảng- trò
nghe. Vì vậy việc thay đổi tư duy của người dạy theo xu hướng tích cực là một
trong những nhiệm vụ quan trọng giúp họ tiếp cận với: “Cái nhìn mới- cách làm
hay” nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đúng như nhiều học giả nước ngoài
từng nhận xét:
“Nói đến tư duy là nói đến cách nhìn, cách nghĩ từ đó đề ra cách làm, cách
hành động….Phải thay đổi cái gì lỗi thời lạc hậu không phù hợp với thực tiễn,
với qui luật, cản trở sự phát triển của đất nước, của dân tộc và thay vào đó là
cách suy nghĩ và cách làm khoa học hợp với thực tiễn, đem lại hiệu quả”.
Với cách nhìn như vậy tư duy cốt lõi của của hoạt động dạy học ngày nay
nhằm hình thành phát triển nhân cách cho người học. Trong dạy học tích cực
vấn đề quan trọng là rèn luyện trí óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp học tập, vận dụng kiến thức. Dạy cho người học biết tự học, tự tìm kiếm
hứng thú học tập, sáng tạo phù hợp với điều kiện của từng người để trên cơ sở
khi bước vào cuộc sống học tập, lao động, dù trong hoàn cảnh nào người học


cũng có thể biết tự học để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công việc.
1


Để việc “Dạy học theo hướng tích cực” sự đạt hiệu quả thì phải bắt đầu từ
sự đồng thuận, từ sự tự giác, từ lương tâm trách nhiệm, lòng nhiệt huyết, yêu
nghề, cùng với vốn kiến thức sâu rộng, nắm vững lý luận sư phạm của người
dạy… và có thể nói rộng ra đó chính là phải bắt đầu từ cái “tâm” và cái “tầm”
của người dạy, hay dạy học bây giờ không chỉ dạy học kiến thức từng bộ môn,
mà dạy học cả “ văn hoá từng môn học ”.
Đổi mới tư duy phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ
động nhận thức, khả năng độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo của người học, tránh lối
học vẹt và không có khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề bài
tập, nhận thức là một yêu cầu có ý nghĩa then chốt, là nhiệm vụ quan trọng để
nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài nghiên
cứu:
“Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học theo hướng tích
cực ở trường mầm non Hoa Lan Đông Triều - Quảng Ninh”
Đề tài này tôi nghiên cứu thực trạng về quá trình dạy học tích cực của đội
ngũ giáo viên trong nhà trường giúp cho giáo viên có cách nhìn mới về quá trình
dạy học của chính mình. Phát huy sự chủ động, sáng tạo của chính họ trong việc
tiếp cận những văn bản chỉ đạo của ngành về việc thực hiện chương trình giáo
dục mầm non mới. Đồng thời đưa ra một số biện pháp về việc nâng cao chất
lượng giảng dạy tại trường Mầm non Hoa Lan - Mạo Khê – Đông Triều - Quảng
Ninh năm học 2010-2011.
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự thách thức của quá
trình hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, người lao động
có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới.
Người lao động có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận dụng linh hoạt,

sáng tạo tri thức của nhân loại vào điều kiện và hoàn cảnh thực tế, tạo ra những
sản phẩm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đó là cả một quá trình chuẩn bị lâu dài
đòi hỏi phải có sự đầu tư.
2


Để có nguồn nhân lực trên, yêu cầu đặt ra ngay từ buổi ban đầu là phải đổi
mới giáo dục, trong đó có đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục,
phương pháp dạy và học. Định hướng đổi mới PPD& H đã được xác định trong
Nghị Quyết Trung ương khoá VII, Nghị quyết Trung ương II khoá VIII và được
thể chế hoá trong luật giáo dục sửa đổi ban hành ngày 27/6/2005, điều 2.4 đã ghi
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”
Để phát huy được tính tích cực trong dạy và học, tạo mối quan hệ giữa cô và
trẻ trong nhà trường đòi hỏi phải có sự thay đổi so với mô típ trước đây “ Cô
giảng – trò nghe” khoảng cách giữa cô và trò là khá lớn. Vị trí trung tâm của
người giáo viên không còn ở nghĩa nguyên thuỷ mà đã bắt đầu dịch chuyển
sang học sinh thì giáo viên không chỉ đơn thuần truyền thụ kiến thức cho học trò
tiếp nhận mà còn là sự phản ánh trở lại của chính trò.
Phát huy tính tích cực trong dạy và học trong đó giáo viên tích cực, học sinh
tích cực biết tiếp thu bài giảng và tìm tòi học hỏi những kiến thức liên quan
phục vụ phạm vi bài học để có thể ứng dụng thực tiễn. Mặt khác đòi hỏi cô giáo
cũng phải có phương pháp dạy học tích cực và hướng tới mục tiêu lôi cuốn sự
tham gia của trẻ để tăng cường thêm tính hiệu quả sinh động cho giờ học. Nhiều
khi cùng một nội dung học nhưng sử dụng các phương pháp khác nhau sẽ cho
các kết quả khác nhau. Bởi hơn bất cứ lĩnh vực nào trong xã hội, giáo dục là một
lĩnh vực đặc biệt luôn nhằm đến giá trị nhân cách của con người, nó đòi hỏi sự
tổng hợp về các phương tiện, mục đích, những thao tác có hệ thống và trật tự lô
gíc chặt chẽ.

