Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tính tất yếu về đa dạng hóa chức năng và cơ cấu tổ chức nghiên cứu và triển khai trong thiết chế tự chủ của khoa học (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.43 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ BÍCH NGỌC

TÍNH TẤT YẾU VỀ ĐA DẠNG HÓA CHỨC NĂNG VÀ CƠ
CẤU TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI TRONG
THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦA KHOA HỌC

Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: Đào tạo thí điểm

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI – 2017
1


Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn/Đại học Quốc gia Hà Nội.

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Vũ Cao Đàm
2. TS. Trần Xuân Định

Phản biện 1: ………………………………..……………………

Phản biện 2: …………………………………..…………………

Phản biện 3: ……………………………………..………………


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm
luận án tiến sĩ họp tại:…………………………………….
Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 20

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Sau khi thống nhất đất nước, nước ta đã thành lập một hệ thống
tổ chức nghiên cứu và triển khai (NC&TK) chỉ có chức năng nghiên
cứu là chính với một cơ cấu tổ chức cơ học cứng nhắc, chịu sự chỉ
đạo và bao cấp của nhà nước. Trong nền kinh tế chỉ huy thì các tổ
chức NC&TK này phát huy được thế mạnh của mình. Nhưng khi
Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống tổ chức
NC&TK này bắt đầu bộc lộ những khiếm khuyết, do chỉ quen dựa
vào bao cấp của nhà nước nên không tự đứng vững được trong kinh
tế thị trường luôn cạnh tranh và biến động.

Khi đã có một nền kinh tế thị trường thực sự thì các tổ chức
NC&TK phải tiến hóa để thích nghi với kinh tế thị trường. Tiến hóa
ở đây có nghĩa là phải đa dạng hóa chức năng và cơ cấu tổ chức. Đây
chính là tính tất yếu trong thiết chế tự chủ của khoa học.
Đa dạng hóa chức năng và cơ cấu của tổ chức NC&TK không
phải là điều mới mẻ ở nước ta. Mô hình Nha Nghiên cứu kỹ thuật
(NCKT) của Cục Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng được thành lập từ
tháng 1/1947 ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp là mô hình của một Viện công nghệ hiện đại dù đã qua
70 năm. NCKT đã kết hợp được nghiên cứu với sản xuất và đào tạo
và mang tính tự chủ cao, dù mới chỉ ở mức sơ khai và thiếu thốn
nhiều về cơ sở vật chất.
Như vậy, để phát triển nền khoa học nước nhà phù hợp với quy
luật tự nhiên của kinh tế thị trường và xu thế chung của toàn thế giới
thì một vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là phải đa dạng hóa chức
năng và cơ cấu của tổ chức NC&TK để tạo nên thiết chế tự chủ trong
khoa học.
3


2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: chứng minh đa dạng hóa chức năng và cơ
cấu của các tổ chức NC&TK mang tính tất yếu trong thiết chế tự chủ
của khoa học.
Mục tiêu cụ thể:
1) Làm rõ cơ sở lý luận về chức năng, đa dạng hóa chức năng và
cơ cấu, đa dạng hóa cơ cấu của các tổ chức NC&TK và thiết chế tự
chủ trong khoa học;
2) Phân tích, đánh giá sự tiến hóa của các tổ chức NC&TK ở
Việt Nam trong quá trình chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền

kinh tế thị trường để thấy rõ sự chuyển biến về chức năng và cơ cấu
của các tổ chức NC&TK theo hướng đa dạng hóa gắn liền với quá
trình tự chủ;
3) Xác định những điều kiện để đảm bảo hiện thực hóa đa dạng
chức năng và cơ cấu của các tổ chức NC&TK.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống các tổ chức NC&TK về khoa học tự nhiên và công
nghệ theo 3 nhóm chính: Nghiên cứu cơ bản và điều tra cơ bản;
Nghiên cứu triển khai công nghệ; Đơn vị tự chủ.
- Các chính sách về khoa học và công nghệ và vai trò của chính
sách trong việc đa dạng hóa chức năng và cơ cấu của các tổ chức
NC&TK về khoa học tự nhiên và công nghệ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Đa dạng hóa chức năng và cơ cấu của tổ
chức NC&TK về khoa học tự nhiên và công nghệ và thiết chế tự chủ
trong khoa học.
4


- Phạm vi không gian: Hệ thống các tổ chức NC&TK về khoa
học tự nhiên và công nghệ của Việt Nam, các chính sách về khoa học
và công nghệ của Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Hoạt động của các tổ chức NC&TK về khoa
học tự nhiên và công nghệ từ năm 1945 đến nay và các chính sách về
khoa học và công nghệ từ năm 1981 đến nay.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Vì sao xem đa dạng về chức năng và cơ cấu tổ chức NC&TK
mang tính tất yếu trong thiết chế tự chủ của khoa học?

