Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Mot so bien phap giup HS hoat dong tich cuc trong gio hoc tin hoc 11 o truong THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.87 KB, 19 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐÊ
Trong những năm gần đây, Tin học được đưa vào trường THPT và một số
trường THCS trong phạm vi cả nước là một môn học bắt buộc. Khi mới làm
quen với Tin học, HS tỏ ra rất hào hứng vì đây là một môn học khá mới mẻ, hiện
đại và mang tính thực tế cao. Tuy nhiên một thời gian sau, khi kiến thức đã khó
hơn thì học sinh lại có thái độ thờ ơ trong việc học cũng như vận dụng tin học
vào cuộc sống hằng ngày.
Thực tế hiện nay Tin học vẫn được xem là “môn học phụ” bới nó chưa

phải là môn học được đưa vào thi tốt nghiệp, thi chọn Đại học - Cao đẳng, do đó
sự đầu tư về thời gian, sức lực của học sinh cho môn học là chưa có. Nhưng Tin
học lại là môn học khó, trừu tượng khái quát, đặc biệt là nội dung lập trình trong
chương trình Tin học lớp 11.
Với đặc thù là trường THPT ở khu vực nông thôn, miền núi, công việc
giảng dạy Tin học của tôi tại trường THPT Trung Nghĩa có những thuận lợi và
khó khăn nhất định.
Thuận lợi là học sinh không quá xa lạ với máy tính điện tử - 1 công cụ
không thể tách rời của Tin học. Nhưng học sinh chỉ biết đến máy tính điện tử là
1 công cụ để giải trí hoặc 1 số ít các em học sinh sử dụng máy tính điện tử để tra
cứu thông tin, chứ chưa có học sinh nào biết gắn máy tính điện tử với Tin học;
Đặc biệt, các em hoàn toàn xa lạ với khái niệm lập trình, với tư duy lập trình và
với thao tác lập trình.
Lập trình là cách sử dụng Ngôn ngữ lập trình mô phỏng thuật toán để giúp
máy tính giải các bài toán, từ đó người dùng chỉ cần đưa vào các giá trị đầu vào
(Input - yêu cầu), máy tính sẽ đưa ra giá trị cần tìm (Output) cho người dùng
thông qua việc thực thi các lệnh đã được lập trình. Cái khó của lập trình là các
bài toán đưa ra dưới dạng tổng quát, trừu tượng, do đó nếu giải bài toán ấy với
các bộ số cụ thể có độ khó 1, thì giải bài toán với giá trị tổng quát có độ khó 5 và
mô phỏng cách giải ấy với 1 Ngôn ngữ lập trình cụ thể lại có độ khó 8.
1


1


Xuất phát từ lý luận thực tiễn và qua thực tế công tác một số năm giảng dạy
bộ môn Tin học ở trường THPT Trung Nghĩa tôi luôn đặt ra câu hỏi tại sao một
môn học có tính tư duy cao, mới mẽ, hấp dẫn vậy mà không thu hút được được
học sinh tiếp thu bài và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Song nguyên nhân
chính có lẽ là do quan niệm đây chỉ là môn học phụ không thi tốt nghiệp THPT,
không thi Đại học nên đa số các em không chú ý đến cái hay và mặt tích cực
trong bộ môn này. Về phía giáo viên, mặt nào đó vẫn chưa có một phương pháp
dạy học thật sự phù hợp, chưa tạo được hứng thú, niềm say mê, yêu thích lập
trình cho học sinh khi học bộ môn này. Đó là lý do tại sao tôi chọn đề tài
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH HOẠT ĐỘNG TÍCH CỰC
TRONG GIỜ HỌC TIN HỌC 11 Ở TRƯỜNG THPT TRUNG NGHĨA”.

2

2


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
1. Thực trạng của vấn đề
Trường THPT Trung Nghĩa là một trường thuộc khu vực miền núi, nên
còn gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất phục vụ quá trình dạy và học, đặc
biệt là môn Tin học. Năm học 2014 – 2015 toàn trường có 20 lớp, trong đó có 2
phòng máy vi tính, mỗi phòng có 20 máy và có 1 phòng máy đã được trang bị
máy chiếu . Bên cạnh đó do các máy tính đã được sử dụng trong thời gian dài,
một số máy đã bắt đầu hư hỏng nên chỉ đủ để 1 phòng hoạt động tốt; khi giáo
viên muốn dạy bằng máy chiếu phải thay đăng kí để phiên nhau dạy. Không có
tranh ảnh phục vụ cho các giờ dạy trên lớp học bình thường (trong trường hợp

