Tải bản đầy đủ (.doc) (246 trang)

TÀI LIỆU ÔN THI CHUYÊN VIÊN CHÍNH 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.28 KB, 246 trang )

TÀI LIỆU ÔN THI CHUYÊN VIÊN CHÍNH
Chuyên đề 1..........................................................................................................................................2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ................................................................2
Chuyên đề 2........................................................................................................................................16
HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC.....................................................................................16
Chuyên đề 3........................................................................................................................................38
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.........................................................................38
Chuyên đề 4........................................................................................................................................62
CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ VÀ QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC.......................................................62
PHẦN I...............................................................................................................................................62
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CÔNG VỤ.................62
PHẦN II..............................................................................................................................................84
QUẢN LÝ CÁN BỘ VÀ CÔNG CHỨC..........................................................................................84
MỘT SỐ KỸ NĂNG CỤ THỂ TRONG VIỆC SOẠN THẢO VĂN BẢN.....................................127
Chuyên đề 6......................................................................................................................................136
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM..................................................136
Phần 1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ..............................................................................136
Phần 2. QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG..........................................................................................154
Phần 3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÃ HỘI................................................................................170
PHỤ LỤC 1......................................................................................................................................183
LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC (Tr. 260).......................................................................................183
PHỤ LỤC 2:.....................................................................................................................................206
LUẬT...............................................................................................................................................206
BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT.....................................................................206
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................244


Chuyên đề 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị
1.1. Khái niệm hệ thống chính trị


Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một
hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể
các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức
nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển
chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Hệ thống chính trị
xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước và thực hiện đường lối chính
trị của giai cấp, đảng phái cầm quyền, do đó nó mang bản chất, lý tưởng chính trị và
phản ánh lợi ích của giai cấp cầm quyền. Trong các sách báo, các công trình nghiên
cứu khoa học hiện nay, khái niệm “hệ thống chính trị” thường được hiểu theo hai
nghĩa:
Theo nghĩa rộng, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng để chỉ toàn bộ lĩnh
vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm các
tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư tưởng và các
chuẩn mực chính trị.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng để chỉ hệ thống các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã hội gồm
nhân dân, các tổ chức chính trị, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội
có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị. Trong đó, nhân dân là
chủ thể của quyền lực chính trị và là nền tảng của hệ thống chính trị.
Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, hệ thống chính trị hình thành và
phát triển cùng với quá trình vận động của mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp gắn
với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ chống lại chế độ xã
hội đó, làm thay đổi các hệ thống chính trị theo hướng tiến bộ, hoặc thủ tiêu và thay thế
nó bằng một hệ thống chính trị dân chủ, tiến bộ hơn.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể
thực sự của quyền lực chính trị, tự mình định đoạt quyền chính trị của mình. Điều căn
bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản.
1.2. Bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ
chức ra hệ thống chính trị của mình. Như đã nêu trên, hệ thống chính trị xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước, thực hiện đường lối chính trị của giai
cấp cầm quyền, do đó nó mang bản chất, lý tưởng chính trị và phản ánh lợi ích của
giai cấp cầm quyền. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:

2


Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, nghĩa là
các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng trên lập trường quan điểm của giai cấp
công nhân. Bản chất giai cấp công nhân quy định chức năng, nhiệm vụ, phương
hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện ở chỗ: tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân với Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống
trị của đa số nhân dân với thiểu số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta. Bản
chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất
giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân
tộc.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xét về mặt cơ cấu bao gồm: Đảng cộng
sản, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động theo một cơ chế nhất định
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện quyền
lực chính trị của nhân dân, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu: “dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.3. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay

Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Các
quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong Điều lệ của từng
tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai
trò lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do
những phẩm chất của mình - Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu cho ý chí và lợi ích
thống nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và những thành tựu to
lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam cho nên Đảng ta đã trở
thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để
thực hiện lý tưởng của Đảng.Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy nhân dân ta tự
nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là đặc trưng cơ bản
của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ tất cả các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở nước ta đều quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong tổ chức và hoạt
động.. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động là nhân tố cơ bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ
3


chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của
mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi. Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta với hệ thống chính trị của các nước tư bản
chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích

giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam được hình thành trong tiến trình cách mạng và ra đời từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi lật đổ nền thống trị của thực dân, phong
kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hoà dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Đó là hệ
thống chính trị mang tính chất dân chủ nhân dân (xét về nhiệm vụ, kết cấu, hoạt
động). Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hệ thống các thiết chế
chính trị, chính trị - xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội rộng lớn của nhân dân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, vừa là bộ
phận hợp thành, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết và tất yếu
để đảm bảo cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân, đảm bảo
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Bài học kinh nghiệm của cải tổ, cải cách ở Liên xô
(trước đây) và các nước XHCN ở Đông Âu cho thấy, khi Đảng cộng sản không giữ
được vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, sẽ dẫn đến hậu quả làm rối loạn hệ thống
chính trị và xã hội, quyền lực chính trị sẽ không còn trong tay nhân dân và chế độ
chính trị sẽ thay đổi. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt
nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên
những nội dung chủ yếu sau:
Một là, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm,
chủ trương phát triển kinh tế-xã hội để nhà nước thể chế háo thành pháp luật; đồng
thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và
các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà

nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách,
kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà
nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị
quyết của Đảng.