- Làm thế nào để hiện thực hóa đa dạng chức năng và cơ cấu của
các tổ chức NC&TK?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Tự chủ trong khoa học là tự quyết định phương hướng phát
triển khoa học, tự quyết định về tổ chức, tài chính..., để có được thiết
chế tự chủ trong khoa học các tổ chức NC&TK cần đa dạng về chức
năng và cơ cấu tổ chức.
- Thiết chế tự chủ trong khoa học hiện hữu ở các nước phát triển
với hệ thống các tổ chức NC&TK có chức năng và cấu trúc đa dạng.
- Thiết chế tự chủ trong khoa học đang hình thành ở các nước có
nền kinh tế chuyển đổi và ở Việt Nam, đang thúc đẩy các tổ chức
NC&TK phát triển theo xu hướng đa dạng hóa chức năng và cấu trúc
tổ chức.
- Tái cấu trúc hệ thống tổ chức NC&TK nhằm hiện thực hóa đa
dạng chức năng và cơ cấu của các tổ chức này.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các
thông tin, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
5


5.2. Nghiên cứu phi thực nghiệm:
- Phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia: phỏng vấn sâu các
nhà quản lý, nhà khoa học, giám đốc các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ về vấn đề liên quan tới nghiên cứu.
- Hội thảo/tọa đàm khoa học: lấy ý kiến các nhà quản lý, nhà
khoa học có kinh nghiệm về vấn đề có liên qua tới nghiên cứu.
6. Nguồn dữ liệu và công cụ hỗ trợ nghiên cứu
6.1. Nguồn dữ liệu nghiên cứu:
- Dữ liệu sơ cấp thông qua các nghiên cứu phi thực nghiệm

- Dữ liệu thứ cấp thu thập thông qua: tạp chí khoa học, luận văn,
luận án, văn bản pháp luật và các nguồn tài liệu khác.
6.2. Công cụ hỗ trợ nghiên cứu: Các phần mềm máy tính văn phòng
7. Ý nghĩa của nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đã chứng minh được đa dạng hóa chức năng và cơ
cấu của các tổ chức NC&TK mang tính tất yếu của nền khoa học tự
chủ.
Nghiên cứu đã cho thấy việc đa dạng hóa chức năng và cơ cấu
thực chất là quá trình tái cấu trúc các tổ chức NC&TK.
Tái cấu trúc theo hướng đa dạng hóa chức năng và cơ cấu thúc
đẩy tiến trình tự chủ và tạo ra năng lực tự chủ cho các tổ chức
NC&TK. Ngược lại, tự chủ lại là động lực cho việc hoàn thiện tái
cấu trúc. Vì vậy, nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng tái cấu trúc và tự
chủ là cặp song hành, không thể thiếu nhau, cả hai sẽ hỗ trợ và giúp
nhau hoàn thiện.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đã đưa ra được các bước để tiến hành tự chủ là: Đa
dạng hóa hoạt động; Đa dạng hóa chức năng; Đa dạng hóa cấu trúc;
6


Đa dạng hóa nguồn tài chính; Đa dạng hóa nguồn nhân lực; Đa dạng
hóa sở hữu.
Nghiên cứu đã cho thấy kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
vừa là điều kiện, vừa là động lực cho tái cấu trúc và nền khoa học tự
chủ, biến quyền tự chủ thành năng lực tự chủ của các viện NC&TK.
Trong nền kinh tế thị trường thực sự thì tự chủ trong khoa học là
mặc nhiên. Vì thế, nếu chưa có được tự chủ trong khoa học thì chứng
tỏ chưa có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Đây có thể xem như là

