Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Chuyên đề tỷ giá hối đoái của việt nam trong thời kỳ khủng hoảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.71 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài:
Trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường mở, thưong mại quốc tế trở thành phổ
biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của nước này hay
nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ nước này sang nước khác, các quốc gia
phải dựa vào tỷ giá hối đoái (hối suất). Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ giữa giá trị đồng
tiền nước này với giá trị đồng tiền nước khác. Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ
mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà
nước. Bởi vì tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập
khẩu tư bản (vốn), giá cả hàng hóa trong nước, do đó nó có cũng tác động không nhỏ đến
nền kinh tế quốc dân của một nước.
Qua nhiều thập kỷ, chính sách quản lý ngoại hối được xem là một trong những thử
thách khó khăn nhất cho những nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trước đây trong
điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tác dụng điều tiết của tỷ giá hối đoái bị
hạn chế rất nhiều và hầu như không phát huy tác dụng, trong một thời gian dài ở nước ta
tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản ánh đúng quan hệ cung cầu
trên thị trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng giá trị của đồng tiền nội tệ. Tuy nhiên,
trong xu thế cải cách từ một nền kinh tế kế hoạch đóng cửa sang một nền kinh tế thị
trường mở, thể chế kinh tế mới ngày càng được xác lập và phát triển. Đe thích ứng với
nền kinh tế thị trường, đòi hỏi trong kinh tế đối ngoại cần triệt để phát huy tác dụng điều
tiết của tỷ giá hối đoái đối với xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập khẩu tư bản.
Chỉ sau một năm khi ra nhập WTO, nước ta đã phải đối mặt với khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008-2009 là sự phát triển và lan tỏa của cuộc khủng hoảng tài chính
Hoa Kỳ năm 2007. Vậy trong khủng hoảng, Việt Nam đã có những cách ứng phó gì? Ket
quả thực hiện như thế nào? Bằng những chính sách tỷ giá như vậy chúng ta đã có thể vượt
qua khủng hoảng hay chưa? Những vẫn đề ấy được giải quyết trong đề tài “Tỷ giá hối
đoái của Việt Nam trong thòi kỳ khủng hoảng”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

1



Trên cơ sở lý luận về tỷ giá, đề tài tập trung nghiên cứu diễn biến tỷ giá ở nước ta trong
thời kỳ khủng hoảng. Bên cạnh đó, nêu ra và phân tích những động thái của ngân hàng
trung ương về việc điều chỉnh tỷ giá trong thời kỳ đó để rút ra kết luận xác thực về những
giải pháp mà ngân hàng trung ương đã tiến hành.
3. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu của đè tài
Đề tài lấy tỷ giá hối đoái giữa VND với các ngoại tệ khác làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là những nội dung cơ chế chính sách của Nhà nước đối với TGHĐ.
Bên cạnh đó, phân tích mục tiêu mà ngân hàng trung ương đã đạt được trong việc điều
chỉnh tỷ giá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê phân tích, phân tích tổng họp, quy nạp, diễn dịch,
phương pháp nghiên cứu trường họp. Đồng thời kết họp giữa lý luận với thực tiễn, phân
tích, tập họp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam, cũng như dựa trên quy luật tất yếu khách
quan của một vấn đề kinh tế xã hội để hình thành nên chuyên đề.
5. Kết cấu đè tài
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VÈ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
3. Phân loại tỷ giá:
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ GIÁ:
1. Quan hệ cung - cầu về ngoại hối trên thị trường
2. Mức chênh lệch lãi suất
3. Mức chênh lệch lạm phát
4. Sự can thiệp điều chỉnh của nhà nước
5. Các yếu tố khác
CHƯƠNG II: THựC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG
I. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN



1. Giai đoạn trước 1989: cổ định và đa tỷ giả
2. Thời kỳ 1989-1991 : "Thả nổi” tỷ giả hổi đoái
3. Thời kỳ 1992-2/1999
4. Giai đoạn 1999 đến 2008: Thả nổi có điều tiết
II. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG (2008-đầu 2010)
1. Năm 2008
2. Năm 2009
3. Đầu năm 2010
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ HÓI ĐOÁI Ở VIỆT NAM
1. Các giải pháp điều hành chính sách tỉ giá trong khủng hoảng.
2. Giải pháp điều hành chính sách tỉ giá hối đoái sau khủng hoảng:
3. Phương hướng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VÈ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
. Khái niệm tỷ giá hôi đoái
• Định nghĩa tỷ giá hổi đoái: Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đon vị tiền tệ
nước này sang thành những đon vị tiền tệ nước khác.
• Các hình thức biểu hiện:
- Biểu hiện trực tiếp: là phương pháp biểu thị một đon vị ngoại tệ bằng bao nhiêu đon
vị tiền tệ của nước mình.
+ Đặc điểm: Ngoại tệ là đồng yết giá, còn tiền trong nước là đồng định giá.
-> Đây là phương pháp phổ biến trên thế giới hiện nay.
- Biểu hiện gián tiếp: Là phương pháp biểu thị một đon vị tiền tệ trong nước bằng bao
nhiêu đon vị tiền tệ.
+ Đặc điểm: Tiền trong nước là đồng tiền yết giá, ngoại tệ là đồng định giá.
-> Hình thức này phổ biến ở nước Anh và một số nước thuộc liên hiệp Anh.
• Vai trò của tỷ giá hổi đoái:



Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tác động đến giá cả tương
đối của hàng hóa trong nước và hàng hóa nước ngoài. Qua đó tác động đến tình hình xuất
nhập khẩu hàng hóa và sự cạnh tranh hàng hóa giữa các nước với nhau trên thị trường quốc
tế.
+ Khi đồng tiền của một nước tăng giá, hàng hóa của nước đó tại nước ngoài đắt hon và
hàng hóa nước ngoài tại nước đó rẻ hon. Điều này dẫn đến những nhà sản xuất trong nước
đó gặp khó khăn hon trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài.
+ Khi đồng tiền rẻ của mỗi nước sụt giá thì hàng hóa của nước đó tại nước ngoài rẻ hon
trong khi hàng hóa nước ngoài tại nước đó đắt hon.
-> Những nhà sản xuất trong nước có ưu thế cạnh tranh trong việc bán hàng ở thị trường
nước ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu.
2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
a. Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối

Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các nước khác mua
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu
đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trường ngoại hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó dốc xuống phía bên phải,
điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hóa càng trở nên đắt hơn đối với
những người nước ngoài và ít hàng hóa xuất khẩu hơn.
b, Cung về tiền trên thị trường ngoại hối

Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ phải mua một
lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để trả. Lượng tiền này của nước
A khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên trên ở phia phải. Tỷ
giá hối đoái càng cao thì hàng hóa nước ngoài càng rẻ và hàng hóa ngoại được nhập khẩu
ngày càng nhiều.

Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng thị trường của cung
và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền hoặc làm giảm cung của nó đều có xu
hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên.


3. Phân loại tỷ giá:
Trong thực tế tùy từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào đó của tỷ giá
hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ
giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác nhau:
a. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai loại:

- Tỷ giá điện hối là tỷ giá ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển ngoại hối
bằng điện (telegraphic transfer - T/T)
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm chuyển
ngoại hối bằng thư (mail transfer - M/T)
b. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại:

- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà nước công bố được hình thành trên cơ sở ngang
giá hàng.
- Tỷ giá tự do: là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu quy
định.
- Tỷ giá thả nổi: là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không can
thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
-

Tỷ giá cố định: là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.

c. Căn cứ trong phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các loại:


-

Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại trái phiếu có kỳ hạn bằng

ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản ngoại
hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng tiền
mặt.
d. Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hổi:

- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.


- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá váo cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhân ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ
được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối
sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong họp đồng (có thể là 1, 2, 3 tháng sau).
e. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá chia ra làm hai loại:

-

Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.

-


Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ GIÁ

1. Quan hệ cung - cầu về ngoại hối trên thị trường
Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động
của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau
trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn
đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân
thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân
thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và
dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng
lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh
doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu
cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy
tỷ giá lên cao.
2. Mức chênh lệch lãi suất
Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối
đoái trên thị trường, điều chỉnh tỷ giá đối ngoại của nội tệ. Nước nào có lãi suất ngắn hạn
cao hơn nước khác thì vốn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ
làm cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, tỷ gái hối đoái sẽ giảm xuống. Chính
sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ. Tuy nhiên, đồng nội tệ lên giá tạo


cho gái cả hàng hóa nhập khẩu trở nên rẻ hơn và do đó tạo ra áp lực giảm giá hàng nội địa,
làm kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
3. Mức chênh lệch lạm phát
Lạm phát là nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến tỉ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội
tệ. Lạm phát cao làm gia tăng lãi suất tương đối của tiền gửi bằng ngoại tệ so với đồng nội
tệ, kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ, tức là tỷ giá hối đoái tăng. Nói cách khác, lạm phát
có tác động ngược chiều với giá trị của đồng nội tệ. Lạm phát cao hơn tương đối so với