mất điện hoặc không có sự can thiệp, trợ giúp của công nghệ thông tin).
Vào năm học 2014 – 2015 tôi được phân công dạy môn tin học cho 7 lớp
11, trong đó có hai lớp mà tôi thử nghiệm để nghiên cứu cho đề tài này là lớp
11A1 và lớp 11A2. Nhìn chung các em đều ngoan và có thái độ kính trọng thầy
cô giáo, cả hai lớp đều thuộc nhóm lớp cơ bản tự nhiên. Số tiết dạy học kỳ 1 là 1
tiết/lớp/tuần, học kỳ 2 còn 2 tiết/ tuần/ lớp.
Từ thực tế giảng dạy tại trường THPT Trung Nghĩa. Tôi có ghi lại bảng khảo
sát chất lượng đầu năm học 2014 – 2015 như sau:
Lớp

Điểm >=8

Sĩ số

SL

TL%

Trên TB
SL

TL%

Dưới TB
SL

Điểm < 2.5

TL%


SL

TL%

11A1 35

0

0

18

51.4

17

48.6

5

14.3

11A2 35

0

0

16


45.7

19

54.3

6

17.1

Một trong những nguyên nhân khiến các em có thái độ e dè ngại học môn Tin
học : Đó là một trong các bộ môn khoa học đòi hỏi người học phải có tính tư
duy cao, tính kiên trì nhẫn nại điều này không phải ai cũng có sẵn càng không
thể học vẹt, học tủ. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan sau:
* Hoàn cảnh gia đình, điều kiện học tập khó khăn
3

3


Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, học sinh phải làm việc nhà nhiều hoặc làm
thêm để kiếm sống nên không chú ý đến học tập.
Không chỉ đối với riêng môn Tin học mà còn nhiều môn khác. Sự quan tâm
của phụ huynh cũng ảnh hưởng đến việc học của học sinh. Nếu như trên lớp đã
không chịu tập trung nghe giảng về nhà không xem lại bài thì các em học sẽ
càng kém hơn, có suy nghĩ chán nản hơn và thiếu tích cực. Nhiều học sinh thuộc
diện khá giả nhưng do bố mẹ bận công việc nên không biết các em học hành như
thế nào? Lại có những học sinh vì hoàn cảnh gia đình khó khăn bố mẹ đều phải
đi làm ăn xa không ở bên cạnh để các em ở nhà tự xoay sở, vì tuổi còn nhỏ nên
các em không đủ ý thức để vươn lên bằng cách tự giác học tập mà chỉ đến lớp

cho có còn hầu như không có ý thức tiếp thu bài giảng.
* Yếu tố tâm lý, xã hội.
Có lẽ do áp lực của các kì thi tốt nghiệp cũng như đại học nên hầu hết học
sinh chỉ coi trọng những môn trong các kì thi mà tỏ ra xem nhẹ các môn khác.
Nếu như môn Toán hay 1 số môn ngoài học trên lớp chính khoá các em còn
được học thêm và về nhà các em dành hết thời gian cho chúng vậy thì còn thời
gian nào các em dành cho Tin học.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với Internet, các dịch vụ
vui chơi, giải trí hấp dẫn lôi cuốn các em hơn là nhiệm vụ học tập nhất là các
môn học có tính tư duy cao như môn Tin học. Thực tế dạy học môn Tin ở trường
hiện nay cho thấy nhiều học sinh chán học, lười học và có khuynh hướng ham
chơi hơn ham học.
* Nhiều giáo viên dạy Tin chưa có phương pháp phù hợp.
Chưa bao giờ chúng ta thấy báo chí và các phương tiện, diễn đàn trên mạng
nói nhiều về phương pháp dạy học như hiện nay. Nếu như trước đây giáo viên
thường sử dụng phương pháp dạy học truyền thống thì bây giờ phải sử dụng
nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong một tiết dạy. Sự phát triển của xã
hội làm cho học sinh có nhiều điều kiện tiếp xúc với kiến thức của nhân loại
sinh động và hấp dẫn đặc biệt là mạng Internet. “Nếu như giáo viên chỉ biết bôi
đen kiến thức và dán vào học sinh thì sẽ không hiệu quả “ chính vì vậy mà hiệu
quả của quá trình dạy học tương đối phụ thuộc vào phong cách, phương pháp
truyền thụ của giáo viên.
4