một công cụ kiểm chứng, đánh giá mức độ hoàn thiện của kinh tế thị
trường.
Nghiên cứu đã chứng minh điều kiện để tự chủ trong khoa học
chính là điều kiện tái cấu trúc các tổ chức NC&TK.
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu cho lãnh đạo các tổ chức
NC&TK tham khảo trong quá trình tự chủ và những người xây dựng
chính sách tham khảo phục vụ công tác xây dựng chính sách quản lý
khoa học và công nghệ, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho quá
trình thực hiện tự chủ ở các tổ chức NC&TK.
7.3. Tính mới của Luận án
Về lý luận: Luận án đã đưa ra được quan hệ song hành giữa tự
chủ và tái cấu trúc các tổ chức NC&TK theo hướng đa dạng hóa.
Về thực tiễn: Luận án xác định được các điều kiện để tự chủ và
các bước tiến đến tự chủ của các tổ chức NC&TK.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ THIẾT CHẾ TỰ CHỦ TRONG KHOA HỌC Ở VIỆT
NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Kết quả đã đạt được trong nghiên cứu về thiết chế tự chủ
trong khoa học
1.1.1. Những nghiên cứu trong nước:
- Đã làm rõ một số vấn đề về tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
các tổ chức NC&TK.
- Đưa ra những rào cản trong tiến trình thực hiện Nghị định 115.
- Phân tích các điều kiện để một tổ chức KH&CN công lập có
thể chuyển đổi theo Nghị định 115.

- Làm rõ vai trò của nhà nước trong quá trình chuyển đổi sang
thiết chế tự chủ và nhu cầu khách quan trong quá trình tự chủ, tự
chịu trách nhiệm là được tự chủ tái cấu trúc.
- Một số nghiên cứu đi sâu phân tích những bất cập về mặt triết
lý của quá trình chuyển đổi, từ triết lý nhà nước làm khoa học sang
một triết lý khác trong đó nhà nước quản lý vĩ mô về khoa học.
- Đa số các nghiên cứu chú trọng đến tự chủ về tài chính và xoay
quanh việc làm thế nào để tự chủ về tài chính.
1.1.2. Những nghiên cứu trên thế giới
- Các nghiên cứu nhấn mạnh về lợi ích và tầm quan trọng của tự
chủ đối với các tổ chức NC&TK.
- Chứng minh tính tất yếu của thiết chế tự chủ trong khoa học.
- Nêu rõ các nội dung của tự chủ, các mức độ tự chủ.
- Các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình chuyển đổi đã đưa
ra bài học về hoàn thiện thiết chế tự chủ, những bước tiến trong tự
chủ, cách thức để chuyển sang nền khoa học tự chủ.
8


1.2. Những vấn đề chưa được giải quyết
1.2.1. Các công bố, đề tài, luận văn trong nước:
- Chưa làm rõ quyền tự chủ, năng lực tự chủ và mối quan hệ
giữa quyền tự chủ và năng lực tự chủ.
- Chỉ tập trung nghiên cứu giải quyết vấn đề tài chính mà chưa
chú trọng đến hoạt động và điều kiện để tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Chưa có công trình nào nghiên cứu về tái cấu trúc các tổ chức
khoa học và công nghệ theo hướng đa dạng hóa để thực hiện quyền
tự chủ.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
- Ở các nước phát triển đã có thiết chế tự chủ trong khoa học nên

chỉ phân tích tầm quan trọng và nội dung của tự chủ trong các tổ
chức NC&TK, không đưa ra cách thức và hướng đi để có thiết chế tự
chủ trong khoa học.
- Ở các nước xã hội chủ nghĩa:
+ Trung Quốc cũng giống một số nghiên cứu của Việt Nam
chuyển viện cứu thành doanh nghiệp mà không tìm hướng đi cho các
viện nghiên cứu có thể chuyển dần sang tự chủ.
+ Ở các nước Đông Âu không bàn đến cách thức để chuyển đổi
sang thiết chế tự chủ mà vì phần lớn họ xóa bỏ hệ thống cũ và xây
dựng lại hệ thống mới.
1.3. Vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
- Với sự ổn định chính trị, không thể phá vỡ các tổ chức
NC&TK như một số nước Đông Âu mà phải chuyển dần sang tự chủ.
- Quyền tự chủ ở Việt Nam là do nhà nước trao phải tìm cách
biến những quyền tự chủ đó thành năng lực tự chủ cho các tổ chức
NC&TK.
9