nước ngoài dẫn đến tỷ giá tăng lên, sức mua của nội tệ giảm giá so với ngoại tệ. Theo điều
kiện ngang giá sức mua, đồng nội tệ sẽ giảm giá và ngược lại, giá trị nội tệ sẽ gia tăng nếu
lạm phát của quốc gia thấp hơn tỷ lệ lạm phát của nước có đồng tiền đối ứng. Tóm lại, trong
một cặp hai đồng tiền, đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lam phát cao hon sẽ bị giảm giá so
với đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp hon, và ngược lại.
Lạm phát tác động trực tiếp đến giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu, làm ảnh hưởng đến
tính cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới, qua đó làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Nếu tốc độ lạm phát của một quốc gia cao hon nước khác, hàng xuất khẩu tính bằng ngoại
tệ của quốc gia này sẽ trở nên đắt hon, khả năng cạnh tranh trong thương mại quốc tế giảm
xuống. Điều này đồng nghĩa với cung ngoại tệ giảm. Còn đối với nhập khẩu, giá trị nhập
khẩu tăng nhẹ (do yếu tố lạm phát ở nước ngoài) nhưng mức tăng giá của hàng nhập khẩu
thấp hon so với mức tăng giá của hàng hóa trong nước (do tỷ lệ lạm phát trong nước cao
hon nước ngoài) nên cầu hàng nhập không giảm. Mặt khác, trong ngắn hạn, người tiêu dùng
trong nước chưa kịp thay đổi thói quen tiêu dùng, các doanh nghiệp nội địa chua kịp sản
xuất hàng thay thế hàng nhập, do đó nền kinh tế buộc phải trả một lượng ngoại tệ nhiều hon
để nhập hàng. Hậu quả là cầu ngoại tệ gia tăng, cung ngoại tệ giảm, tạo áp lực đẩy giá ngoại
tệ lên, kéo nội tệ giảm giá.
Do đó muốn quản lý được thị trường ngoại hối và điều tiết tỷ giá theo mục tiêu nhất
định, cần kiểm soát lạm phát ở tỷ lệ họp lý.
4. Sự can thiệp điều chỉnh của nhà nước
Vì tỷ giá có liên quan chặt chẽ tới ngoại thương cũng như các biến động kinh tế vĩ mô,
cho nên tất cả các ngân hàng trung ương đều phải can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết.


Các biện pháp hành chính: nhà nước ban hành các chính sách, chế độ, quy định, qui chế,
điều lệ... Áp dụng đối với hoạt động mua bán ngoại hối và các đối tượng tham gia mua bán
ngoại hối. Phương pháp này có hiệu lực tức thời, nhanh chóng lập lại trật tự trên thị trường
hối đoái, tăng chi phí lưu thông, xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài, có thể gây
ra những phản ứng từ phía các đối tác.
Chỉnh sách chiết khẩu: là những chính sách thay đổi lãi suất chiết khấu của ngân hàng

trung ương, điều chỉnh lãi suất trên thị trường tiền tệ, làm thay đổi tỷ giá. Chính sách chiết
khấu là chính sách điển hình của các nước kinh tế thị trường phát triển, những nước mà
đồng tiền của họ có vị trí quan trọng trong thương mại và tài chính quốc tế, thường được
mua bán trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, chính sách chiết khấu chỉ có ảnh hưởng nhất
định và có hạn đối với tỷ giá, vì lãi suất không phải là nhân tố duy nhất tác động tới những
biến động tỷ giá.
Chỉnh sách hổi đoái: còn gọi là chính sách thị trường mở (open market policy): nhà
nước thông qua ngân hàng trung ương trực tiếp mua bán ngoại hối trên thị trường để điều
chỉnh tỷ giá. Chính sách này trên thực tế cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, vì muốn can
thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả, nha nước phải có một lượng dự trữ ngoại tệ rất
lớn.
Nâng giả hoặc phả giả tiền tệ: Nâng giá thường chỉ xảy ra khi đồng tiền nước đó bị
định giá thấp quá so với giá trị thực hoặc dưới sực ép của các nước khác do xuất siêu lớn,
hay do nước đó muốn tăng nhập khẩu để tạo cân bằng trong cán cân thương mại, hạn chế
lạm phát. Ngoài ra, nâng giá đồng tiền còn được xem là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa các
đồng tiền bị mất giá chạy vào nước mình. Phá giá tiền tệ thường được tiến hành khi đồng
tiền của nước đó bị mất giá trầm trọng. Phá giá là một trong những biện pháp nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện tình trạng cán cân thương mại và cán cân
thanh toán quốc tế.
5. Các yếu tố khác
Trên thực tế, tỷ giá còn chịu sự tác động của các yếu tố khác như những cú sốc kinh tế,
chính trị, xã hội, hoạt động đầu cơ, hoặc các yếu tố tâm lý. Hành vi của các thành viên chủ
yếu trên thị trường hối đoái cũng có thể có tác động tạm thời lên tỷ giá, bất chấp ảnh hưởng


của những nhân tố cơ bản mang tính lâu dài. Chỉ cần sự kiện một nhà kinh doanh trên thị
trường mua hoặc bán một lượng ngoại tệ lớn mà không rõ lý do, cũng có thể làm cho người
khác hành động giống như vậy.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HÓI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG

I. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
1. Giai đoạn trước 1989: Co định và đa tỷ giả
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội. Đây là
thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN
trong hội đồng tương trợ kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng
giữa các nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay
đa phương.
về giá cả, qua nhiều lần điều chỉnh, tổng điều chỉnh năm 1981-1982 và năm 1985, đến
cuối năm 1987, đã điều chỉnh sát giá thị trường nhiều loại vật tư cơ bản và giá mua các loại
nông sản. Cũng từ tháng 3-1989, bãi bỏ chế độ tỷ giá quyết toán nội bộ (khác xa với giá
thực tế), đưa tỷ giá đồng Việt Nam/đô la Mỹ lên sát giá thị trường quốc tế.
Có thể nói, trước năm 1987, toàn bộ chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Namthời kỳ này
tập trung vào việc ấn định trực tiếp tỷ giá hối đoái theo chế độ tỷ giá hốiđoái cố định. Việc
điều chỉnh tỷ giá giai đoạn này chủ yếu là do sự thay đổi bên ngoàinhư: việc mệnh giá đồng
tiền, sự thay đổi hàm lượng vàng của các đồng ngoại tệ cóliên quan...Từ năm 1987 đến
3/1989, có một số sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái như sau:
+ Tại Quyết định số 290-CT ngày 10/10/1987, E(SƯR/VND) = 150 thay cho5,64 từ
năm 1959 (SƯR mậu dịch); E(ƯSD/VND) = 225 thay cho 18 từ năm 1985.Các tỷ giá này
áp dụng để quyết toán nội bộ giữa đồng VND với SƯR và USD. Cònđối với các đồng tiền
của các nước khác XHCN, Ngân hàng Nhà nước căn cứ vào tỷgiá kết toán nội bộ trên và
mối tương quan với USD trên thị trường quốc tế để quyđịnh tỷ giá kết toán nội vụ cụ thể
cho từng đồng tiền.
+ Tại Quyết định số 326-CT ngày 30/11/1987, đã xác định thêm tỷ giá phi mậudịch đối
với đồng SƯR là 204; tỷ giá chính thức E(ƯSD/VND) = 638 thay cho 225như trên.Có thể


nói, trong vòng 1,5 tháng Nhà nước đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá chínhthức với USD lên
gần gấp 3 lần và đưa thêm một loại tỷ giá mới vào thị trường, đó làtỷ giá phi mậu dịch.
+ Tại Quyết định số 43-CT ngày 3/3/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết địnhkhông áp
dụng tỷ giá kết toán nội bộ đồng SUR và USD trong việc hạch toán, thanhtoán và quyết

toán tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nước và xuất nhậpkhẩu mà sử dụng tỷ giá
do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Trong giai đoạn 1985 - 1988, tỷ giá trên thị trường là E(SUR/VND) =
1500,E(USD/VND) = 3000. Rõ ràng, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ số tiền là
1.350đồng và 1 Đôla phải bù lỗ 2.775 đồng (năm 1987) và 2.362 đồng từ đầu
thángl2/1987. Tổng số tiền phải bù lỗ cho kim ngạch năm 1987 lên đến 900 tỷ VND.
Tìnhhình này dẫn đến một thực trạng là những địa phưong, những ngành nghề nào đó
càngxuất khẩu thì ngân sách càng phải bù lỗ nhiều, nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ
dẫnđến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và tiếu vốn kinh doanh. Do tỷ giá chính thức
Equy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ tìm cách không bán cho
ngânhàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế
việcchuyển tiền vào tài khoản để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay
sửdụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường
2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái
Trong giai đoạn này trên thế giới diển ra tình trạng sụp đổ của các nước Đông Âu,
Liên Xô. Quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống bị gián
đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la
Mỹ. Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989.


Tỷ giá ƯSD/VND
Năm

Giá chính thức của
nhà nước

Giá thị
trường tự do

Tăng giảm


Lạm phát

%

1989

4.200

4.570

+8.80

+34.070

1990

6.650

7.550

+13.50

+67.50

-0.02

+68.00

1991


12.720

12.550

Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên
xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có
khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này
chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy
đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi đã:
- Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
- Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những con sốc
USD làm mất ổn định nền kinh tế.
- Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
- Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng
Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ đồng Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được
dùng cho các hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức
trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có
những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã mất hiệu lực ngay khi vừa mới công
bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
3. Thời kỳ 1992-2/1999
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả của sự can thiệp của ngân hàng nhà nước vào
thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các
doanh nghiệp được giải tỏa khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập


khẩu. Đồng thời, ngoại tệ từ bên ngoài vào nhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo
ngược so với cùng kì mọi năm, giá Đôla giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư
nhân Hà Nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng
xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại phải can

thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ
thống ngân hàng phải mua Đôla vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này.
Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở đây
nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD).
Tháng 10/1994, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng ra
đời, thay thế hoạt động của 2 trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên ngân hàng có tính quy
mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế
điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn. Ngân hàng nhà nước đã
thông qua thị trường liên ngân hàng để năm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá
chính thức công bố hàng ngày và biên độ quy định tỷ giá giao dịch cho các ngân hàng
thương mại làm công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hòa tỷ giá thị trường theo mục tiêu của
chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á,
đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình
trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998,
nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao
dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực, tỷ giá tăng lên do
điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Việc tỷ giá
của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác trong khu vực có tác động tích
cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho người dân, không gây ra một sức ép lớn lên nợ
nước ngoài và không gây thiệt hại cho nhập khẩu.
4. Giai đoạn 1999 đến 2008: Thả nổi có điều tiết Đây là giai đoạn nền kinh tế vận động
mạnh hơn theo cơ chế thị trường với sự xuất hiện của đồng EUR nên việc Ngân hàng Nhà
nước công bố tỷ giá hàng ngày đểcác tổ chức tín dụng được phép mua bán trong biên độ


nhất định không còn thích hợpvới quan hệ cung cầu trên thị trường và thông lệ quốc tế. Từ
26/2/1999, tỷ giá hối đoáichính thức công bố hàng ngày được xác định trên cơ sở bình quân
mua bán thực tế trênthị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước

đó, đồng thời biên độ giao dịch cũng rút xuống còn ±0,1 (Quyết định số 64/1999/QĐNHNN7 và65/1999/QĐ- NHNN7). Qua tỷ giá áp dụng cơ chế này, tỷ giá giao dịch bình
quân mà Ngân hàng Nhà nước công bố xoay quan mức 13.888, còn tỷ giá mua bán thực tế
củacác Ngân hàng Thương mại khoảng 13.902. Tỷ giá thị trường tự do chênh lệch
khôngđáng kể so với mức công bố của Ngân hàng Nhà nước.Bước đổi mới này rất quan
trọng không những trong quan niệm, tư duy mà còncó ý nghĩa lớn trong cả thực tiễn quản
lý. Với cơ chế này làm cho tỷ giá hối đoái trênthị trường vận động một cách khách quan
hơn, phản ánh đúng hơn các quan hệ cungcầu về ngoại tệ trên thị trường, đồng thời cũng
phù họp với cơ chế điều hành tỷ giá củanhiều nước trên thế giới.
n. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG (2008-đầu 2010) 1.
Năm 2008
Năm 2008 được coi là "năm bất ổn của tỷ giá" vớỉ những biến động tỷ giá rất phức
tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn.
Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có

Diễn biến tỷ giá ƯSD/VND năm 2008 - Nguồn: BIDV
a. Giai đoạn đầu (từ 01/01-25/03/2008): Tỷ giá Hên tục giảmI, dưới mức sàn
*

Diên biên ty giá;


Tỷ giá ƯSD/VND ừên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112
đồng xuống 15.960 đồng, mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do,
USD dao động từ mức 15.700 - 16.000 đồng/USD
*

Nguvẽn nhân:

+Thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về
nước khá ỉớn.

+Các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất
lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập
trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt
Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh
doanh.. .Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.
+ Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế
lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng
12/2007) lên 8,75%/nãm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm
hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá ƯSD/VND từ 0,75%/nãm lên
1%/năm trong ngày 10/03/2008.
b. Giai đoạn 2 (từ 26/03 - 16/07/2008): Tăng với tốc độ chỏng mặt tạo cơn sốt USD
trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
*

Diên biên ty giá:

Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh
điểm lên đến 19.400 đồng/ƯSD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn
trên TTTD cao hơn khoảng 100-150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ từ 1% lên
+/-2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi
*

Nguyên nhân:

+ Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của doanh
nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của giưois
đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao;
Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế.



+ Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán trái phiếu CP khi lo ngại về
tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua
USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
+ Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp
xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ
chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp
xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
c. Giai đoạn 3 (từ 17/07 -15/10/2008): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
*

Diên biên ty giá

Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn
quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 - tháng 11.
*

Nguyên nhân

+ Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng. Nhận thấy
tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công
bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD
đang trở nên khan hiếm.
+ NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như
kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không
đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm
nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua
các NHTM lớn.
d. Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): Tỷ giá USD tăng trở lại.
*


Diên biên ty giá

Tỷ giá ƯSDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó
giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn
lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức
17.440 đồng/USD.


*

Nguyên nhân

+ Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc
bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu
cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản
của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng
mạnh (khoảng 40 triệu ƯSD/ngày).
+ Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì
hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền
thanh toán chính).
+ NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt
hàng thiết yếu.
2. Năm 2009
Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi
NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +1-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có
đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD. Trong bối cảnh
nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến
cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do sư nắm giữ ngoai tê.