4


Ba là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng
các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng
việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ
tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các
tổ chức chính trị - xã hội. Phương pháp lãnh đạo của Đảng chủ yếu là phương pháp
giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo
thực hiện tốt quy chế dân chủ...
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, một mặt Đảng phải phát huy vai trò chủ động
sáng tạo của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị xã
hội, khắc phục tệ quan liêu độc đoán, chuyên quyền, bao biện làm thay; Mặt khác,
Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo, mất cảnh giác trước những luận điệu cơ
hội mị dân đòi Đảng phải trả quyền lực cho Nhà nước và nhân dân. Thực chất của
những đòi hỏi đó chỉ nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng và làm thay đổi chế độ. Ở một vài nước xã hội chủ nghĩa, trong những điều
kiện lịch sử cụ thể, đã hình thành hệ thống chính trị đa đảng. Đó là các đảng liên
minh với Đảng Cộng sản, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chứ không phải
là đảng đối lập. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, thành lập đảng đối lập là nguy cơ trực
tiếp để mất chính quyền vào tay các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội. Các thế
lực thù địch, phẩn động hiện nay cũng đang lợi dụng chiêu bài đa đảng, đa nguyên
chính trị, dân chủ nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa bằng “diễn biến hoà bình”.
2.2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực thể hiện
và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm

trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt khác, Nhà nước
CHXH Việt nam chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính
trị của giai cấp công nhân, thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý
chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân
để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực
hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức
quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính
trị.Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã
hội đượcthể hiện bằng mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị
- xã hội.. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp,
pháp luật và chính sách làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
5


Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội.
Đó chính là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân ở nước ta có các đặc trưng cơ bản sau:
1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;

2. Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp;
3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận vị trí tối thượng của
Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực
hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật;
4. Trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã
hội, thể hiện vai trò của một nhà nước “phục vụ”, đồng thời thể hiện trách nhiệm của
công dân trước nhà nước và xã hội;
5. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với một xã hội dân sự định hướng xã
hội chủ nghĩa;
6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh và có
thiện chí các cam kết quốc tế;
7. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.
Những đặc trưng của Nhà nước tạo nên những nét khác biệt nhất định về tổ chức và
phương thức hoạt động giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Việc xác định đúng vị trí, vai trò và
nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong
quá trình đổi mới hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành
tố trong hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở nước
ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước, về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quốc hội thực hiện quyền

giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được
gọi là cơ quan lập pháp.

6


Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của
Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc
hội. Với ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều
tra. Đây là những cơ quan được lập ra để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm
pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà
nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án
là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng
người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống
nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà
nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố... Với ý
nghĩa đó, Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức trung tâm thực hiện quyền lực
chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội theo quy định của pháp luật; thay
mặt nhân dân thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Để Nhà nước hoàn thành
nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân dân giao phó,
phải luôn luôn chăm lo kiện toàn các cơ quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm
chất chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi; thường xuyên giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; có cơ chế và biện
pháp ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm...; nghiêm trị
những hành động gây rối, thù địch; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các
tổ chức xã hội, xây dựng và tham gia quản lý nhà nước...
Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa,
cần thấy rằng:
- Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo của Đảng
cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động lộng quyền, lạm quyền,
coi thường và vi phạm pháp luật;
- Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân,
lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý
7


đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc chứ không
phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của một nhóm nhỏ thiếu sổ,.
- Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với tăng cường
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phải luôn luôn bảo đảm sự thống nhất để
tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức mạnh của Nhà nước chính
là thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
2.3. Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích của các cộng đồng dân cư
khác nhau, tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo các tôn chỉ, mục
đích nhất định và tuân thủ pháp luật. Ở các nước xã hội chủ nghĩa khác nhau, các tổ
chức này rất phong phú và hoàn toàn không giống nhau; nội dung, hình thức và

phương thức hoạt động cũng rất đa dạng và sinh động. Các tổ chức đó có nhiệm vụ
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,...động viên, phát huy tính tích cực xã hội của
các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội; chăm
lo lợi ích chính đáng của các thành viên; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Trong thực tế hiện nay, cần phải tránh xu hướng biến các tổ chức này thành tổ chức
hành chính, quan liêu, dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, không thể hiện được tính
tích cực, đa dạng, đặc thù của mình trong tổ chức và hoạt động.
Ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức hợp pháp, nhằm tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi
ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích
của mình nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng
và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội
viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt
mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí
và nguyện vọng; tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
thực hiện giám sát đối với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và
phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ
chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào
công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân
chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức thành một một hệ thống từ Trung ương đến

cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống
8


chính trị ở cơ sở bao gồm: tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng nhân dân xã, phường; Uỷ
ban nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị-xã
hội khác như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các
tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ trong hệ thống chính trị ở nước ta. Hệ
thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi
khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
2.4. Vai trò của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực chính trị
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định trong quá trình cải biến
xã hội. Vai trò quyết định của nhân dân thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Nhân dân là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh thần, góp
phần quyết định vào sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Nhân dân là chủ thể của mọi quá trình cải biến xã hội.
- Lợi ích của nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng xã hội, của những quá trình
cải biến xã hội.
Trên phương diện quyền lực chính trị, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là khách thể
của quyền lực chính trị. Tương quan chủ thể, khách thể quyền lực chính trị của
nhân dân trong các xã hội cũng rất khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, nhân dân (chủ yếu là người lao động)
chỉ là khách thể của quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước. Trong xã hội hiện
đại, do sự phát triển dân chủ, vai trò chính trị của nhân dân tăng lên. Nhân dân không
chỉ là khách thể mà còn là chủ thể của quyền lực chính trị.
Sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị vừa với tư cách từng cá nhân, vừa có
tính nhóm cộng đồng, vừa thông qua những tổ chức, cơ quan mà họ là những thành