- Để thực hiện điều này phải tái cấu trúc các viện nghiên cứu
triển khai theo hướng đa dạng hóa chức năng và cấu trúc như tính tất
yếu của thiết chế tự chủ trong khoa học.
* Tiểu kết chương 1, tác giả đã trình bày tổng quan tình hình
nghiên cứu về thiết chế tự trong khoa học ở Việt Nam tại các công bố
trên tạp chí, các đề tài dự án, các luận văn từ năm 2005 đến nay và đã
tìm hiểu các nghiên cứu thiết chế tự chủ trong khoa học của các nước
phát triển và quá trình phát triển thiết chế tự chủ trong khoa học ở
các nước xã hội chủ nghĩa.
Qua tìm hiểu về các nghiên cứu trong nước, nghiên cứu của các
nước phát triển và các nước xã hội chủ nghĩa, tác giả thấy chưa có

nghiên cứu nào nghiên cứu việc tái cấu trúc các tổ chức NC&TK
theo hướng đa dạng hóa chức năng và cấu trúc để mở đường cho việc
tự chủ. Muốn có được thiết chế tự chủ trong khoa học, các tổ chức
NC&TK cần phải nâng cao nội lực bằng cách đa dạng hóa hoạt động
từ đó tạo ra sức ép phải đa dạng hóa chức năng và cấu trúc.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG VÀ CƠ CẤU
CỦA CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI
VÀ THIẾT CHẾ TỰ CHỦ TRONG KHOA HỌC
2.1. Cơ sở lý luận về đa dạng hóa chức năng, đa dạng hóa cấu
trúc của các tổ chức nghiên cứu và triển khai
2.1.1. Tổ chức khoa học và công nghệ và hoạt động khoa học và
công nghệ
Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ: Theo điều 3, Luật
Khoa học và Công nghệ: “Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức
có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai
10


và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ,
được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật”
Hoạt động khoa học công nghệ gồm có 4 hoạt động chính: Hoạt
động NC&TK, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học và công
nghệ, và phát triển công nghệ.
Hoạt động NC&TK gồm có: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng và triển khai.
Khái niệm về tổ chức NC&TK: Theo nghiên cứu trên, tổ chức
NC&TK là những tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học. Khi đa
dạng hóa, tổ chức NC&TK cần thực hiện cả chức năng dịch vụ
KH&CN và chuyển giao công nghệ.

2.1.2. Chức năng và đa dạng hóa chức năng
Các chức năng chủ yếu của tổ chức NC&TK:
- Chức năng nghiên cứu gồm có nghiên cứu cơ bản (nghiên cứu
cơ bản thuần túy, nghiên cứu cơ bản định hướng), nghiên cứu ứng
dụng và triển khai công nghệ.
- Chức năng đào tạo: đào tạo theo bậc học (đại học, thạc sĩ, tiến
sĩ) và Bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực nghiên cứu.
- Chức năng sản xuất gồm có tự sản xuất, liên kết sản xuất và
chuyển giao công nghệ (chuyển giao công nghệ theo đặt hàng,
chuyển giao công nghệ sau khi sản xuất ra sản phẩm mẫu)
- Chức năng dịch vụ khoa học gồm có dịch vụ nguồn nhân lực,
dịch vụ đào tạo, dịch vụ phân tích, dịch vụ thông tin…
Đa dạng hóa chức năng:
- Kết hợp nghiên cứu - đào tạo.
- Kết hợp nghiên cứu - sản xuất.
- Kết hợp nghiên cứu - đào tạo - sản xuất - dịch vụ.
11


2.1.3. Cấu trúc và đa dạng hóa cấu trúc
Cấu trúc cơ bản của tổ chức NC&TK.
Gồm có: Cấu trúc chức năng; Cấu trúc dự án; Cấu trúc ma trận;
Cấu trúc ad hoc (Cấu trúc của tổ chức ảo).
Đa dạng hóa cấu trúc
- Tích hợp các cấu trúc cơ bản (cấu trúc chức năng, cấu trúc dự
án, cấu trúc ma trận, cấu trúc ad hoc) theo cặp đôi, ba…
- Tích hợp cấu trúc của tổ chức NC&TK với tổ chức đào tạo.
- Tích hợp cấu trúc của tổ chức NC&TK với tổ chức sản xuất.
- Tích hợp cấu trúc của tổ chức NC&TK với tổ chức dịch vụ.
2.2. Cơ sở lý luận về thiết chế tự chủ trong khoa học