Diễn biến tỷ giá VNĐ/USD năm 2008-2009

€U Giai đoạn 1 (từ 01/01 -24/11/2009): Tỷ giá liên tục tăng
*

Diên biên ty giá

Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.Cụ thể:


-Từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá LNH dao động ừong khoảng 17.450 - 17.700
đồng/USD, cách giá trần khoảng từ 0 - 200đồng,còn TTTD cao hơn tỷ giá LNH khoảng 100
đồng
-Từ tháng 4 đến tháng 9 :tỷ giá trên 2 thị trường dao động trong khoảng 18.180 - 18.500
đồng/USD.
-Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 - 19.300đồng/USD,
có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên TTTD và 19.750 đồng/USD trên thị trường liên ngân
hàng.
*

Nguvên nhẵn

+ Hiện tượng nắm giữ ngoại tệ chờ giá lên của người dân
+ Có hiện tượng DN vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ vì
sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của DN khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài ra, do
tâm ỉỷ bất ổn của cả DN và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ
ngoại tệ.


+ Do tác động của chính sách hỗ ữợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, do lãi suất vay
tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên
một số DN cổ ngoạỉ tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chi muốn vay tiền đồng.

Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khỉ triển khaỉ gói kích cầu.
+ Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các tháng
cuối năm 2008, yếu tố tin đồn,...
b, Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hét năm 2009)
*

Diên biên tv giá

Tỷ giá bắt đầu giảm về quanh mức 18.500 đồng /USD
*

Nguyên nhân

Nguyên nhân là do NHNN thực hiện các biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt có sự chung
gổp sức của các NHTM đã làm giảm tỷ giá sau 1 giai đoạn đày biến động.
3.
Đầu năm 2010

ao:

curnencies

H USDVN

tX

oo 04: 06: 2JữLO

195Q0


D=

1 Ịĩlĩ 1

19000

^Ị~J— 1 1

18500

1 ~ 1 8 0 0 0nn
1 7500

i luihq

1

17000

Coovrtiht 2.009 Yàhool Inc.

r

SepŨ9 Nov09

J a nl O

Ma r l O

htt ũ://uk fInance vahDQ.com/


(L Giai đoạn thảng 1-giữa tháng 2/2010
*

Diên biên ty giá

Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1.2010 lại giảm
nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/ƯSD cho đến giữa tháng 2/2010.
*

Nguvẽn nhân:


- Nguồn cung USD có thể sẽ tăng khá từ các nguồn: Từ nước ngoài, lượng USD vào
nước ta sẽ tăng khá so với năm trước, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp (thực hiện tháng 1
tăng 33,3%);
- Vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết, ký kết đạt mức kỷ lục; vốn
đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng
khoán;
- Nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn thu
từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%); Kim ngạch xuất khẩu
chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương...Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty
lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỷ
giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã
giảm đáng kể.
- Từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp “vượt trước
ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ giá liên ngân hàng
đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%; Yêu cầu các tập đoàn và
tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng; Bán ngoại tệ cho các ngân
hàng thương mại có trạng thái dưới 5%; Hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi USD...

b. Giai đoạn từ giữa tháng 2/2010 đến nay :
*

Diên biên ty giá:

Tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000 đồng/USD (18.900-19.100 đồng /USD) và
đang có xu hướng giảm do nhưng chính sách tích cực từ phía NHNN.
Ngày 11/02 Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ
mức 17.941 VNĐ/USD lên mức 18.544 VNĐ/USD.
*

Nguyên nhân:

- Ngày 30/12/2009, với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chính
thức ban hành thông tư hướng dẫn việc các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán lại
ngoại tệ cho các ngân hàng. Việc bán lại được thực hiện khá nhanh sau đó và tạo một nguồn
cung đáng kể, hỗ trợ các ngân hàng cải thiện trạng thái ngoại tệ vốn căng thẳng trước đó.


- Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ
lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với
kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các
ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường.
- Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, quy định
mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/nãm.
Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức
kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/nãm. Quy
định này được bình luận là đặt các tổ chức đó vào thế “tự xử”, phải tính toán lợi ích và xem
xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khóp với chính sách

này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ
tiềm năng này.
- Chênh lệch lãi suất vay vốn bằng VND và USD lớn khiến các doanh nghiệp cân nhắc
và dịch chuyển sang vay USD. Lãi suất vay VND tăng cao đầu năm 2010, lên từ 15% 17%, thậm chí 18%/nãm..., trong khi lãi suất vay USD chỉ khoảng 6% - 9%/nãm. Chênh
lệch này khiến một bộ phận doanh nghiệp chọn “đường vòng” vay USD rồi bán lại lấy vốn
VND, tăng cung ngoại tệ cho thị trường. Ngoài chênh lệch lãi suất lớn, lựa chọn này được
hỗ trợ bởi kỳ vọng tỷ giá USD/VND sẽ ổn định, hoặc rủi ro biến động không quá lớn trong
kỳ vay vốn. Thực tế, tỷ giá USD/VND gần như cố định kể từ tháng 2 đến nay.
- Ngày 15/12/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 25/2009/TT-NHNN mở
rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt là các đối tượng xuất khẩu.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐIÈU HÀNH CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM
1. Các giải pháp điều hành chính sách tỉ giá trong khủng hoảng.
Diễn biến, tác động dây chuyền và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kì
hầu như đã vượt qua tất cả mọi dự báo ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm
kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, Việt
Nam đã có những điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ cũng