viên; với nhiều phương thức khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào cơ cấu
chính trị và cơ cấu quyền lực chính trị của xã hội. Nhân dân tham gia vào các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội.... và
thông qua hoạt động của các tổ chức này chi phối quyền lực nhà nước ở các mức độ
khác nhau, thực hiện lợi ích cho tổ chức, cộng đồng và bản thân. Nhân dân tham gia
vào đời sống chính trị với nhiều hình thức như: thông qua hoạt động bầu cử các đại
biểu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động trưng cầu ý kiến cử tri vào
những chính sách, quyết định của nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức …
Nhân dân ở nước ta hiện nay chủ yếu là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực
của mình chủ yếu thông qua Nhà nước, Nhà nước quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp
luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài Nhà nước, nhân dân thực
hiện quyền lực chính trị thông qua tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và
thông qua tư cách cá nhân công dân, cử tri tham gia vào việc xây dựng, chỉnh đốn
9


Đảng, vào việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, vì lợi ích xã hội, lợi ích tổ chức và lợi ích cá nhân. Qua đó phấn đấu thực hiện
một mục đích: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Có thể khái quát quan hệ giữa các cơ cấu quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị
ở nước ta hiện nay qua sơ đồ sau:
Đảng Cộng
sản Việt Nam

Nhà nước
Cộng hoà
XHCN VN


Tổ chức
CT- xã hội,
Xã hội...

Nhân dân

Với quá trình hoạt động của mình, hệ thống chính trị Việt Nam đã góp phần quyết
định vào việc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc
và xây dựng được những cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, bước
đầu xây dựng nền dân chủ XHCN. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, hệ
thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém, khiếm khuyết. Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra đường lối đổi mới và dân chủ hoá đời sống xã hội. Từ đó đến nay,
chúng ta đã làm được nhiều việc trong lĩnh vực đổi mới kinh tế và kiện toàn hệ
thống chính trị; bước đầu tiến hành đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của
Đảng, cải cách bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cải cách nền hành
chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức; đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội; cho phép thành lập và quản lý tốt
các hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp; tổ chức xã hội.
3. Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
Hệ thống chính trị chỉ phát huy tác dụng khi sự vận hành các yếu tố của nó phù hợp
với những quy luật khách quan. Từ khi thực hiện đường lối của Đảng đến nay, hệ
thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng;
Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã
hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết
thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá,
tư tưởng được phát huy...
Tuy nhiên bên cạnh những thành công quan trọng đó, hệ thống chính trị ở nước ta

cũng còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu
10


quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trịxã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà
nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại theo hướng tinh giản và nâng cao chất lượng,
còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển
chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ.
Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng
với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách
mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng
chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác
lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng,
quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ
đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức
năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành
mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn
nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được
đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Tổng kết giai đoạn vừa qua và nhìn lại sự phát triển của các yếu tố trong hệ thống
chính trị, Đảng ta nhận định rằng ngoài những thành tựu đã đạt được vẫn tồn tại
những thực trạng cần phải đổi mới :
- Thứ nhất, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức của Đảng trong điều kiện
Đảng cầm quyền và lãnh đạo xã hội.
- Thứ hai, vai trò và năng lực của đảng viên, nhất là những đảng viên đang giữ những
vị trí trọng trách nhất định cần được phát huy hơn nữa trong điều kiện đổi mới. Bởi vì
cơ chế quản lý mới, nhất là trong đời sống kinh tế, đã vượt ra ngoài những phương
thức điều hành, quản lý của cơ chế cũ.
- Thứ ba, vai trò của các đoàn thể, các tổ chức quần chúng trong cơ cấu của hệ thống

chính trị, mặc dù đã có những bước phát triển nhưng cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Thứ tư, chậm tổng kết thực tiễn và nghiên cứu khoa học về tổ chức, việc tổ chức chỉ
đạo thực hiện các nghị quyết về tổ chức, bộ máy không nhất quán, thiếu kiên quyết
và triệt để.
Thứ năm, còn tình trạng trì trệ, yếu kém trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Theo đó, trước mắt chúng ta cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc
sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị,
đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh
đạo của Đảng; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân,
gần với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị theo
nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực
11


hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc
thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế
người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ
luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân,
biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm
lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán
bộ.
3.2. Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị
- Thứ nhất, khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong quá trình xây
dựng, tổ chức và lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó củng cố và hoàn thiện tổ chức của
Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của Đảng, nhất là chất lượng về chính trị, trách nhiệm phục vụ nhân dân
của đảng viên.
- Thứ hai, hoàn thiện bộ máy nhà nước nhằm quản lý và tạo điều kiện cho quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước ta
từng bước trở thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng(*). Hoàn thiện hệ thống chính trị sao cho các chủ thể có thể phát huy được
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm tạo ra nguồn sức mạnh và động lực
to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân được đổi mới về tổ
chức và hoạt động, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, trở thành cầu nối quan
trọng giữa nhân dân với Đảng và giữa nhân dân với Nhà nước.
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn hiện
nay
Hoàn thiện hệ thống chính trị, trước hết là hoàn thiện các tổ chức (chủ thể) của hệ
thống chính trị. Từ đó, tạo tiền đề đổi mới các hoạt động nhằm bảo đảm sự ổn định,
tạo đà cho sự phát triển trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
a) Những giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Tổng kết từ thực tiễn đổi mới, tại Đại hội Đại biểu lần thứ IX của Đảng, một số nội
dung phát triển và chỉnh đốn Đảng được đặc biệt chú ý nhằm phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng, vai trò xây dựng lực lượng, định hướng chiến lược phát triển của xã
hội; đồng thời củng cố vị thế của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ nhất, đối với các hoạt động đổi mới tổ chức, trước hết cần tăng cường công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức đảng viên. Sức mạnh của
Đảng, với tư cách là một tổ chức bắt nguồn từ năng lực, phẩm chất của từng đảng
viên. Củng cố vị thế của Đảng ở mọi giai đoạn cách mạng được xem là nhiệm vụ
hàng đầu và là sức mạnh tư tưởng và tổ chức. Tư tưởng và tổ chức đó được bắt
(*)

Xem Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thức X của Đảng – Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2006


12


nguồn từ năng lực, ý thức và kỹ năng tổ chức của đảng viên. Theo đó, cần tập trung
vào một số hoạt động sau:
+ Nhận thức và quán triệt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin trên tinh thần
vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội nước ta;
+ Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tấm gương của Người về lòng yêu
nước, về rèn luyện phẩm chất của người cách mạng, về lối sống cần kiệm, liêm chính,
chí công, vô tư; về ý thức tổ chức và đoàn kết nội bộ; về tinh thần tự lực, tự cường
của dân tộc và mở rộng quan hệ quốc tế...
+ Từ những kết quả của hoạt động xây dựng chỉnh đốn Đảng, cần tiếp tục đẩy mạnh
đấu tranh, phê phán chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, cơ hội, nhất là lệ quan
liêu, tham nhũng. Đây là những vấn đề nổi cộm vì: Đảng ta là Đảng cầm quyền, hầu
hết các chức vụ, trong đó có cả các chức vụ liên quan đến tổ chức, nhân sự, kinh tế. . .
đều do đảng viên đảm nhiệm. Đó là kết quả của sự rèn luyện của mỗi đảng viên và sự tín
nhiệm của quần chúng. Nhưng thực tế, có một bộ phận đảng viên đã không rèn luyện,
phai mờ phẩm chất nên đã phạm những sai lầm trên.
Thứ hai, đổi mới công tác cán bộ của Đảng. Công tác cán bộ là một chiến lược lớn
của Đảng gồm nhiều hoạt động: quy hoạch, đào tạo, rèn luyện, giao nhiệm vụ, đánh
giá... Tuy nhiên, những tiêu chuẩn ở mỗi giai đoạn có những yêu cầu mới cần phải
thích ứng. Công tác cán bộ nhằm vào các hoạt động:
+ Xây dựng cơ chế, quy chế, phát hiện, tuyển chọn, từ đó tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
cho đội ngũ cán bộ những kiến thức về chính trị, tư tưởng, chuyên môn và tổ chức
đồng thời nâng cao phẩm chất đạo đức.
+ Thực hiện có hiệu quả nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và rèn luyện cán bộ trong hệ thống chính trị.
+ Bảo đảm sự thống nhất giữa lựa chọn cán bộ và tiêu chuẩn hoá trên cơ sở hiệu quả
công việc và uy tín của cán bộ trước quần chúng, nhân dân.
Thứ ba, củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Bài học kinh nghiệm cho thấy, Đảng mạnh dựa

vào đảng viên và tổ chức cơ sở vững. Nguyên tắc tổ chức của Đảng cho thấy, sự lựa
chọn cán bộ cho bộ máy của Đảng ở Trung ương hay cấp trên là lựa chọn từ cơ sở. Nếu
không có đảng viên ở cơ sở đủ các yêu cầu về năng lực, phẩm chất thì không thể có
nguồn cho bộ máy ở các cấp.
Thứ tư, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo là chức năng sống còn
của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm
vào các mặt:
+ Bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, theo đó, các quyết định của Đảng là sản
phẩm trí tuệ tập thể. Chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa bè phái. Đây là một trong
những nguyên nhân làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng ở một số cơ sở Đảng.
+ Định rõ vai trò và trách nhiệm của cá nhân đảng viên trong tổ chức. Đảng hoạt
động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Nhưng trong tổ chức, mỗi đảng viên có vị trí
và nhiệm vụ nhất định, từ đó có chế độ trách nhiệm riêng. Về vấn đề này, Văn kiện