2.2.1. Một số khái niệm về kinh tế thị trường và tự chủ
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và
người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác
định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Tự chủ trong tiếng Hy Lạp là “Autonomos”. Theo từ điển
Oxford, “Autonomos” có nghĩa là có quyền tự do quản lý chính mình
hoặc kiểm soát công việc của chính mình.
2.2.2. Nội dung của thiết chế tự chủ trong khoa học
- Tự xác định nhiệm vụ khoa học.
- Tự xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ khoa học.
- Tự tìm kiếm đối tác thực hiện nhiệm vụ khoa học.
- Tự tìm kiếm nguồn tài chính cho thực hiện nhiệm vụ khoa học.
- Tự xây dựng và khai thác cơ sở hạ tầng .
- Tự thiết kế và vận hành tổ chức.
- Tự quản trị nhân lực.

12


2.2.3. Đa dạng hóa chức năng, đa dạng hóa cấu trúc là tính tất yếu
của thiết chế tự chủ
- Đa dạng hóa đảm bảo tổ chức khoa học và công nghệ tồn tại được
trong môi trường cạnh tranh.
- Đa dạng hóa thúc đẩy phát triển công nghệ đẩy và thị trường kéo.
- Đa dạng hóa thúc đẩy quá trình biến quyền tự chủ thành năng lực tự
chủ.
- Đa dạng hóa là tính tất yếu trong thiết chế tự chủ.
2.3. Đa dạng hóa chức năng và cấu trúc của các viện nghiên cứu
và triển khai gắn liền với tiến tình tự trị
2.3.1. Đa dạng hóa chức năng và cơ cấu tổ chức của các viện nghiên

cứu và triển khai thực chất là quá trình tái cấu trúc hệ thống
Để thích ứng với nền kinh tế thị trường, các viện NC & TK từ
chỉ thực hiện chức năng nghiên cứu chuyển sang đa dạng hóa chức
năng đó là thực hiện các chức năng nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, tư
vấn, dịch vụ. Để thực hiện những chức năng đa dạng mới này, cơ cấu
của các viện cũng phải thay đổi chuyển sang đa dạng để thực hiện
các chức năng mới. Vì vậy, quá trình thực hiện đa dạng hóa chức
năng và cơ cấu thực chất là quá trình tái cấu trúc các viện NC & TK
theo hướng gắn liền nghiên cứu với đào tạo và sản xuất.
2.3.2. Tái cấu trúc gắn liền tiến trình tự chủ
- Tự chủ là thiết chế mặc nhiên trong nền kinh tế thị trường.
- Đa dạng hóa chức năng và cấu trúc là quá trình tái cấu trúc để
thúc đẩy tiến trình tự chủ và tạo ra năng lực tự chủ cho các tổ chức
NC & TK.
- Tự chủ là động lực cho hoàn thiện tái cấu trúc.
- Tái cấu trúc và tự chủ phải luôn song hành.
13


* Tiểu kết chương 2, Chương này đã làm rõ các vấn đề về đa
dạng hóa chức năng và cấu trúc, các nội dung tự chủ của các tổ chức
NC&TK. Đã đưa ra được đa dạng hóa thực chất là quá trình tái cấu
trúc gắn liền với tiến trình tự trị.
Chương 3:
TIẾN HÓA CỦA CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ
TRIỂN KHAI Ở VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT
TRIỂN THIẾT CHẾ TỰ CHỦ
3.1. Mô hình Nha nghiên cứu kỹ thuật
Ngay từ khi thành lập NCKT được nhà nước giao nhiệm vụ rất
chung là sản xuất vũ khí, trong suốt quá trình nghiên cứu, triển khai,

sản xuất NCKT được tự chủ vì vậy mà hoạt động rất hiệu quả, mang
lại rất nhiều thành công. NCKT có một cấu trúc hoàn chỉnh để thực
hiện chức năng đa dạng là nghiên cứu, đào tạo, sản xuất. Thành công
của NCKT là minh chứng cho sự thành công về tự chủ trong khoa
học ở các viện công nghệ.
3.2. Quá trình tiến hóa về chức năng của các viện nghiên cứu và
triển khai ở Việt Nam.
S

F
U

?7

$ A+ 3

T*

( 3

8 7 39

E 8

%

các viện chủ yếu thực hiện chức năng nghiên cứu

theo chỉ đạo của Nhà nước.
S V % DH

$

O7

E

F

?7

E 8

%

P 3 Q

* '