Ở bậc học mầm non thì việc làm này cần được nhân lên vì người giáo viên
mầm non là người mẹ thứ 2 của trẻ ở trường. Đến trường trẻ thực sự được quan
tâm bằng cả một tình yêu thương cao cả mà chỉ ở người mẹ mới có. Đó cũng là
điều đặc biệt hơn cả mà bất kỳ một bậc học nào cũng không thể có được, việc
dạy học theo hướng tích cực đã khiến mối quan hệ mẹ - con trong nhà trường bắt
đầu có sự thay đổi, vị trí trung tâm của người “mẹ” không còn ở nghĩa nguyên
3


thuỷ mà đã bắt đầu dịch chuyển sang “Con” bằng con đường tình cảm, bằng tri
thức của nhân loại.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Nằm trong khuôn viên của Công ty than Mạo Khê, trường mầm non Hoa
Lan là một trường tập chung có 10 lớp mẫu giáo và 2 nhóm trẻ với tổng số là 342
học sinh và 32 cán bộ, giáo viên. Cùng với việc tiếp tục triển khai thực hiện
Chương trình giáo dục mầm non mới, giúp cho đội ngũ giáo viên có sự đổi mới
về tư duy giảng dạy của mình, cập nhật kịp thời những quan điểm chỉ đạo của
ngành về việc: “Lấy trẻ làm trung tâm” thì việc dạy học theo hướng tích cực là
sự quan tâm và trăn trở của những người làm công tác chỉ đạo trong nhà trường.
Trên thực tế, qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy,
lại vừa là chủ thể của hoạt động học, thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo
của giáo viên, trẻ phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ
năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy,
nếu trẻ không tự giác chủ động, không chịu học, không có phương pháp học tốt
thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của trẻ, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ
không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để
dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy
theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy.

Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trẻ cũng ảnh
hưởng tới cách dạy của cô. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp
tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học
thì mới thành công. Như vậy, "Dạy và học tích cực" khác xa so với "Dạy và học
thụ động".
Thực tế quá trình giáo dục trong nhà trường cho thấy một cô dạy cho một
lớp đông trẻ, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có
điều kiện chăm lo cho từng trẻ nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo - đồng
4


loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là
truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình yêu cầu, cố gắng làm
cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều cô giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học
tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng,
hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội
hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, bản thân tôi thiết nghĩ phải phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh, thực hiện "dạy học phải quan tâm đến nhu cầu,
khả năng của mỗi cá nhân trẻ trong tập thể lớp”. Chính vì vậy mà tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài nghiên cứu này.

5


II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1 ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC THEO HƯỚNG TÍCH CỰC TẠI TRƯỜNG MẦM NON HOA LAN
2.1.1 Khảo sát thống kê
Trường Mầm non Hoa Lan là một trường thị trấn miền núi với 2 nhóm trẻ và
10 lớp mẫu giáo tổng số 342 học sinh

- Tổng số CBGVNV là 34 đồng chí
Trong đó BGH:
+GV Biên chế:

03
06

+ Hợp đồng trong biên chế: 21
+ Nhân viên:

04

- Trình độ đội ngũ giáo viên
+ Đại học:

06

+ Đang học đại học: 07
+ Cao đẳng:

05

+ Trung cấp:

02

- Về CSVC của nhà trường năm học 2010- 2011 đã có một cơ sở vật chất
tương đối ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của cô và trò. Mặt
khác sự tin tưởng của các bậc phụ huynh gửi con ngày một đông vào trường học
tạo lên một tinh thần phấn khởi cho đội ngũ cán bộ giáo viên. Song bên cạnh đó

cũng không tránh khỏi những hạn chế về tư duy giảng dạy trong qúa trình dạy
học độc lập của mỗi giáo viên.
2.1.2.Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động dạy học đổi mới theo hướng
tích cực của giáo viên trường mầm non Hoa Lan.
Tiến hành điều tra thực trạng giáo viên nhằm đánh giá tình hình chung của
việc “dạy học theo hướng tích cực” trong các hoạt động dạy trẻ làm cơ sở
nghiên cứu và đế xuất một số biện pháp đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy
học trong nhà trường
* Nội dung khảo sát
6


÷Điều tra nhận thức của giáo viên xem họ có cập nhật được quan điểm đổi
mới về phương pháp dạy học trong giáo dục mầm non hay không
- Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc dạy học đổi mới theo
hướng tích cực trong trường mầm non
Tổng số giáo viên được khảo sát: 24 đồng chí
Rất quan
Mức độ nhận thức của GV

trọng
SL
%

Quan trọng

Ít quan trọng

SL


%

SL

%

Vai trò của hoạt động dạy học
đổi mới theo hướng tích cực

18

75%

6

25%

0

0

16

66,6%

8

33,3%

0


0

18

75%

6

25%

0

0

trong trường MN
Chọn nội dung dạy học theo
hướng đổi mới tích cực phù
hợp với chủ đề và khả năng
nhận thức của trẻ
Việc tổ chức dạy học đổi mới
theo hướng tích cực đã lựa
chọn
• Mức độ tham gia tổ chức hoạt động dạy học cho trẻ theo hướng đổi
mới