13


Đại hội IX đã nhấn mạnh: cấp uỷ, nhất là cán bộ chủ chốt phải có chương trình công
tác để tiếp xúc với nhân dân, trả lời các ý kiến chất vấn của đảng viên và nhân dân.
Thứ năm, đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra của Đảng. Kiểm tra là một trong
những hoạt động thuộc chức năng của Đảng. Kiểm tra nhằm vào các lĩnh vực:
+ Kiểm tra việc quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
+ Kiểm tra nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý các vi phạm, sai phạm của cá
nhân hoặc tổ chức một cách kịp thời, có hiệu quả.
+ Kiểm tra cũng là biện pháp củng cố tổ chức và sự đoàn kết trong Đảng.
b) Những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân. Để thực hiện sứ mệnh đó, Nhà nước ta còn là bộ máy chuyên chính của
nhân dân nhằm ngăn chặn những vi phạm về chủ quyền, về chế độ chính trị và trật tự
xã hội, trấn áp tội phạm.Nhà nước ta còn phải là một bộ máy xây dựng và phát triển

kinh tế – xã hội nhằm phục vụ và thoả mãn các nhu cầu cơ bản, thiết yếu ngày càng
cao của nhân dân; Nhà nước còn phải là đại diện của nhân dân, của quốc gia trên các
diễn đàn quốc tế nhằm bảo vệ chủ quyền, mở rộng đối ngoại, tranh thủ nguồn lực từ
bên ngoài v.v. . .
Đổi mới Nhà nước, trước hết nhằm vào các lĩnh vực:
- Hoàn thiện về tổ chức các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp;phát huy vai trò,
năng lực của các cấp chính quyền địa phương.
- Tiếp tục đổi mới chế độ công vụ, công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN, đáp ứng cải cách nền hành chính nhà nước; phục vụ tốt cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tiếp tục cải cách khu vực dịch vụ công, đặc biệt là các lĩnh vực sự nghiệp công lập
như giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể thao, lao động- xã hội,
môi trường, ...
- Tăng cường trang thiết bị để nâng cao năng suất trong công vụ và hiệu quả phục vụ
đối với xã hội, hiện đại hoá các cơ quan Nhà nước.
c) Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức
quần chúng
Nước ta từ khi thành lập chế độ Dân chủ Cộng hoà, cùng với sự lãnh đạo của Đảng,
hệ thống chính trị còn có các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể - những đại
diện của nhân dân. Có những tổ chức ra đời cùng với tiến trình cách mạng giải phóng
dân tộc như: Mặt trận Việt minh - tiền thân của Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên
cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc. . . Chế độ dân chủ ngày càng mở rộng cùng với cơ
cấu kinh tế đa dạng, môi trường pháp lý ổn định là những điều kiện để nhân dân tự tổ
chức thành những hội, những tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình trong khuôn
khổ pháp luật.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, sự hoàn thiện các tổ chức chính trị - xã hội tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
14



- Tổ chức và hoạt động của các tổ chức này phải luôn tuân thủ và phù hợp với đường
lối đổi mới của Đảng và đặt trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước.
- Phát huy sức mạnh nội lực của mỗi tổ chức trên con đường hoà nhập trong khối đại
đoàn kết toàn dân.
- Mỗi tổ chức là cầu nối trung gian giữa nhân dân (các thành viên) với Đảng và Nhà
nước. Mỗi tổ chức là người đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của tổ chức và của nhân dân.
Hoạt động của các tổ chức phải bảo đảm phương châm:
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và chịu sự quản lý của Nhà nước, tránh khuynh
hướng hành chính hoá tổ chức, dẫn đến khuynh hướng dựa vào Nhà nước nhiều hơn
phát huy vai trò của thành viên và của nhân dân.
- Tự chủ trong các hoạt động, các sinh hoạt của tổ chức.
- Mở rộng quan hệ với đối tác nước ngoài trong khuôn khổ của pháp luật bằng nhiều
hình thức để phát huy “đối ngoại nhân dân”.
Các tổ chức chính trị - xã hội chính là nơi tập hợp lực lượng, tạo nên nguồn sức mạnh
củng cố hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay./.

15


Chuyên đề 2
HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1. Khái quát về cơ quan nhà nước
Nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước..
Hệ thống các cơ quan Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
chung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các nhiệm vụ và chức
năng của Nhà nước.
Theo Hiến pháp năm 1992, nước ta có các loại cơ quan nhà nước sau đây:
(1) Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội Hội đồng nhân dân);

(2) Các cơ quan hành chính nhà nước gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện;
(3) Các cơ quan xét xử :Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự, các Toà án nhân dân
địa phương, Toà án đặc biệt và các Toà án khác do luật định;
(4) Các cơ quan kiểm sát:Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự, Viện
kiểm sát nhân dân địa phương.
Chủ tịch nước là một thiết chế nhà nước, thể hiện sự thống nhất của quyền lực, thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nên tồn tại độc lập tương đối với các cơ
quan nhà nước khác.
Tất cả các cơ quan nhà nước tạo thành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, bộ máy nhà
nước không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan nhà nước mà là một thể thống
nhất các cơ quan có mối liên hệ qua lại với nhau và vận hành theo một cơ chế đồng
bộ.
Từ giác độ hệ thống cho thấy, mỗi cơ quan nhà nước là một khâu (mắt xích) không
thể thiếu của bộ máy nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước tuỳ thuộc
vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.
Cơ quan nhà nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cơ quan nhà nước là một tổ chức công quyền có tính độc lập tương đối với
cơ quan nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm những cán bộ, công chức đư ợc
giao những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ và chức năng nhà nước theo
quy định của pháp luật.
Thứ hai, đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước làm cho nó khác với tổ chức khác là
tính quyền lực nhà nước. Chỉ cơ quan nhà nước mới có quyền lực nhà nước, được nhân
dân giao cho. Các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của nhân dân, giải quyết các
vấn đề quan hệ với công dân. Mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền do pháp luật
quy định - đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp lý mà
nhà nước trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng nhà nước. Yếu tố cơ bản của thẩm
quyền là quyền ban hành những văn bản pháp luật có tính bắt buộc chung, văn bản áp
dụng pháp luật phải thực hiện đối với các chủ thể có liên quan (có thể là cơ quan, tổ