4


* Do đặc thù của môn học
Tâm lí một số học sinh ham chơi vẫn nghĩ học Tin là được giải trí ,chơi điện
tử nhưng thực ra đối với Tin học 11 đòi hỏi học sinh phải tư duy rất nhiều. Phải

vận dụng kiến thức nhiều môn học để viết chương trình. Thậm chí khi các em đã
có thuật toán đúng nhưng khi bắt tay vào viết chương trình vẫn gặp khá nhiều
khó khăn. Hoặc khi đã viết xong chương trình nhưng không chạy được với các
bộ test thì đòi hỏi học sinh phải kiểm tra và sữa lại. Nên đôi khi hay gây tâm lí
chán nản đối với học sinh.
Từ thực tế hiện nay về đổi mới phương pháp dạy học, học sinh tự chủ động
chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người hướng dẫn điều khiển.
Xuất phát từ tâm lý coi môn Tin học là môn phụ nên học sinh không chú ý
học. Việc tạo hứng thú học tập cho các em có vai trò rất quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. Để cung cấp kiến thức khoa học, giáo
dục tư tưởng và rèn luyện kỹ năng cho học sinh, giáo viên phải làm cho học sinh
ham mê hứng thú học tập, làm cho quá trình học tập của các em trở nên tự giác,
tạo nên niềm vui trong sáng và bổ ích, bồi dưỡng cho các em tinh thần học tập,
mạnh dạn trước tập thể, tạo được hưng phấn đồng đều giữa các em để các em
có được sự hòa đồng trong nhận thức và học tập.
Việc tạo sự yêu thích học tập môn tin học cho các em cần phải căn cứ vào
các tiêu chí sau:
+ Học sinh đi học đầy đủ
+ Học sinh thuộc bài khi kiểm tra bài cũ.
+ Học sinh hào hứng phát biểu xây dựng bài.
+ Học sinh tập trung chú ý cao, học bài và làm bài đạt kết quả tốt.
Từ đây ta hoàn toàn có thể xây dựng các biện pháp để giải quyết vấn đề đặt ra.

5

5


2. Các biện pháp để giải quyết vấn đề
Để đánh giá mức độ hiệu quả của các biện pháp được xây dựng, tôi đã

tiến hành thực hiện với 2 lớp 11A1 và lớp 11A2 (học sinh hai lớp có sức học
ngang nhau). Trong đó 35 học sinh lớp 11A1 được chọn làm nhóm đối chứng và
35 học sinh lớp 11A2 được chọn làm nhóm thực nghiệm. Các phương pháp
được tôi sử dụng cho nhóm thực nghiệm như sau:
2.1. Tạo tâm lí thoải mái cho học sinh
Một trong những yếu tố khiến các em không có hứng thú khi tiếp xúc với bộ
môn này là do giáo viên tạo áp lực cho học sinh. Một số giáo viên luôn đòi hỏi
cao đối với những học sinh nhưng không tìm hiểu xem liệu học sinh có thể đáp
ứng được những yêu cầu đó không. Chính vì vậy mà ngay từ khi tiếp xúc với
các em tôi đã tạo cho các em tâm lí thoải mái, sự thân thiện, chân thành tin cậy
trong các hoạt động dạy và học.
Làm sao để cho học sinh thấy được đối với mỗi học sinh khi ngồi trên ghế
nhà trường chúng ta phải thật sự nỗ lực để tiếp thu những kiến thức phổ thông
sau này có thể học cao hơn hoặc áp dụng vào thực tế, chứ không phải học chỉ để
vượt qua các kì thi mà những kiến thức này lại xem nhẹ.
Trong quá trình dạy giáo viên phải có thái độ nhẹ nhàng khi các học sinh mắc
khuyết điểm, cư xử khéo léo với các em, xử lí tốt các tình huống sư phạm.
Việc đánh giá nhận xét phải công bằng, khách quan và công tâm, công khai
kết quả trong các giờ kiểm tra và nhận xét bài làm của học sinh. Không nên
đánh giá quá thấp sẽ làm cho học sinh chán nản, nên tạo cho học sinh một niềm
tin khi học môn này.
Phải có kiến thức vững vàng để giải đáp thắc mắc một cách thuyết phục,
khuyến khích các em mạnh dạn hỏi bài khi chưa hiểu.
Xây dựng cho các em thói quen học tập tích cực, động viên kịp thời những
học sinh tiến bộ, cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng đắn, khuyến
khích các em không ngừng cố gắng, tạo điều kiện để mọi học sinh trong lớp đều
có cơ hội phát biểu trong giờ học.