Mức độ tham gia

Thường xuyên
7


Thỉnh thoảng

Chưa bao giờ


SL

%

SL

%

SL

%

Khám phá khoa học

8

33.3

12

50

4


16,6

Văn học

7

29,1

12

50

5

20,8

Tạo hình

5

20,8

17

70,8

2

8,3


Chữ cái

5

28,8

18

75,8

1

4,1

Toán

7

29,1

15

62,5

2

8,3

Âm nhạc


4

16,6

18

75,8

2

4,1

Thể dục

12

50

11

45,8

1

Nội dung

4,1

* Đánh giá thực hiện của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động cụ thể theo
hướng đổi mới tích cực:

- GV có thực hiện nhưng chưa thường xuyên
- Tổ chức các hoạt động dạy học cho trẻ nhưng chưa phát huy được tính tích
cực, sáng tạo của trẻ trong từng hoạt động cụ thể
- Trong qúa trình tổ chức vận dụng các phương pháp, biện pháp thực hành
dạy học chưa linh hoạt, sáng tạo cho nên chất lượng giờ dạy đạt hiệu quả chưa
cao.
8


* Ảnh hưởng nguyên nhân dẫn tới mức độ tham gia hoạt động và chất
lượng giảng dạy của giáo viên
Ý kiến giáo viên
SL
%

Yếu tố ảnh hưởng
1. Phương tiện thực hành còn hạn
chế
2. Môi trường giáo dục chật hẹp
3. Ý thức của giáo viên
4. Kiến thức của giáo viên
5. Chương trình giáo dục mầm non
mới còn khó
6. Lựa chọn và sử dụng các
phương pháp giáo dục còn hạn chế
7. Kỹ năng sư phạm của từng
người

15


62,5%

24
22
22

100%
91,6%
91,6%

18

75%

20

83,3%

20

83,3%

÷÷ Khảo sát tiết dạy cụ thể trên các lĩnh vực :
Điều tra bằng phương pháp sử dụng biện pháp quan sát, kiểm tra giáo án, dự
giờ tiết dạy để xem cách thức, biện pháp, phương tiện tổ chức của người giáo
viên.
+ Đã dự giờ được 58 tiết trong trên các lĩnh vực trong đó:
- Tốt 10
- Khá 10 còn lại là Đạt yêu cầu
÷ Khảo sát việc soạn giáo án của giáo viên.

Qua việc điều tra cho thấy việc soạn giáo án của giáo viên rất chung chung.
Cụ thể về cấu trúc của giáo án như sau:
*Phần xác định mục đích yêu cầu.

9


Phần lớn giáo viên đã xác định được mục đích yêu cầu của hoạt động nhưng
rất chung chung và chủ yếu là dựa vào cuốn hướng dẫn thực hiện chương trình
chăm sóc giáo dục trẻ theo độ tuổi và đặc biệt là trong nội dung này giáo viên
thường không đề cập đến nhiệm vụ phát triển kỹ năng cho trẻ thông qua hoạt
động.
*Chuẩn bị
Giáo viên chủ yếu tập chung vào việc chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho hoạt
động, chưa có phần chuẩn bị chu đáo mục tiêu cần đạt trong mỗi hoạt động
*Cách tiến hành.
Về cách thức tiến hành mỗi dạng thức tiết học giáo viên thực hiện một cách
dập khuôn máy móc, chủ yếu là theo một trình tự.
VD cụ thể: Hoạt động dạy trẻ đọc thuộc thơ diễn cảm
-

Cô đọc diễn cảm tác phẩm cho trẻ nghe 1-2 lần

-

Sử dụng đồ dùng trực quan.

-

Đàm thoại, giảng giải giúp trẻ hiểu nội dung.


Trong cách trình bày giáo án, giáo viên sử dụng quá nhiều ngôn ngữ nói làm
cho người nghe khó hiểu, cách diễn đạt không rõ ràng không thấy bóng dáng của
các thủ thuật và biện pháp chính để dạy trẻ.
* Đánh giá chung:
Việc soạn giáo án của giáo viên rất chung chung, chủ yếu dựa vào cuốn
“Chương trình chăm sóc và hướng dẫn thực hiện”.
- Chưa có sáng kiến của riêng mình, đảm bảo phù hợp với điều kiện của lớp
và phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.

10


- Chưa chú ý đến hoạt động cá nhân, chưa chú ý đến những trẻ yếu kếm, nhút
nhát mà chỉ quan tâm đến những “ngôi sao” do vậy mà các trẻ còn lại rất thiệt
thòi chỉ được ngòi lắng nghe bạn học, trong suốt qúa trình tiết học trẻ không
được tham gia.
÷ Khảo sát thực trạng nhận thức của trẻ trong trường mầm non Hoa Lan.
*Khả năng nhận thức của trẻ
Tổng số trẻ được điều tra tại trường mầm non Hoa Lan là 300 trẻ (ở độ tuổi mẫu
giáo)
Tiêu chí