16


chức nhà nước khác, công chức, viên chức các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công
dân).
- Thứ ba, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có những giới hạn về không gian
(lãnh thổ), về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động. Thẩm quyền của
cơ quan nhà nước phụ thuộc vào địa vị pháp lý của nó trong bộ máy nhà nước. Giới
hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước là giới hạn mang tính pháp lý vì được
pháp luật quy định.
Cơ quan nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình và trong phạm vi
đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Cơ
quan nhà nước có quyền, đồng thời có nghĩa vụ phải thực hiện các quyền của mình.
Khi cơ quan nhà nước không thực hiện hay từ chối thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật là vi phạm pháp luật.
- Thứ tư, mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt động riêng do
pháp luật quy định.
Các loại hình bộ máy nhà nước khác nhau có nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác
nhau. Bộ máy nhà nước tư sản thường được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân
lập các quyền (phân quyền cứng rắn và cơ chế “kiềm chế và đối trọng” hoặc phân
quyền mềm dẻo), các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập nhau. Còn bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất, nhưng có sự phân công chức năng, phân định thẩm quyền rành mạch và có sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Đồng thời trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra một cơ chế
kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ
luật trong quản lý nhà nước.
2. Các cơ quan nhà nước
2.1. Quốc hội

Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều 83
Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội do cử tri cả nước bầu ra theo
chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam,
Quốc hội có các chức năng sau:
- Lập hiến và lập pháp. Lập hiến là làm ra Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, lập pháp
là làm luật và sửa đổi luật;
- Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
17


Các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định cụ thể tại Điều 1 Luật Tổ
chức Quốc hội ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Vị trí của Quốc hội thể hiện thông qua mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan
khác của Nhà nước: Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quan hệ đó thể hiện qua một số
quyền hạn của Quốc hội: xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương; bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch
nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết
của Quốc hội . . .

Quốc hội hoạt động thông qua hình thức: kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu
Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất cần phải nâng cao chất lượng các hình thức hoạt động
của Quốc hội. Trước hết là: “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp, ban
hành các luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ưu tiên xây
dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải
cách bộ máy nhà nước, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hoá, thông tin... đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các uỷ ban
của Quốc hội...; phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn trong hoạt
động giám sát của Quốc hội... với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của các cơ
quan và tổ chức khác”(*).
2.2. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Là cơ quan thường trực của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu
ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội gồm có: Chủ
tịch Quốc hội; các Phó Chủ tịch Quốc hội và các uỷ viên do Chủ tịch Quốc hội làm
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội làm các Phó Chủ tịch. Thành viên Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ và làm việc theo
chế độ chuyên trách.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có những quyền hạn độc lập do Hiến pháp và Luật Tổ
chức Quốc hội quy định như quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ban hành
pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giám sát việc thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ
(*)


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia. H.1996.Tr.130.

18


các văn bản của các cơ quan nói trên trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; trong
thời gian Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến
tranh khi đất nước bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp
gần nhất của Quốc hội; quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố
tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở địa phương; thực hiện quan hệ đối ngoại
của Quốc hội; tổ chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc hội . . .
Trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội còn có Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội: Số lượng uỷ ban của Quốc hội là 9; tách Uỷ ban pháp luật thành Uỷ ban
pháp luật và Uỷ ban tư pháp; tách Uỷ ban kinh tế - ngân sách thành Uỷ ban kinh tế
và Uỷ ban ngân sách; Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban tư pháp, Uỷ ban kinh tế, Uỷ ban
ngân sách, Uỷ ban quốc phòng và an ninh; Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ
và môi trường; Uỷ ban đối ngoại.
2.3. Chủ tịch nước
Trong bộ máy nhà nước, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Khi
cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Chủ tịch
nước có quyền đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời
hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí,
thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.

Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu miền nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục
bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không
thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Nhiệm vụ, quyền hạn về những công việc do Chủ tịch nước tự quyết định như: Chủ
tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội
đồng Quốc phòng và An ninh; quyết định phong hàm cấp sĩ quan cấp cao trong các
lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp đại sứ, những hàm, cấp nhà nước trong các
lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà
nước và danh hiệu vinh dự nhà nước. Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
19


Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm
phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn Điều ước quốc tế
đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập Điều ước quốc tế, trừ trường
hợp cần trình Quốc hội quyết định. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chủ
tịch nước ban hành lệnh, quyết định...
Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch nước
giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch nước uỷ nhiệm thay Chủ
tịch nước làm một số nhiệm vụ. Khi Chủ tịch nước không làm được việc trong thời
gian dài, thì Phó Chủ tịch nước quyền Chủ tịch nước. Trong trường hợp khuyết Chủ
tịch nước, thì Phó Chủ tịch nước quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch
nước mới.