6


6


2.2. Sử dụng giáo án điện tử và tận dụng tối đa các giờ học tại phòng thực
hành.
Giáo án điện tử là phương tiện hỗ trợ cho giáo viên (GV), giúp bài giảng
sinh động hơn, học sinh (HS) hứng thú học tập và dễ dàng tiếp thu bài. Vì vậy,
để giúp HS khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập, khi giảng
dạy GV cần phải kết hợp hài hòa giữa màn hình với lời giảng và giữa màn hình
với ghi bảng sao cho linh hoạt uyển chuyển.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy hầu hết các em đều rất thích được lên
phòng máy để thực hành, thích được học các tiết học có sử dụng máy chiếu để
được học các bài giảng điện tử, có âm thanh, hình ảnh, màu sắc sinh động. Nếu
chúng ta chuẩn bị được thật nhiều những giờ dạy trên các phòng này cũng là
một trong những biện pháp tạo hưng phấn cho học trò. Hạn chế đi cách dạy
thông báo khô khan, tẻ nhạt, hay giáo viên chiếu – học sinh chép.
Bên cạnh đó, GV phải thật sự có ý thức học hỏi, khai thác và sử dụng có
chọn lọc những tư liệu quý trên Internet. Đừng quá tham lam tư liệu, có bao
nhiêu cũng đưa vào bài giảng, làm cho bài giảng dễ bị loãng.
2.3. Gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học bằng các trò chơi đơn
giản
Học sinh bao giờ cũng thích vừa học vừa chơi, chơi để lĩnh hội tri thức
mới từ trò chơi, chơi để làm cho không khí lớp học trở nên vui vẻ, tạo ra sự đoàn
kết giữa các em, giảm căng thẳng trong các giờ học. Nếu chúng ta chịu khó nghĩ
ra các trò chơi có hàm ý nội dung cần truyền đạt trong trò chơi ấy chắc chắn các
em sẽ tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả và không thấy chán mỗi khi đến giờ
tin học, nếu giáo viên biết cách sắp xếp thời gian hợp lý tổ chức trò chơi cho học
sinh thì học sinh rất hào hứng học
* Ví dụ . Trong giờ “Câu hỏi và bài tập”- Tiết 10 theo PPCT Tin 11 giáo
viên có thể thể cho học sinh chơi trò chơi như sau: Chọn 2 đội lên bảng (khoảng

3 học sinh/ đội) để viết tất cả các từ tiếng Anh thuộc các kiểu dữ liệu chuẩn và
các từ khóa đã học. Học sinh còn lại dưới lớp được chia ra làm cổ động viên
7

7


tinh thần cho 2 đội chơi. Như vậy sau trò chơi các em vừa nhớ hết các từ khóa
trong tin học lại vừa bổ sung thêm vốn từ mới trong Tiếng Anh.
* Ví dụ: Để bước vào tìm hiểu ví dụ sắp xếp một dãy số nguyên bằng
thuật toán tráo đổi (Bài 11. Kiểu mảng, mục 1b, ví dụ 2), để các em hiểu ý tưởng
của thuật toán giáo viên có thể cho khoảng 5 học sinh lên bảng chơi trò xếp
hàng, sau đó giáo viên đưa ra nguyên tắc (cách) xếp hàng sao cho người đứng
sau luôn cao hơn người đứng trước. Cứ lần lượt so sánh từng cặp một nếu thấy
thỏa mãn điều kiện đã cho thì tiến hành đổi chỗ, cứ như vậy cho đến khi hết lượt
và lặp lại quá trình này cho tới khi học sinh thấp nhất sẽ đứng đầu hàng, học
sinh cao nhất sẽ đứng cuối hàng, đảm bảo trong hàng người đứng sau luôn cao
hơn người đứng trước.
Như vậy sẽ giảm bớt sự trừu tượng trong cách biểu diễn thuật toán, học
sinh thấy được quy luật của sự đổi chỗ các phần tử và các em bị cuốn vào hoạt
động và lời giảng của giáo viên, từ đó giúp các em hiểu chương trình và không
còn tâm lý sợ tìm hiểu chương trình chỉ toàn các câu lệnh mà các em cho là khô
khan, khó hiểu.
2.4. Chú trọng đến dạy tư duy thuật toán cho học sinh
Có thể nói mục tiêu chính của môn Tin học 11 không phải là dạy một ngôn
ngữ lập trình cụ thể. Ngôn ngữ lập trình pascal được sử dụng như là công cụ để
chuyển tải kiến thức văn hoá phổ thông về lập trình, về ngôn ngữ lập trình bậc
cao cũng như để rèn luyên kĩ năng lập trình. Trong phạm vi văn hoá tin học phổ
thông, lập trình để giải bài toán trên máy tính được hiểu theo nghĩa chuyển đổi
thuật toán đã có sang chương trình viết trên ngôn ngữ lập trình bậc cao. Do đó ở