Đạt

Tỷ lệ %

Chưa đạt

Tỷ lệ %


1. Tập trung chú ý

150

50%

150

50%

100

33,3%

200

66,7%

3. Hứng thú, tích cực

90

30%

210

70%

4. Vận dụng thực tế


30

10%

270

90%

40

13,3%

260

86,7

2. Khả năng diễn đạt

5. Trải nghiệm, hoạt
động nhóm

* Đánh giá kết quả điều tra trên trẻ:
- Nhìn chung các tiêu chí đạt tỷ lê % tương đối thấp, thời gian thường không
dài, số trẻ biết vận dụng kiến thức hàng ngày và trải nghiệm thực tế qua ít.
+ Về phía trẻ: Trẻ đã biết nghe cô, hứng thú khi học một số tiết học, một số
trẻ đã có kỹ năng, thói quen tốt khi tham gia hoạt động học.
* Ảnh hưởng nguyên nhân chi phối
- Một số biện pháp, phương pháp dạy học của giáo viên còn nhiều hạn chế,
lựa chọn đúng nhưng sử dụng kém hiệu quả


11


- Khi sử dụng phương pháp đàm thoại chưa phát huy được tính tích cực và
khả năng của trẻ, chỉ chăm chú đến việc xây dựng hệ thống câu hỏi đàm thoại mà
chưa chú tâm đến kỹ năng cần đạt sau từng hoạt động cụ thể.
Từ những thực trạng nêu trên là một phó hiệu trưởng với lòng nhiệt tình và
tâm huyết với nghề nghiệp tôi xác định để giữ vững những danh hiệu đã đạt
được và phát huy cao hơn nữa vai trò của người quản lý trong nhà trường trong
năm học 2010-2011 cùng thực hiện tốt hơn nữa chủ đề năm học, nâng cao chất
lượng của học sinh cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước hiện nay là
điều kiện: “Cần” và: “Đủ”, là nhân tố chính quyết định tới sự tồn tại và phát
triển của nhà trường.
Để xây dựng được: Những giải pháp tốt nhất trong việc : “Nâng cao chất
lượng dạy học theo hướng tích cực” thì không phải một sớm một chiều mà làm
được. Hy vọng với kinh nghiệm của tôi sẽ tiếp tục góp sức vào việc thành công
chung của việc nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường mầm non Hoa Lan nói
riêng và các trường mầm non nói chung.

2.2.CÁC BIỆN PHÁP
2.2.1: Bồi dưỡng nhận thức về chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên
- Tạo điều kiện để chị em được học tập nhiệm vụ trọng tâm của năm học
- Tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do Phòng GD tổ chức
- Cùng các đồng nghiệp, tổ trưởng chuyên môn xây dựng tổ chức các chuyên
đề mẫu, các tiết học cụ thể cho giáo viên tham gia trao đổi và học hỏi kinh
nghiệm.

12



- Khơi gợi tiềm năng sẵn có trong mỗi cá nhân, phát huy nội lực trong họ để
nhân rộng đại trà những trường hợp tiêu biểu điển hình.
2.2.2: Bồi dưỡng về kỹ năng thực hành
- Xây dựng lớp điểm về : “Tạo môi trường hoạt động”
Bồi dưỡng để giáo viên sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, biện
pháp cụ thể để tổ chức các hoạt động dạy học:
- Quan tâm đánh giá kỹ năng nhiều hơn kiến thức
Cần thay đổi đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học. Thực tế đã chứng
minh việc đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học luôn có tác dụng hai mặt:
khuyến khích hoặc kìm hãm hứng thú học tập của người học, nên điều kiện đó
phụ thuộc vào từng phương pháp cụ thể. Vì thể trong quá trình đổi mới phương
pháp dạy học chúng ta cần phải xem việc cải tiến phương pháp dạy và học gắn
liền với khâu quan trọng là phương pháp đánh giá kiến thức và kỹ năng người
học ở đầu vào, quá trình học tập và ở đầu ra, cụ thể là kỹ năng đạt được trong
kết quả mong đợi cuối độ tuổi. Trước đây việc đánh giá kết quả học tập của trẻ
thường thông qua sự đánh giá chung chung của giáo viên ít cho trẻ được khám
phá và trải nghiệm, hình thức này phù hợp với kiểu dạy học chủ yếu là thuyết
trình, nên trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc đánh giá
kiến thức và kỹ năng của người học cũng nhất thiết cần phải thay đổi cho phù
hợp. Chính vì vậy mà tôi đã hướng dẫn giáo viên trong từng hoạt động cụ thể cần
đánh giá kỹ năng nhiều hơn kiến thức để có kế hoạch bổ xung cụ thể, kịp thời
cho từng chủ đề, từng độ tuổi. Có ý kiến đề xuất với chuyên môn nếu như trẻ
không đạt được kỹ năng chuẩn sau hoạt động để chuyên môn kịp thời điều chỉnh
kế hoạch chương trình khung cho phù hợp với điều kiện cụ thể.
- Tăng cường hoạt động trải nghiệm
Giảm thuyết trình, tăng cường hoạt động trải nghiệm, bài tập thực hành. Đây
là cách tốt nhất nhằm khuyến khích sự hoạt động tích cực của trẻ. Thông qua đó
không chỉ có thể hình thành và phát triển tư duy sáng tạo của chúng mà còn rèn
luyện cho trẻ năng lực tự thể hiện, tự học. Qua trải nghiệm thực tế trẻ phải tự tìm