như các ngoại tệ khác.Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá giữa tỷ giá chính thức và tỷ
giá thị trường đã được thực hiện. Đặc biệt là lần đầu tiên điều chỉnh tỷ giá theo hướng
giảm nhẹ giá trị của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ vào năm 2010 trong điều kiện thị
trường có chiều hướng ổn định với 1 ƯSD= 19.100 VNĐ để tỉ giá chính thức sát hơn với
tỉ giá thị trường 1ƯSD= 19.420 VND .Việc điều chỉnh này đã triệt tiêu dần khoảng cách
giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá được hình thành tự do trên thị trường để hạn chế những
biến động của tỉ giá hoặc nạn đầu cơ dựa vào tỉ giá
Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả to
lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới, cùng
những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục tiêu từ
kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm.

Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức họp lý, bền vững.
Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010

Thời gian

Mục tiêu của chính sách

Phân loại chế độ tỉ giá
của IMF

Năm 2008
6 tháng đầu năm

Kiểm soát lạm phát

Chế dộ tỉ giá cố định
thông thường,biên độ giao
dịch ±1%

6 tháng cuối năm

Ngăn chặn suy giảm

Chế độ tỉ giá cố định


kinh tế

thông thường, biên độ giao

dịch ± 2% sau đó nâng lên
±3%

Năm 2009 và 2010

Ngăn chặn suy giảm

Chế độ tỷ giá cố định

kinh tế và kiềm chế lạm phát thông thường với biên độ dao
động ±5%, sau đó giảm
xuống ±3 %
Để thực hiện mục tiêu của mình ngoài việc can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng dự
trữ chính thức, Chính phủ còn sử dụng một loạt các công cụ pháp lý khác như:
+ Dự

trữ bẳt buộc

Từ nửa đầu năm 2008, ngân hàng nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với ngoại tệ từ 8% lên 10% tháng 7 năm 2007 và 10% lên 11% tháng 2 năm
2008. Đây đều là những thời điểm mà chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng mạnh, nhập
siêu lớn và dòng vốn FDI cũng như kiều hối đổ về nước nhiều.
Quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ của NHNN
đã làm giảm nguồn cung ngoại tệ của các NHTM ra thị trường. Mặt khác, tăng dự trữ bắt
buộc cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào của các NHTM kéo theo sự gia tăng lãi suất
cho vay ngoại tệ qua đó tác động làm giảm cầu vốn ngoại tệ trên thị trường. Việc quy
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn so với nội tệ cũng
khuyến khách hàng vay vốn bằng VND. Đồng thời, việc duy trì hoặc hạ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ có tác dụng tích cực hơn trong việc chống lạm phát.
Tháng 3 năm 2009, NHNN quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ

xuống còn 7%. Trong bối cảnh thị trường ngoại tệ đang căng thẳng, quyết định giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng giảm lãi suất cho vay USD qua đó
khuyến khích khách hàng vay bằng USD.
Tuy nhiên, việc NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ lớn hơn nội tệ
(7% và 5%) làm cho lãi suất vay VND vẫn hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp. Từ đó


có thể thấy quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc không có tác dụng nhiều trong việc điều
hòa cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
+ Quy

định biên độ xác định tỷ giả kinh doanh

Việc liên tiếp tăng biên độ giao dịch tỷ giá trong bối cảnh VND tăng giá so với USD và
USD rớt giá so với các ngoại tệ khác trên thế giới đã làm cho tỷ giá VND/USD chịu thêm
áp lực tăng giá. Trên thực tế từ tháng 12 năm 2007 đến đầu tháng 4 năm 2008 VND trên thị
trường tự do và thị trường liên ngân hàng đều tăng giá qua đó góp phần giảm bớt giá trị
nhập siêu. Tuy nhiên đi kèm với việc nới rộng biên độ tỷ giá, như đã đề cập ở phần dự trữ
bắt buộc, NHNN cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ trong thời
gian này.
Tháng 2 tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tháng 3 tăng biên độ tỷ giá cho thấy sự thiếu nhất
quán của các công cụ tiền tệ. Cụ thể, tháng 2 năm 2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tiền gửi ngoại tệ thêm 1% làm giảm sức ép lên giá của VND và việc tiếp tục điều
chỉnh biên độ tỷ giá lên +/-1% nhằm gia tăng áp lực cho VND giảm giá. Nhưng trong bối
cảnh USD có xu hướng giảm từ cuối năm 2007 đến thời điểm này thì việc tăng biên độ giao
dịch chỉ có tác dụng làm tăng giá VND nhanh hơn. Ngược lại nếu NHNN tăng biên độ tỷ
giá để tạo cơ hội cho VND tăng giá nhằm giảm bớt áp lực nhập siêu thì giữa công cụ dự trữ
bắt buộc và biên độ tỷ giá đã có mâu thuẫn.
Đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007. NHNN đã
3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/- 1%, +1-2% rồi +/3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước tình hình VND tăng giá