2.4. Chính phủ
Địa vị pháp lý của Chính phủ được xác lập trên cơ sở các quy định tại Hiến pháp
1992 và Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001.
Theo Điều 109 Hiến pháp l992: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Với vị trí như vậy, Chính phủ có hai tư cách: là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
Chính phủ phải chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và tổ
chức thực hiện các văn bản pháp luật đó; là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ có toàn quyền giải quyết
các vấn đề quản lý nhà nước trên phạm vi toàn quốc, trừ những vấn đề thuộc quyền
giải quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Với vị trí cơ quan hành chính nhà nước cao nhất “Chính phủ thống nhất quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của Nhà nước”, Chính phủ chỉ đạo tập trung, thống nhất các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương.
Chính phủ được lập ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Trong kỳ họp
này Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ từ số đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ
tịch nước và phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng danh sách các Phó Thủ tướng, các
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Với phương thức thiết lập Chính phủ
như vậy nhằm xác định rõ vai trò trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước Quốc hội,
đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng trước Quốc hội và
trách nhiệm của các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ trước Thủ tướng, vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng và các thành viên Chính phủ
về ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ chịu sự giám
sát của Quốc hội, uỷ ban Thường vụ Quốc hội trực tiếp hoặc thông qua sự giám sát
20



của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Trong các kỳ họp của Quốc hội,
Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc
hội.
* Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc
Chính phủ do Quốc hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ theo đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ.
Thành phần của Chính phủ gồm: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Các hình thức hoạt động của Chính phủ gồm:
- Hình thức hoạt động của tập thể Chính phủ là phiên họp của Chính phủ. Những vấn
đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số tại các phiên họp của Chính phủ gồm: chương trình hoạt động hàng
năm của Chính phủ; những dự án luật trình trước Quốc hội, dự án pháp lệnh trình
trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; những dự án và kế hoạch ngân sách; những chính
sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội; các vấn đề quan trọng về quốc phòng, an
ninh, đối ngoại; các dự án trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể các Bộ,
các cơ quan ngang Bộ; việc thành lập mới, nhập, tách, điều chỉnh địa giới hành chính
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể cơ
quan thuộc Chính phủ; các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng
Chính phủ - những người giúp Thủ tướng thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng theo sự
phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ
tướng uỷ nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Thủ tướng.
- Hoạt động của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với tư cách là thành viên
Chính phủ tham gia giải quyết các công việc chung của Chính phủ, với tư cách là
người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm mọi mặt về ngành, lĩnh vực

do mình phụ trách.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ (Điều 8 Luật Tổ chức Chính phủ)
- Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính
phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy
hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân
dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng
nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp
xếp và sử dụng đội ngũ viên chức Nhà nước;
- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác
tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
- Trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội;
21


- Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn
hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo đảm sử
dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia;
- Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo
điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản,
lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
- Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an
ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi
hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác
để bảo vệ đất nước;
- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và
kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;

- Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân
danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp do Chủ tịch
nước ký với người đứng đầu Nhà nước khác; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập Điều
ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các Điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
- Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
- Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương;
- Phối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Tổng
liên đoàn Lao động Việt Nam, Ban chấp hành trung ương của các đoàn thể nhân dân
trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó
hoạt động có hiệu quả.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ (Điều 114 Hiến pháp 1992)
- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các
cấp; chủ tọa các phiên họp của Chính phủ;
- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình
Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê
chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ
trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân
và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến
pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên;

22



- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
- Thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng
về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết.
Trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị
định, nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định và chỉ thị,
đồng thời tổ chức thực hiện các quyết định và chỉ thị đó.
Các văn bản do Thủ tướng ban hành trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể bị Quốc hội bãi
bỏ, bị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội huỷ bỏ.
2.5. Bộ, cơ quan ngang Bộ
Bộ, cơ quan ngang Bộ do Quốc hội quyết định việc thành lập, bãi bỏ theo đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ.
Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước
các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của
nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. Với vị
trí đó phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với ngành, lĩnh vực
được phân công bao gồm hoạt động của mọi tổ chức kinh tế, văn hoá - xã hội, tổ
chức hành chính- sự nghiệp... thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, bất luận tổ
chức đó thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức nào, ở cấp nào, hoạt động của mọi công
dân Việt Nam, cũng như hoạt động của mọi cơ quan tổ chức nước ngoài, người
nước ngoài tại Việt Nam trên lĩnh vực thuộc sự quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Bộ gồm hai loại: Bộ quản lý theo ngành, Bộ quản lý đối với lĩnh vực (Bộ quản lý
chức năng hay Bộ quản lý liên ngành).
Bộ quản lý ngành là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý những ngành kinh
tế, kỹ thuật, văn hoá, xã hội nhất định (như: nông nghiệp, công thương, giao thông
vận tải, xây dựng, văn hoá, giáo dục, y tế...). Bộ quản lý ngành có chức năng, quyền