13


tòi kiến thức tham gia thảo luận, chính điều đó sẽ giúp trẻ hiểu sâu hơn những
kiến thức đã được lĩnh hội và rèn luyện cho trẻ thói quen thường xuyên vận
dụng lý thuyết vào cuộc sống. Chính vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi tổ chức
các hoạt động cụ thể cần giảm mạnh thuyết trình, tăng cường khám phá trải
nghiệm, bài tập, lựa chọn những nội dung phù hợp tuỳ vào đặc điểm của từng
môn học để đề xuất tỷ lệ hợp lý giữa lý thuyết và bài tập sao cho phù hợp với
môn học và khả năng tiếp thu của trẻ theo điều kiện của từng lớp. Đặc biêt là
hoạt động Khám phá khoa học
VD: Khi dạy trẻ tìm hiểu về nước và ích lợi của nước …… Tổ chức cho trẻ
thực hành theo nhóm làm các thí nghiệm về nước

Phương pháp HS làm việc theo nhóm
2.2.3 Quan tâm giảng dạy sát đối tượng :
Giúp giáo viên hiểu được học sinh ở từng trường khác nhau sẽ có những tâm
tư tình cảm khác nhau, với bậc học Mầm non thì điếu đó càng được nhân lên.
Yếu tố sát đối tượng luôn là hàng đầu của những người làm công tác chăm sóc
GD trẻ vì thế muốn đổi mới phương pháp dạy học GV cần phải suy nghĩ đến
những yếu tố khách quan, chủ quan một cách đầy đủ, biện chứng mới có thể đổi

14


mới phương pháp một cách có hiệu quả và thiết thực. Chính vì vậy mà tôi luôn
quan tâm tới việc hướng dẫn giáo viên quan tâm tới từng đối tượng cụ thể.
Kinh nghiệm cho thấy những cháu nào nhút nhát không muốn gần người lớn
nhưng bằng tình cảm sự động viên và đặc biệt : “nụ cười” trên môi người giáo
viên là công cụ sắc bén để đạt được mong muốn của mình. GV nào hiểu được

tâm tư tình cảm của các em biết cách động viên các em giúp các bé xoá dần
những mặc cảm, tự ti, những ý tưởng không thích, tạo sự tin tưởng của trẻ vào
bài dạy của cô và sự quản lý chung của nhà trường, có ý thức vươn lên thì việc
giảng dạy và công tác chủ nhiệm của giáo viên đó thành công. Ngược lại GV nào
chỉ có ý chê bai không quan tâm tới việc gây hứng thú cho học sinh không bao
giờ nghĩ đến lời động viên các cháu thì bài giảng của GV đó khó đạt kết quả
hơn;
Ví dụ :
Đơn cử là hai giáo viên đều cùng dạy ở trường tôi. Một giáo viên đã từng có
bề dày thành tích đã đạt là giáo viên dạy giỏi nhiều năm nhưng trong quá trình
dạy học bằng lòng với những kết quả của mình mà quên đi:
“trẻ em mỗi thời một khác”, BGH nhà trường và tổ trưởng chuyên môn đều
biết cô giỏi, kiến thức vững vàng nhưng kết quả trẻ đều không thích học cô. Mặt
khác giáo viên này không chịu tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
không sát xao đối với trẻ, kết quả là không lấy được: “cái thích” của học trò. Đó
chính là việc không chịu thay đổi tư duy giảng dạy.
Bên cạnh đó một giáo viên trẻ mới về nhận công tác ở nhà trường, nụ cười
luôn nở trên môi khi gần gũi trẻ nhỏ, những hiệu lệnh mà cô dùng hàng ngày là
những hiệu lệnh thân thiện. Trong thời gian đầu tuy còn lúng túng về phương
pháp truyền thụ kiến thức cho học sinh nhưng giáo viên đó hiểu được đối tượng
biết cách dạy và giáo dục học sinh, do đó kết quả giảng dạy và công tác chủ
nhiệm rất tốt, luôn được các bậc phụ huynh tin tưởng.
Rõ ràng hai trường hợp trên không phải do trình độ chuyên môn của giáo viên
mà là do giáo viên đó không sát đối tượng. Trường hợp như vậy thì còn nói gì
15


đến đổi mới phương pháp. Như vậy mọi việc đều phải: “ Bắt đầu từ tự học và
tự sáng tạo của giáo viên ”. Tôi luôn quan tâm và hướng dẫn giáo viên cần chú
ý tới từng đối tượng trong lớp học. Nếu như không tự mình làm cho mình: “mới

lên” theo kịp với những đổi mới của xã hội thì trước hết đó là cách dạy vô cảm,
không bám sát đối tượng, không linh hoạt, phương pháp truyền đạt chưa tốt,
chưa thân thiện dẫn đến kết quả học tập của trẻ còn hạn chế và việc tăng thời
gian hỗ trợ cho những trẻ yếu kém là cần thiết nhưng điều quan trọng hơn cả
vẫn là nhiệt huyết, thái độ cử chỉ thân thiện, phương pháp GD của giáo viên. GV
phải biết từng đối tượng học sinh của mình yếu ở mảng kiến thức nào, tâm sinh
lý của các em ra sao, để phương pháp GD trên lớp cũng như hoạt động ở mọi lúc
mọi nơi phải phù hợp với đối tượng. Có như vậy thì việc giáo viên bỏ công sức
cho hoạt động học của trẻ mới có hiệu quả như mong đợi.
Ngoài ra để đổi mới PPDH, cần phát huy được tính tích cực của học sinh
trong việc tham gia xây dựng bài. Muốn vậy giáo viên phải biết hướng dẫn học
sinh chuẩn bị bài ở nhà bằng cách huy động sự quan tâm của phụ huynh trong
việc chuẩn bị đồ dùng phục vụ bài dạy trong cùng một chủ đề cho trẻ mang đến
lớp. Mỗi lần thay đổi đồ dùng như vậy thì giáo viên lại có những câu hỏi gợi ý :
Vì sao cô trò mình lại phải chuẩn bị những đồ dùng này? Đồ dùng này thuộc chủ
đề nào? … Có như vậy phụ huynh mới biết con em mình đang học về chủ đề gì,
điều đó cùng đồng nghĩa với việc kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường.