lớp 10 đã có sẵn một số thuật toán trình bày khá kĩ, nên lớp 11 coi trọng việc cài
đặt chương trình cho hầu hết các thuật toán đó. Cần đảm bảo tính kế thừa, liên
thông môn Tin học của 2 lớp 10 và 11. Tạo điều kiện cho học sinh ôn lại, ghi
nhớ lâu dài một số thuật toán căn bản, đặc trưng trong Tin học như sắp xếp và
tìm kiếm.
Ngôn ngữ lập trình pascal chỉ là ngôn ngữ để chuyển tải thuật toán nên giáo
viên không nên quá đi sâu vào ngôn ngữ này mà chủ yếu vẫn là truyền đạt thuật
8

8


toán cho học sinh. Đối với mỗi bài tập nào đó giáo viên cần phải yêu cầu học
sinh đưa ra ý tưởng sau đó đến thuật toán, nên khuyến khích học sinh đưa ra
nhiều ý tưởng và thuật toán khác nhau. Sau đó sẽ phân tích để tìm thuật toán tối
ưu.
Ví dụ như trong Sách giáo khoa Tin học 11 có bài tập
Lập trình để giải bài toán cổ sau:
Vừa gà vừa chó.
Bó lại cho tròn.
Ba mươi sáu con.
Một trăm chân chẵn.
Hỏi có bao nhiêu con mỗi loại
Đối với bài toán trên chúng ta có thể có rất nhiều thuật toán tương ứng với
nhiều chương trình khác nhau.
Chương trình 1:
Var cho, ga : byte;
Begin
Cho:= 1 to 36 do
Ga := 1 to 36 do

If cho* 4 + ga*2 =100 then write(‘cho=’, cho :3, ‘ga=’, ga);
End.
Chương trình 2:
Var cho: byte;
Begin
Cho:= 1 to 36 do
If cho*4 + (36 – cho) *2 =100 then write(‘cho=’ ,cho: 4, ‘ga=’,36- cho);
End.
Chương trình 3:
9

9


Var cho: byte;
Begin
For cho: = 1 to 24 do
If cho*4 +(36-cho)* 2= 100 then write(‘cho=’ ,cho: 4, ‘ga=’,36-cho);
End.
Giáo viên sẽ yêu cầu học sinh đi phân tích xem thuật toán nào là tối ưu nhất.
Trong quá trình phân tích sẽ lôi cuốn học sinh vào tiết học một cách sôi nổi và
hào hứng. Khi đi tìm một ý tưởng, thuật toán cho một bài toán nào đó học sinh
không chỉ ôn tập và rèn luyện kiến thức môn Tin học mà còn là vận dụng và
tổng hợp kiến thức môn Toán và rất nhiều môn học khác nhau và trong thực tế
cuộc sống hằng ngày. Tại sao mà biến (cho<= 24) trong chương trình 3 ,vì tối đa
là 100 chân mà chó có 4 chân nên tối đa là 25 con chó mà trong đó có cả gà nên
tối đa chỉ có 24 con chó. Trong giờ học giáo viên nên khuyến khích học sinh đưa
ra các thuật toán có thể có. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà có thể tăng độ khó
của thuật toán.
Trong chương trình Tin học của chúng ta có 2 loại câu lệnh lặp đó là For - do

và While - do giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuyển đổi qua lại giữa 2 loại
câu lệnh trên. Ví dụ trên chúng ta đã sử dụng For – do vậy có thể sử dụng While
– do không, nếu được hãy cài đặt bằng while – do. Đến đây không chỉ đòi hỏi
học sinh phải nhớ từng loại câu lệnh mà nó còn đòi hỏi sự tư duy của học sinh vì
tuỳ từng bài toán mới có thể chuyển đổi chứ không phải bài nào cũng có thể.
2. 5. Áp dụng phương pháp hoạt động nhóm trong các giờ học
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống thì việc áp
dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học mới cũng đem lại hiệu quả tích cực.
Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học mới.
Phương pháp này tỏ ra khá nhiều ưu điểm:
Làm việc theo nhóm cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải quyết 1
cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giáo viên dẫn dắt trực tiếp mà
chỉ nhờ vào sự kết hợp chặt chẽ và phân công công việc trong nhóm nhỏ.
Phương pháp này thích hợp cho việc thảo luận nhóm, đưa ra những cách
thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích sự hợp tác của các thành viên trong
10