so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá vào
cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091 VND/USD vào cùng kỳ tháng
1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Lúc này, hấu hết NHTM phải mua
bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị trường tự do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường
chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm
2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng


lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các NHTM lại đụng
trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD (giữa tháng 6/2008),
khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen lên tới trên 2000 đồng.
Để khắc phục tình trạng căng thẳng ngoại tệ như đã nói trên, ngày 24 tháng 3 năm 2009
Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD từ +/-3%
lên mức +1-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Sau khi biên độ giao dịch tỷ giá
được điều chỉnh lên mức +1-5%, các NHTM đã điều chỉnh tỷ giá lên mức kịch trần, thu hẹp
được khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và thị trường qua đó thu hút được một
lượng khách hàng bán lại USD cho mình và hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ ra khỏi
ngân hàng, khắc phục một phần nào tình trạng thiếu cung ngoại tệ.Với một loạt các điều
chỉnh về biên độ cũng như lãi suất ngoại tệ phối họp cùng các biện pháp khác, thị trường
ngoại tệ đã bắt đầu có dấu hiệu bình ổn. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm tình trạng
căng thẳng ngoại tệ lại bùng lên. Những diễn biến kinh tế tiêu cực này đã làm cho thị trường
ngoại tệ căng thẳng trở lại bất chấp những nỗ lực từ đầu năm của Chính phủ.
Trước tình hình này, ngày 26 tháng 11 năm 2009, NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá công
bố lên 17961VND/USD,đồng thời cũng thu hẹp biên độ tỷ giá từ +1-5% xuống còn +1-3%.
Lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8%. Lãi suất chiết khấu tăng từ 5 lên 6%. Các biện pháp này
được áp dụng nhằm giảm lượng tín dụng lưu thông trên thị trường, hướng tới ổn định đồng
bạc Việt Nam.Đây là một sự can thiệp mạnh của NHNN vào tỷ giá với kỳ vọng có thể thu
hẹp khoảng cách tỷ giá chính thức và tự do, qua đó bình ổn thị trường. Tuy nhiên các biện
pháp này được đưa ra quá muộn và trong hoàn cảnh các ngân hàng vẫn thiếu nguồn cung
USD buộc một số doanh nghiệp phải mua USD ngoài thị trường tự do nên các điều chỉnh

trên vẫn chưa có tác dụng hạ nhiệt thị trường ngoại tệ trong năm 2009.
Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của hiện
tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do nền
kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên nhân góp
phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của gói kích cầu
thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất vay VND giảm
một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng


cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn
bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các
doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm
giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế
này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức ±5% (24/3/2009) và sau đó giảm
xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá mua bán niêm yết tại các NHTM luôn trong tình trạng
bằng nhau và tăng kịch trần biên độ cho phép. Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm
2009 được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08%
so với cuối tháng 1/2009. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh, ba
tháng cuối năm 2009, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất từ trước
tới nay, thời điểm giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng cách chênh lệch
giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung bình khoảng 1,500
VND/USD.
Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn chạm
trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN đã bất
ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không giảm. Tình
trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối được nguồn ngoại
tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản phí vào giá bán USD
cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày 17.8.2010, lần thứ hai trong
năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng
lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá 19500 VND/USD,

tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.10. Việc tỷ giá được điều chỉnh một cách bất ngờ và
nhát ngừng đã thành viên thị trường thêm hoang mang, và không làm “giảm nhiệt” thị
trường ngoại tệ. Cuối năm 2010, khi các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả
quan như gia tăng tỷ lệ lạm phát, nợ nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại
hối quốc gia suy giảm, cũng như việc tăng giá vàng trên thị trường Thế giới đã tạo áp lực
lên tỷ giá. Hiện tượng các doanh nghiệp tự thỏa thuận giá mua bán ngoại tệ vượt mức trần
cho phép đã trở thành phổ biến. Tỷ giá thị trường tự do có thời điểm đạt trên 21.500
VND/USD, lệch 2.000 VND/USD so với tỷ giá chính thức


×