2.2.4. Bồi dưỡng về khả năng ứng dụng CNTT
- Thầy trò cùng tích cực:
Xuất phát từ đặc thù của bậc học mầm non nên việc ứng dụng CNTT vào
công tác dạy học trong nhà trường được chúng tôi tổ chức giáo viên khai thác
một cách có hiệu quả:

16


- Lên kế hoạch học tập theo tuần cho đội ngũ giáo viên, Tham gia các lớp học
cấp chững chỉ tin học, mời tổ CNTT phòng GD và ĐT huyện Đông Triều về tại
trường tập huấn. Tổ chức học theo nhóm, những giáo viên có trình độ CNTT

kèm cặp giúp đỡ những giáo viên còn chậm chạp.
- Tổ chức thi “Thiết kế giờ học ứng dụng CNTT” tham gia chấm tại trường
vì vậy các bài giảng được xây dựng phong phú, đa dạng hơn và phù hợp với nội
dụng chủ đề, đảm bảo yêu cầu của độ tuổi, phát huy được tính tích cực và thực
sự khiến trẻ yêu thích, ham mê với những giờ học có ứng dụng CNTT.
- Nhờ sự hỗ trợ về trang thiết bị: máy tính, máy chiếu của Phòng GD Đông
Triều, của các trường THCS lân cận để xây dựng giáo án của trường, chú ý hơn
trong việc tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động trải nghiệm với thực tiễn. Thông
qua các CD dữ liệu nhiều giấo viên trong nhà trường đã xây dựng được các giờ
học phong phú về hình thức lẫn nội dung với các thể loại phim, hình ảnh lồng
ghép với âm nhạc ….
- Khuyến khích chị em nối mạng tại nhà, trang bị cách tìm kiếm thông tin trên
trang Google
- Động viên chị em đồng nghiệp, huy động sự đóng góp của các bậc phụ
huynh, của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn trang bị một số phần mềm tiện
ích để áp dụng dạy trẻ trong các bộ môn.

SỬ DỤNG MỘT SỐ PHẦN MỀM TIN HỌC GIÚP GV ĐỔI MỚI TƯ DUY DẠY HỌC

17


18


- Giúp chị em nhận thức được việc soạn, giảng bằng giáo án điện tử buộc
giáo viên đầu tư nhiều thời gian, công sức hơn đồng thời phải tự mình nâng cao
kiến thức, tự tìm tòi học hỏi, không được rập khuôn viết qua loa lấy lệ như cách
soạn giáo án viết tay. Chính điều đó đã tạo cho các cô tích cực tự học, tự rèn
luyện rất cao, không tự hài lòng thoả mãn với nhừng gì mình đã và đang có …

Việc ứng dụng CNTT đã giúp cho GV vận dụng đổi mới phương pháp dạy học,
trọng tâm là phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm. Qua đó giúp cho GV
linh hoạt hơn trong việc lựa chọn nội dung giảng dạy trong mỗi chủ đề phù hợp
với sự phát triển và hứng thú của trẻ …. Đồng thời xây dựng môi trường giáo
19


dục kích thích được tính năng động, giúp học sinh biết cộng tác, làm việc theo
nhóm để hoàn thành sản phẩm hoạt động, biết khi nào cần sự giúp đỡ của cô
giáo, không ỉ lại và nhất nhất theo cô như trước đây… Nhờ Ứng dụng CNTT
giúp cán bộ giáo viên phát huy tính tích cực tự học, tìm tòi thông tin, tích luỹ
nhiều kinh nghiêm, cộng tác với đồng nghiệp, phụ huynh, rèn luyện năng lực
chuyên môn…. Đặc biệt nhà trường đã xây dựng được Website để giáo viên
chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm:

2.2.5 Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Trong PP học thì cốt lõi là PP tự học, đặc biệt là bậc học MN thì thời gian trên
lớp khá dài cho nên phương pháp tự học là vấn đề cốt lõi cần được quan tâm:
-Ở đầu năm học tôi đề cập đến việc tự nghiên cứu, tự học hỏi, phương pháp
tự học của giáo viên được nâng lên đáng kể, việc học tập qua nhóm để GV lựa
chọn tìm hiểu thông tin bằng cách hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu.
-Ghi nhận và tuyên dương những kết quả mà họ đã đạt được thông qua các
hoạt động chuyên môn hay các hoạt động khác tại trường.
- Trao đổi và nhận rộng những thông tin hay cho chị em đồng nghiệp