10


nhóm cùng tham gia vào việc giải quyết 1 vấn đề. Làm việc theo nhóm thoả mãn
nhu cầu học tập của cá nhân, người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu
đạt riêng cho vấn đề nào đó. Nếu trong phương pháp thuyết trình người học chỉ
có thể trao đổi với nhau rất ít thì làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có
cơ hội đưa ra quan điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác ở đó cũng
đòi hỏi tăng cường tư duy độc lập và trao đổi lẫn nhau trong nhóm.
Trong khi thực hiện phương pháp làm việc theo nhóm, giáo viên đóng vai trò
là người chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi việc thực
hiện và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. Như vậy công việc của
giáo viên trong làm việc theo nhóm là không bao giờ thừa, trái lại đó là sự cần

thiết để giúp các nhóm đạt được kết quả trong việc tìm ra giải pháp, câu trả lời
trong việc giải quyết vấn đề được đưa ra.
Để thực hiện được phương pháp này giáo viên cần lập kế hoạch bài dạy cụ
thể và chi tiết. Dự kiến cách chia nhóm, số lượng nhóm, nhiệm vụ và thời gian
thảo luận trình bày. Thiết kế bài giảng cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi, nhằm
khuyến khích học sinh tích cực, hào hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn.
Đặt biệt đối với môn Tin Học việc chia nhóm để thực hiện khá dễ dàng. Vì
mỗi nhóm có thể viết 1 chương trình con nhỏ hay một đoạn của chương trình lớn
sau đó ghép tất cả các nhóm thành một chương trình lớn. Hoặc chúng ta có thể
để cho mỗi nhóm tiến hành 1 công đoạn trong công việc lập trình trên máy tính
như: ý tưởng, viết chương trình, hiệu chỉnh, chạy các bộ test.
2.6. Gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học bằng sơ đồ tư duy
Từ trước tới nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng,
con số. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não não trái, mà chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý
các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng.

11

11


Theo Tony Buzan - là người sáng tạo ra phương pháp tư duy Mind
Map (bản đồ tư duy): “với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ
não, bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ
tốt hơn, nhìn thấy bức tranh tổng thể, ngoài ra còn có thể tổ chức và phân loại
suy nghĩ của học sinh”.
*Ví dụ: Khi trình bày “Bài 6- Phép toán, biểu thức, câu lệnh gán” (Tiết 6)
tôi không trình bày theo cách chia bảng thành các cột, mỗi cột trình bày nội
dung một vấn đề mà có thể trình bày một bản đồ tư duy lên bảng: Nội dung
chính của bài được đặt tại vị trí trung tâm của sơ đồ, các đơn vị kiến thức được

trình bày theo các nhánh, các nhánh này lại được chia thành nhiều nhánh con,
chúng được thể hiện với các màu phấn khác nhau, từ đó có thể bổ sung, chỉnh
sửa sao cho hoàn thiện, với cách trình bày như thế giúp học sinh sáng tạo hơn,
ghi nhớ tốt hơn, khi kiểm tra bài cũ các em thuộc và nhớ lâu hơn. tăng khả năng
hiểu và đọc hiểu của học sinh, giúp các em thấy thú vị khi học tập
Nếu ta sử dụng phần mềm vẽ bản đồ tư duy để thiết kế và sử dụng nó để
trình chiếu lại càng làm cho học sinh hứng thú hơn. Dưới đây là một thiết kế của
tôi bằng bản đồ tư duy Imindmap 6.0.1
12

12


Khi học thì học sinh không cần vẽ giống giáo viên mà có thể vẽ theo ý
mình, miễn là các em biết dùng các đường nét, màu sắc khác nhau để thể hiện
các nội dung khác nhau. Chính vì vậy các em càng thấy hào hứng hơn mỗi khi
học bộ môn tin học, thậm chí thiết nghĩ nếu em nào vận dụng tốt phương pháp
này cho các môn học mang nặng tính lý thuyết thì sẽ giúp các em rất nhiều trong
quá trình ghi nhớ và phân loại kiến thức.