hạn, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính - sự nghiệp, kinh
doanh do mình quản lý về mặt nhà nước.
Bộ quản lý theo lĩnh vực là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước
theo lừng lĩnh vực (kế hoạch, tài chính, khoa học - công nghệ, môi trường, lao động,
tổ chức và công vụ...) liên quan tới hoạt động của tất cả các Bộ, các ngành, các cấp,
các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Bộ quản lý theo lĩnh vực có nhiệm vụ
giúp Chính phủ nghiên cứu và xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội chung; xây dựng
các dự án kế hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành; xây dựng các quy định, chính
sách, chế độ chung tham mưu cho Chính phủ, hoặc tự mình ban hành những văn bản
quy phạm pháp luật về lĩnh vực mình phụ trách, hướng dẫn các cơ quan nhà nước và
các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội thi hành; kiểm tra và bảo đảm sự chấp hành thống
23


nhất pháp luật của Nhà nước trong hoạt động của các Bộ và các cấp về lĩnh vực mình
quản lý, đồng thời có trách nhiệm phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ quản lý
ngành hoàn thành nhiệm vụ. Bộ quản lý theo lĩnh vực chỉ quản lý một mặt hoạt động
nào đó có liên quan tới hoạt động của các Bộ, các ngành, các cấp chính quyền, cơ
quan, tổ chức. Vì vậy, chỉ có quyền kiểm tra về mặt hoạt động thuộc lĩnh vực do mình
quản lý, không can thiệp vào những mặt hoạt động khác của các cơ quan, tổ chức đó.
Đứng đầu Bộ là Bộ trưởng. Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu
trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành do mình phụ trách trong phạm vi cả
nước, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của các cơ sở theo quy định
của pháp luật; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh
vực, ngành mình phụ trách; phải trình bày vấn đề và trả lời chất vấn của Quốc hội,
của các uỷ ban của Quốc hội và các đại biểu của Quốc hội.
Trong quan hệ với các bộ trưởng khác, Bộ trưởng có trách nhiệm tôn trọng quyền
quản lý của nhau, phối hợp với nhau, khi cần có thể cùng ban hành Nghị quyết,
Thông tư liên tịch; có quyền hướng dẫn và kiểm tra các Bộ thực hiện nhiệm vụ công
tác thuộc ngành hay lĩnh vực; có quyền kiến nghị Bộ trưởng khác đình chỉ việc thi

hành hoặc bãi bỏ những quy định của cơ quan đó trái với các văn bản pháp luật của
nhà nước hoặc của Bộ, ngành do mình phụ trách; nếu kiến nghị đó không được chấp
nhận thì trình lên Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của mình Bộ trưởng chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra
Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện các nhiệm vụ công tác, thuộc ngành, lĩnh vực theo
đúng nội dung quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; có quyền đình chỉ việc thi hành
và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những văn bản của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trái với các văn bản của Bộ về ngành, lĩnh vực do Bộ, cơ
quan ngang Bộ phụ trách và chịu trách nhiệm về quyết định đình chỉ đó. Trong trường
hợp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không nhất trí với quyết
định đình chỉ thi hành của Bộ trưởng thì vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị
với Thủ tướng; Bộ trưởng có quyền kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ đình chỉ thi
hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với
các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc của Bộ về ngành, lĩnh vực do Bộ phụ trách.
Để thực hiện nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước của mình “Căn cứ vào Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị,
thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa
phương và cơ sở”.
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ được quy định tại Điều 23 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 và các nghị
định về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ cụ thể.
2.6. Hội đồng nhân dân

24


Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân được quy định trong Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003.

Điều 119 Hiến pháp 1992 quy định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân
do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên”. Vị trí và tính chất của Hội đồng nhân dân (HĐND) còn
được quy định lại Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003
“Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật, bảo đảm sự thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy chủ
động, sáng tạo của địa phương”. Những quy định này phản ánh tính chất đa chức
năng của HĐND. Một mặt, HĐND là một bộ phận cơ cấu quyền lực nhà nước thống
nhất, đại diện cho Nhà nước giải quyết những vấn đề có ý nghĩa toàn quốc phát sinh
tại địa phương, làm các nghĩa vụ của địa phương với Nhà nước. Mặt khác, HĐND là
một thiết chế đại diện của nhân dân một đơn vị hành chính - lãnh thổ, thay mặt nhân
dân địa phương quyết định những vấn đề có ý nghĩa địa phương xuất phát từ nhu cầu
đời sống nhân dân địa phương.
Là một thiết chế hành động có chức năng quản lý nhà nước ở địa phương “Căn cứ vào
Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra Nghị
quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh
ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành
mọi nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước” (Điều 120
Hiến pháp 1992).
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân quy định nhiệm vụ quyền hạn của HĐND từng cấp;
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân ở đô thị. HĐND và Uỷ ban
nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, vô
trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực
khác trong cơ quan, cán bộ, công chức Nhà nước và trong bộ máy chính quyền địa
phương.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình và xuất phát từ lợi ích

chung của đất nước, của nhân dân địa phương, HĐND dân quyết định những chủ
trương, biện pháp để xây dựng và phát triển địa phương về mọi mặt: kinh tế, văn hoá
- xã hội, y tế, giáo dục..., làm tròn nghĩa vụ của địa phương với cả nước.
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, căn cứ vào Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
và các văn bản của cấp trên, HĐND ban hành các nghị quyết và giám sát việc thực
hiện các nghị quyết đó. Khi thực hiện chức năng giám sát HĐND có quyền bãi bỏ
những Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, những quyết
định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
25


×