20


- Giảng giải để GV hiểu được khi có PP và thói quen ý chí tự học thì sẽ ham
học thích học đó là điều kiện tốt để khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi

cá nhân, kết quả học tập sẽ nâng cao.
- Tự học ở mọi lúc mọi nơi, trên lớp học, ở nhà, và ngoài thực tiễn cuộc sống
qua các phương tiện thông tin đại chúng: Chuyên san mầm non, báo GD thời đại,
internet, thực tiễn và đồng nghiệp bạn bè xung quanh. Những công việc đó giúp
chính họ có những cách nhìn mới về: “giảng dạy tích cực”

Trường chúng tôi, trình độ năng lực và khả năng sư phạm của mỗi giáo viên
khác nhau vì vậy không thể áp dụng những biện pháp này một cách đồng loạt.
Cách tìm kiếm thông tin này chỉ phù hợp với giáo viên này mà lại không phù hợp
với giáo viên khác vì vậy để phát huy tính tích cực sáng tạo của mỗi giáo viên
đòi hỏi phải có sự phân hoá về trình độ, chúng tôi phân theo nhóm những giáo
viên có trình độ chuyên môn vững vàng kèm cặp giúp đỡ những GV yếu kém,
tạo cơ hội để họ được học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Qua đó mỗi giáo
viên rèn luyện ý thức tự học tăng cường phối hợp với cá nhân Mặt khác: Lớp
học là môi trường giao tiếp mẹ- con, phụ huynh với giáo viên, trẻ với trẻ …. tạo
lên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trong quá trình

học tập tại nhà

trường, thông qua thảo luận, tranh luận nhóm, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc
21


nộ và chia sẻ nhóm từ đó GV được học tập lẫn nhau và kiến thức mà một người
thu được là sự đóng góp của nhiều người. Đồng thời qua học tập, hợp tác, các kỹ
năng giao tiếp kỹ năng thuyết phục, kỹ năng nghe tích cực, ý thức tổ chức, tinh
thần rèn luyện và phát triển của mỗi cá nhân tạo lên sự quan hệ bình đẳng giữa
đồng nghiệp, giữa giáo viên với học sinh tạo lên môi trường học tập an toàn.
2.2.6. Giáo viên cần phải tận tâm đối với học sinh và sự học hành của trẻ
- Hướng dẫn giáo viên cần tận tuỵ trong công việc để nội dung bài học đến

với tất cả học sinh và tin tưởng mọi học sinh đều có thể học, quan tâm tới những
đối tượng còn nhút nhát trong lớp, thay bằng những hiệu lệnh yêu thương hơn lời
quát mắng.
-Đối xử bình đẳng với tất cả học sinh, thừa nhận sự khác biệt cá nhân của
chúng bởi mỗi đứa trẻ là một con người riêng biệt, hãy bao dung đối với sự khác
nhau trong khi thực thi công việc. Không lên vì những bức xúc cá nhân mà làm
ảnh hưởng tới việc làm.
-Tìm hiểu, quan tâm, chia sẻ với trẻ về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và
những mong muốn cá nhân để tìm ra cách truyền thụ bài học tốt nhất đối với trẻ.
- Đề xuất với chuyên môn để giải quyết những bất cập trong quá trình dạy
học
2.2.7 Giáo viên phải biết các môn học và biết dạy các môn học đó như
thế nào?
Ở bậc học Mầm non khác với những bậc học khác người giáo viên vừa:
“Dạy” lại vừa phải: “Dỗ ”, để làm chủ môn học, có kỹ năng và kinh nghiệm
giảng dạy môn học, hiểu được mục đích ý nghĩa của môn học đó thì người giáo
viên phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng sư
phạm, làm cho quá trình giảng dạy có hiệu quả hơn, linh hoạt hơn trong phạm vi
kỹ thuật dạy học, tổ chức cho trẻ chủ động tích cực hoạt động nhịp nhàng và tập
chung. Tôi đã tham mưu với BGH cho giáo viên đi học tập để nâng cao chuyên
môn.
22


Giáo viên cộng tác để phát triển sự học tâp của trẻ, tự biết làm thế nào để tìm
kiếm và xây dựng nhóm và hợp tác cộng sự, thúc đẩy trường học tiến bộ, hợp tác
với cha mẹ học sinh để dàn xếp có hiệu quả công việc của nhà trường.
2.2.8 Giáo viên là thành viên của cộng đồng học tập
Bản chất của GD là nuôi dưỡng và phát triển các giá trị nhân văn, xã hội càng
phát triển thì giáo dục càng được đề cao. Việc nhìn nhận cho đúng những tồn tại,