13

13


3. Hiệu quả của SKKN
Năm học vừa qua với sự áp dụng các biện pháp nói trên đối với những
học sinh lớp 11A2 (thuộc nhóm thực nghiệm), tôi nhận thấy đa số học sinh đều
rất hứng thú học tập, không khí các giờ học vui vẻ, sôi nổi hơn do các em tích
cực xây dựng bài, số lượng học sinh làm việc riêng trong giờ gần như không

còn, qua kiểm tra và thi học kỳ điểm khá giỏi tăng lên rõ rệt, điểm yếu kém
không còn nhiều. Quá trình thực hiện của tôi diễn ra như sau:
Từ thực trạng đã nêu ở trên, sau 3 tuần đầu tôi bắt đầu áp dụng triệt để và
liên tục một số các biện pháp đã nêu đối với lớp 11A2, tôi thấy các em có sự tiến
bộ nhiều hơn thể hiện ở thái độ và ý thức với môn học.
Sau 6 tuần thực hiện thường xuyên biện pháp giảng dạy mới tôi thấy có
kết quả rõ rệt, không khí học tập sôi nổi hơn, học sinh phát biểu xây dựng bài
nhiều hơn, học sinh được kiểm tra bài cũ thuộc bài nhiều hơn.
Hết học kỳ I không còn học sinh nào ngủ gật trong giờ. Điều đặc biệt là tỉ
lệ học sinh yếu, kém giảm đáng kể và tỉ lệ học sinh đạt điểm trung bình, khá
tăng lên khá rõ so với đầu năm học. Lớp thực nghiệm đã có 01 HS đạt điểm giỏi.
Cứ liên tục thực hiện các biện pháp gây hứng thú trong các giờ học cho các em
đến cuối năm học thì kết quả lại càng đáng mừng hơn.
Cuối năm học lớp 11A1 vẫn còn hiện tượng học sinh làm việc riêng trong
giờ, số lượng học sinh xây dựng bài không cao hơn thời điểm trước là bao,
nhưng lớp 11A2 đã không còn học sinh nào ngủ gật hoặc vắng học, số học sinh
thuộc bài cũ tăng lên nhanh, số học sinh đóng góp xây dựng bài khoảng gần một
nửa lớp, đăc biệt căn cứ vào kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng năm học thì sự
phân hóa về tỉ lệ điểm khá, giỏi ở hai lớp càng có sự chênh lệch rõ ràng. Để
minh chứng cho điều đó ta có thể theo dõi các tổng hợp sau đây:

14

14


Bảng 1. Kết quả thu được sau thực nghiệm tính đến hết học kỳ 1
Thời điểm

Trước thực nghiệm


Sau thực nghiệm

Nhóm đối
chứng

Nhóm
thực
nghiệm

Nhóm đối
chứng

Nhóm
thực
nghiệm

2

2

1

0

2

3

2


0

Số HS không chú ý

4-7

5-10

3-4

3- 4

Số HS thuộc bài cũ

3- 5

2- 5

4- 6

8-10

Số HS xây dựng bài trung
bình trong giờ

3

3


4

7

Số HS đạt điểm giỏi

0

0

0

1

Số HS đạt điểm khá

4

3

6

10

Số HS đạt điểm trung bình

25

25


29

27

18

19

12

9

Tiêu chí
Số HS vắng học trung bình
trong giờ
Số HS ngủ gật trung bình
trong giờ

Số HS bị điểm yếu, kém

15

15


Bảng 2. Kết quả thu được kể từ đầu kỳ II đến cuối năm học
Thời điểm

Hết học kỳ 1


Hết năm học

Nhóm đối
chứng

Nhóm
thực
nghiệm

Nhóm đối
chứng

Nhóm
thực
nghiệm

Số HS vắng học trung bình
trong giờ

1

0

1

0

Số HS ngủ gật trung bình
trong giờ


2

0

1

0

3-4

3- 4

2- 3

1

4- 6

8-10

4-10

12-15

4

7

6


15

0

1

1

2

6

10

8

20

29

27

33

22

12

9


6

3

Tiêu chí

Số HS không chú ý
Số HS thuộc bài cũ
Số HS xây dựng bài trung
bình trong giờ
Số HS đạt điểm giỏi
Số HS đạt điểm khá
Số HS đạt điểm trung bình
Số HS bị điểm yếu, kém

Dựa vào kết quả thống kê ở hai bảng trên ta có thể vẽ biểu đồ so sánh kết
quả học tập giữa hai lớp ở các giai đoạn như sau:

16

16


Tóm lại:
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy rằng: So với đầu năm học thì số học sinh
lớp 11A2 bị điểm kém giảm từ 19 HS xuống còn 7 HS; nhưng lớp 11A1 số học
sinh bị điểm kém có giảm nhưng ít hơn (từ 17 HS xuống còn 16 HS);
Số học sinh được điểm trung bình trở lên ở lớp 11A2 tăng cao so với đầu
năm học, số học sinh được điểm giỏi và khá cao gấp đôi so với lớp 11A1.
Như vậy, sự tăng lên rõ rệt về thành tích của các học sinh nhóm thực

nghiệm so với các học sinh nhóm đối chứng đã cho thấy hiệu quả của việc áp
dụng các phương pháp gây hứng thú trong các bài giảng tin học 11 được đề trình
bày trong đề tài này có tính thực tiễn cao, có thể áp dụng rộng rãi cho học sinh
các lớp 11 trường THPT Trung Nghĩa nói riêng và học sinh các lớp 11 của các
trường miền núi nói chung.

17

17


III. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận khoa học và thực tiễn giảng dạy khối lớp 11
trong 2 năm học, kết quả đạt được qua việc áp dụng các biện pháp nói trên, bản
thân tôi đi đến những kết luận sau đây:
1. Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho
học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.
2. Tiến hành thường xuyên việc dự giờ của các đồng nghiệp lẫn nhau để
học hỏi kinh nghiệm và tăng cường sự chuẩn bị chu đáo cho các bài dạy.
3. Giáo viên cần phải khơi dậy sự yêu thích môn học bằng việc đầu tư thời
gian thiết kế các giáo án điện tử, các sơ đồ tư duy. Trong quá trình giảng dạy
giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh
4. Phương tiện dạy học phải đầy đủ, tuy nhiên không lạm dụng công nghệ
thông tin để xa vào tình trạng chiếu - chép
5. Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu cho đến hết
tiết học, tạo cho các em sự hứng thú vui tươi, học để mà vui - vui để mà học,
tránh gò ép đối với học sinh.
6. Trong mỗi giờ học sau mỗi thành quả đạt được của học sinh nếu kèm
theo lời khen ngợi, biểu dương của giáo viên nữa càng khuyến khích các em

mạnh dạn hơn trong việc xây dựng bài.
7. Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ
học Tin học nếu không các sẽ dễ làm các em quay trở lại sự chán và lười học.
2. Đề xuất, kiến nghị
Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả đòi hỏi mỗi giáo viên phải
không ngừng nâng cao kiến thức, học hỏi trên mọi phương tiện thông tin để tạo
cho mình một trình độ chuyên môn vững vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh
nghiệm ở các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường, Giáo viên cần phải nắm
18
18


đặc trưng của bộ môn, có phương pháp dạy học linh hoạt và sáng tạo, phải tìm
mọi cách để cải tiến cách dạy từng phần nhỏ theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn,
đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học. Khơi dậy sự yêu thích môn học,
bởi theo tôi “phần lớn các yếu tố làm cho học sinh hứng thú học tập đều phụ
thuộc vào vai trò của giáo viên”.
Trong điều kiện nghiên cứu đề tài còn hạn chế, phạm vi hẹp, thời gian
công tác chưa lâu. Những cách thức, những cung bậc gây hứng thú cho học sinh
trong học tập môn tin học là hết sức phong phú. Mỗi người có một phương pháp,
biện pháp của riêng mình.
Những kết luận của đề tài dù sao cũng là những ý kiến của riêng cá nhân
tôi, vì vậy sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạnh chế. Rất mong nhận
được sự đóng góp của các quý thầy cô, mong rằng có những ý tưởng hay hơn,
bổ ích hơn, để bổ sung chỉnh sửa nhằm để đề tài này thêm hoàn thiện, để tôi có
thêm hành trang phục vụ chuyên môn của mình ngày càng tốt hơn trong những
năm học tới.
*Kiến nghị :
- Việc tạo hứng thú, say mê cho học sinh phải tiến hành thường xuyên liên

tục và phong phú về hình thức.
- Vì đây là một môn học mang tính đặc thù riêng nên cần phải có phòng
học chức năng riêng biệt, môi trường trong lành, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi và
đồ dùng dạy học.
- Cần trang bị thêm một số tranh ảnh, tài liệu phục vụ cho môn học để
việc dạy và học ngày càng hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

19

19



×