J
DE 8*

: các viện NC & TK đã thay đổi

chức năng của mình theo chiều hướng đa dạng hơn đó là ngoài
nghiên cứu đã thêm chức năng tư vấn, dịch vụ, phối hợp với các
trường đại học để thực hiện chức năng đào tạo, bắt đầu thực hiện
chức năng sản xuất ở quy mô nhỏ.
14



3.3. Quá trình tiến hóa về cấu trúc của các viện nghiên cứu và
triển khai ở Việt Nam.
- Cấu trúc của các Viện NC & TK trong nền kinh tế chỉ huy tập
trung: các viện NC&TK có cấu trúc chức năng đơn gián.
- Biến động về cấu trúc của các viện NC & TK trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường: Cơ cấu của các viện NC & TK
đã tiến hóa theo xu hướng đa dạng hơn. Ngoài các khối nghiên cứu,
triển khai, đào tạo trực thuộc, các viện còn có các doanh nghiệp spinoff.
3.4. Tiến hóa về thiết chế tự chủ của các viện nghiên cứu và triển
khai ở Việt Nam.
- Quá trình tự điều chỉnh của các viện nghiên cứu và triển khai dẫn
đến nhu cầu tự chủ: Với các nước có nền kinh tế thị trường thì thiết
chế tự chủ đương nhiên tồn tại trong các tổ chức NC & TK như một
lẽ tự nhiên. Vì vậy, trong môi trường của nền kinh tế thị trường, các
viện NC & TK của Việt Nam cũng buộc phải tự điều chỉnh theo xu
hướng tự chủ mới có thể thích nghi và tồn tại được. Và thực tế từ
những năm 80 đến nay, các viện NC & TK đang tự điều chỉnh dần
theo hướng tự chủ, dưới sự điều chỉnh dần dần của các văn bản pháp
luật của nhà nước
- Tình hình tự chủ - tự chịu trách nhiệm của các viện NC & TK thời
kỳ trước đổi mới: các viện NC&TK hoạt động theo chỉ đạo của nhà
nước.
- Tình hình tự chủ - tự chịu trách nhiệm của các viện NC & TK thời
kỳ sau đổi mới: Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức khoa
học hoạt động, xác định quan hệ kinh tế giữa khoa học với sản xuất,
xác định quyền được thỏa thuận giá cả, lợi nhuận trong hợp đồng.
Nhà nước đã tạo thuận lợi cho các viện NC & TK chủ động tạo lập
15



nguồn vốn, tiếp cận với thị trường. Nhờ cơ chế của nhà nước, quy
luật của nền kinh tế thị trường mà các viện nghiện cứu và triển khai
đang dần dần được giao quyền tự chủ.
3.5. Tiến hóa về chức năng và cấu trúc ở một số viện nghiên cứu
và triển khai
3.5.1. Viện Dầu khí Việt Nam
- Quá trình tiến hóa về chức năng và cấu trúc tổ chức
Trước đây, Viện dầu khí Việt Nam cũng là một viện nghiên cứu
do nhà nước bao cấp và cũng thực hiện chức năng nghiên cứu theo
chỉ đạo của nhà nước. Đến giai đoạn 1990-1993, một số bộ phận đã
tách ra hoạt động độc lập như doanh nghiệp, lúc này Viện Dầu khí
Việt Nam đã thực hiện thêm chức năng sản xuất, dịch vụ và tư vấn.
Viện cũng thực hiện chức năng đào tạo là đào tạo các khoa nâng cao
nghiệp vụ ngắn hạn và cấp chứng chỉ. Năm 2012, Viện chính thức
được phép đào tạo tiến sỹ. Cấu trúc của Viện cũng từng bước phải đa
dạng để thực hiện chức năng của mình, trong cơ cấu của Viện hiện
nay bên cạnh Hội đồng khoa học công nghệ còn có Hội đồng đào tạo
sau đại học, ngoài các phòng ban chuyên môn, hiện viện có 8 trung
tâm chuyên ngành hoạt động rất có hiệu quả.
- Quá trình tiến hóa của tiến trình tự chủ
Trước năm 1990, Viện là đơn vị bao cấp của nhà nước. Đến giai
đoạn 1990-1993, Viện đã có một số bộ phận tách ra hoạt động theo
cơ chế tự chủ. Đến nay, Viện Dầu khí Việt Nam đã hoạt động theo cơ
chế tự chủ, theo khảo sát, nguồn kinh phí của Viện gồm vốn tự chủ
(chiếm đến 50%-60%); vốn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (chiếm
khoảng 30%) và vốn từ ngân sách nhà nước (khoảng 10%-20%). Một
yếu tố quan trọng mang đến thành công trong tự chủ ở Viện Dầu khí
Việt Nam đó là do Viện đã có được chức năng và cơ cấu đa dạng .
16