yếu kém là rất cần thiết, nhưng cái mà đông đảo giáo viên và nhà trường cũng
đang rất mong đợi là những quan niệm, những cách làm giản dị, gắn với hơi thở
cuộc sống để tự điều chỉnh, tự hoà nhập vào sự tiến bộ chung trong nhà trường.
Tôi đã giúp giáo viên nhìn nhận được trong dạy học có hai con đường cơ bản để
hình thành tri thức :
+ Thứ nhất, từ kiến thức đã biết, giáo viên giảng giải, luyện tập để trẻ hiểu và
vận dụng;
+ Thứ 2, từ hiểu biết và kinh nghiệm nghề nghiệp, người giáo viên nêu vấn đề
gợi mở để trẻ tìm ra tri thức.
Con đường thứ nhất ngược với trình tự mà người ta đã tìm ra do đó có thể học
sinh có ít đi sự chủ động và sáng tạo nhưng lại tiết kiệm thời gian, tài chính và
phù hợp với nhiều điều kiện hoàn cảnh từng trường. Con đường thứ hai thì
ngược lại. Trong điều kiện của trường tôi yêu cầu giáo viên biết vận dụng kết
hợp các hiểu biết, kinh nghiệm và các phương pháp khác nhau tuỳ theo yêu cầu,
điều kiện từng lớp, từng hoạt động và đối tượng cụ thể để áp dụng.
Tóm lại, để dạy học có hiệu quả, mỗi giáo viên cần sự thấu hiểu và sự chia sẻ
giản dị.
2.2.9 Thực nghiệm và phân tích kết quả thực nghiệm
* Địa bàn: tiến hành thực nghiệm trên tập thể đội ngũ giáo viên tại trường
MN Hoa Lan:
Tôi tiến hành trên hai nhóm
- Nhóm thực nghiệm 12 đồng chí
- Nhóm đối chứng 12 đồng chí
* Trình độ giáo viên đứng lớp: Phân hoá đều về trình độ giữa hai nhóm
23


* Mục đích thực nghiệm
Sử dụng một số biện pháp đã nêu trong đề tài “Nâng cao chất lượng dạy học
theo hướng tích cực tại trường MN Hoa Lan” Từ đó đánh giá thực nghiệm

* Nội dung thực nghiệm
Giải quyết nhiệm vụ của đề tài tiến hành thực nghiệm về đổi mới tư duy dạy
học của đội ngũ giáo viên trong quá trình thực hiện chương trình GDMN mới
* Các tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm được do bằng chuyên môn giảng dạy của giáo viên theo
tiêu chí ở các lĩnh vực phát triển.
+ Mức độ 1: Giáo viên say mê hứng thú trong hoạt động dạy học
+ Mức độ 2: Vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp dạy học trong quá
trình chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Mức độ 3: Vận dụng đủ các phương pháp và hình thức vào quá trình CSGD trẻ
+ Mức độ 4: Dạy học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi MN
+ Mức độ 5: Dạy đúng đủ chương trình
* Tiến hành thực nghiệm
Do điều kiện về thời gian không cho phép tiến hành thực nghiệm tại nhiều
trường nên tôi chỉ trực tiếp đối chứng - Thực nghiệm tại trường Mầm non Hoa
Lan huyện Đông Triều- tỉnh Quảng Ninh, tôi đề nghị giáo viên áp dụng các biện
pháp mà tôi cung cấp. Sau đó họ sẽ đưa ra ý kiến nhận xét dựa trên kết quả thực
tế cụ thể.
-Ở nhóm đối chứng, chúng tôi tiến hành tiết học với một số biện pháp vẫn
thường xuyên sử dụng trong các trường mầm non.
-Ở nhóm thực nghiệm cũng được tiến hành dưới hình thức tiết học vá áp dụng
các phương pháp, biện pháp đã nêu trong đề tài này.
Sau khi áp dụng những biện pháp ở mỗi nhóm lớp tiến hành kiểm tra kết quả
và phân tích kết quả thực nghiệm dựa trên những tiêu chí đã nêu.
÷ Thực nghiệm đối chứng
24


Trong quá trình giáo viên tổ chức hoạt động tôi đã thường xuyên thăm lớp dự
giờ trực tiếp quan sát ghi chép, thảo luận phân tích và có một số nhận xét sau:

Việc soạn giáo án của giáo viên:
Như phần điều tra thực trạng đã nêu, giáo viên soạn bài thường rất chung
chung, đa số dựa theo gợi ý cuốn chương trình chăm sóc giáo dục trẻ của độ
tuổi. Khi xác định mục đích yêu cầu cô chưa hể quan tâm đến việc đánh giá kỹ
năng người học mà chỉ quan tâm đến việc dạy nhiều kiến thức cho trẻ. Trong khi
trao đổi với trẻ cô sử dụng hệ thống câu hỏi chủ yếu là các câu hỏi kể lể về nội
dung của bài học, chưa phát huy được hết khả năng của trẻ. Lựa chọn nội dung
tích hợp chưa phù hợp quá lạm dụng làm mất đi ấn tượng của trẻ về đối tượng.
Mặt khác cô chưa hề quan tâm tới tất cả mọi đối tượng trong tiết học chỉ tập
trung vào một số trẻ nổi bật.
÷ Thực nghiệm hình thành
+ Tạo môi trường
+ Quan tâm đến đánh giá kỹ năng người học
+ Tận tuỵ tới từng đối tượng học sinh.
+ Sử dụng CNTT trong quá trình giảng dạy.
+ Rèn luyện PP tự học.
+ Tăng cường hoạt động trải nghiệm trong hoạt động cụ thể.
VD: Trong một hoạt động cụ thể là HĐ: Văn học Dạy trẻ đọc diễn cảm bài
thơ: “Hoa kết trái”
Ngoài việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi và tranh ảnh dạy học phục vụ cho bài
học tôi hướng dẫn giáo viên:
- Quan tâm tới tất cả mọi đối tượng trong lớp học.
25


×