3.5.2. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Thành tựu trong một số năm gần đây:
- Về sản xuất

Tỷ đồng

Biểu đồ 3.4: Tình hình thực hiện các hợp đồng KHCN
- Về nghiên cứu:

Biểu đồ 3.7: Các công trình công bố giai đoạn 2011-2016
- Về đào tạo:
Ngày 22/09/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành
lập Học viện Khoa học và Công nghệ, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Viện
HLKHCNVN).

17


Ngày 18/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định chuyển
trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội từ Bộ Giáo dục và
Đào tạo về Viện HLKHCNVN.
Hiện tại, Viện HLKHCNVN đang đào tạo 1.525 người học đại
học và sau đại học gồm: 714 nghiên cứu sinh, 108 nghiên cứu sinh
911, 290 học viên cao học, 413 sinh viên.
Quá trình tiến hóa của chức năng và cấu trúc tổ chức
Giai đoạn 1975-1993, Viện chỉ thực hiện chức năng nghiên cứu.
Cơ cấu của Viện giai đoạn này ngoài các ban chức năng chỉ có các

đơn vị nghiên cứu.
Giai đoạn 1993 đến 2012, Viện đã có các nhóm viện chuyên
ngành về nghiên cứu cơ bản, điều tra cơ bản và công nghệ. Do có
thêm nhóm viện công nghệ đã góp phần thúc đẩy chức năng sản xuất
của Viện. Đầu thập kỷ 90 là giai đoạn bùng nổ các spin-off của Viện.
Ở giai đoạn này, chức năng đào tạo của Viện không được hoàn thiện
do chỉ được phép đào tạo tiến sĩ. Cấu trúc của Viện gồm có 3 khối:
khối viện chuyên ngành, khối chức năng và khối các doanh nghiệp
spin-off.
Giai đoạn 2012 đến nay, trong giai đoạn này chức năng nghiên
cứu của Viện vẫn tiếp tục phát triển nhưng chức năng sản xuất của
Viện đã giảm xuống. Các doanh nghiệp spin-off dần rời khỏi Viện,
đến năm 2016, Viện chỉ còn lại một doanh nghiệp. Ngược lại, chức
năng đào tạo của Viện ở giai đoạn này phát triển rất mạnh mẽ. Viện
thành lập được Học viện Khoa học và Công nghệ để đào tạo thạc sỹ
và tiến sỹ và có Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội là
trường đại học quốc tế để đào tạo từ bậc đại học đến sau đại học chất
lượng cao.
18


Xét về đa dạng hóa chức năng và cơ cấu theo quy mô Viện
HLKHCNVN và các viện trực thuộc: giai đoạn đầu (1975-1993), cả
Viện và các viện trực thuộc đều tách rời nghiên cứu với sản xuất và
đào tạo; giai đoạn 2 (1993-2012), cấu trúc của Viện không có chức
năng đào tạo nhưng một số viện trực thuộc đã có chức năng đào tạo
và thể hiện trong cấu trúc là các khoa, trung tâm đào tạo theo mô
hình phối thuộc; giai đoạn 3 (2012-nay), cấu trúc Viện gần như
không còn chức năng sản xuất nhưng một số viện trực thuộc vẫn có
chức năng sản xuất và trong cấu trúc có các xưởng sản xuất quy mô

nhỏ của đơn vị.
Quá trình tiến hóa của tiến trình tự chủ
Từ năm 1975-1985, các hoạt động nghiên cứu của Viện đều phụ
thuộc nhà nước.
Từ năm 1986-1992, ngoài kinh phí nhà nước, một số viện
chuyên ngành và trung tâm trực thuộc đã ký thêm các hợp đồng dịch
vụ, chuyển giao công nghệ nên các viện trực thuộc đã bắt đầu hình
thành quyền tự chủ trong khuôn khổ kinh phí này.
Giai đoạn 1993-2012, Viện thử nghiệm cơ chế cán bộ hợp đồng
do viện chuyên ngành tự trả lương đã tạo điều kiện cho các viện tự
chủ trong công tác tổ chức cán bộ. Giai đoạn này, Viện đã tạo cơ chế
dân chủ, phân cấp một số quyền cho các đơn vị trực thuộc nên các
đơn vị trực thuộc được tạo điều kiện rất nhiều cho việc tự chủ trong
hoạt động của mình. Hơn nữa, giai đoạn này các doanh nghiệp spinoff của Viện phát triển rất mạnh, đây chính là các đơn vị tự chủ đầu
tiên của Viện.
Giai đoạn 2012-nay, Viện ngày càng giao nhiều quyền tự chủ
cho các viện chuyên ngành như phân cấp trong các công tác tổ chức
cán bộ, hợp tác quốc tế…
19


* Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên - viện trực thuộc Viện
HLKHCNVN
Quá trình tiến hóa về chức năng và cấu trúc tổ chức
Thời kỳ 1976-1985, Viện chỉ là một phòng nên cơ cấu rất đơn
giản để phục vụ chức năng nghiên cứu
Thời kỳ 1985-1990, Viện đã có xưởng pilot. Cấu trúc của Viện
đã đa dạng để thực hiện cả chức năng nghiên cứu và sản xuất.
Thời kỳ 1990-nay, cấu trúc đa dạng của Viện lại thêm hoàn thiện
để phục vụ chức năng nghiên cứu và sản xuất. Bên cạnh các phòng

chuyên môn, Viện còn có các trung tâm ứng dụng và 02 xưởng pilot.
Ở giai đoạn này, chức năng đào tạo cũng đã được thực hiện ở Viện
nhưng chưa hoàn thiện do chỉ đào tạo tiến sĩ.
Quá trình tiến hóa của tiến trình tự chủ
Thời kỳ mở đầu, Viện chỉ là cấp phòng làm công tác nghiên cứu
theo đặt hàng của nhà nước nên chưa tự chủ được.
Thời kỳ sau, Viện đã thực hiện thêm chức năng sản xuất và ngày
càng làm ra nhiều sản phẩm có thể thương mại hóa trên thị trường do
đó mà tiến trình tự chủ của Viện cũng ngày một tăng.
3.6. Đa dạng hóa chức năng và cấu trúc các tổ chức nghiên cứu
và triển khai mang tất yếu trong thiết chế tự chủ của khoa học
3.6.1. Nhu cầu đa dạng hóa chức năng, đa dạng hóa cấu trúc
- Nhu cầu thị trường
- Nhu cầu hội nhập
- Nhu cầu của bản thân các viện
3.6.2. Mối quan hệ giữa đa dạng hóa chức năng và cấu trúc với thiết
chế tự chủ
Đa dạng hóa chức năng và cấu trúc đảm bảo quyền tự chủ, từ đó
tạo thành năng lực tự chủ cho các viện NC&TK
20


* Tiểu kết chương 3, mở đầu chương đã giới thiệu về một viện
nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam có tính tự chủ cao được thành lập
từ năm 1947. Từ đó chứng minh rằng tự chủ trong khoa học không
phải là điều mới mẻ ở nước ta mà thực tế tự chủ trong khoa học đã
tồn tại ở một viện nghiên cứu của ta từ những ngày đầu xây dựng đất
nước.
Sau khi thống nhất đất nước, trong thời kỳ bao cấp, các viện NC
& TK của ta chỉ thực hiện chức năng nghiên cứu. Từ khi chuyển

sang nền kinh tế thị trường, các viện NC & TK dần dần tiến hóa theo
hướng đa dạng hóa chức năng và cơ cấu để có thể tự chủ và thích
nghi với môi trường mới. Luận án đã nghiên cứu sự tiến hóa trong
thực tế của Viện Dầu khí Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam và Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên và đã rút ra
được kết luận là các viện đều phát triển theo hướng đa dạng hóa chức
năng, cấu trúc và tiến tới “tự chủ”. Từ đó chứng minh đa dạng hóa
chức năng và cấu trúc ở các viện NC & TK là tính tất yếu của nền
khoa học tự chủ.
Chương 4
ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO HIỆN THỰC HÓA
ĐA DẠNG CHỨC NĂNG VÀ CƠ CẤU
CỦA TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI
4.1. Điều kiện cần và đủ cho thực hiện đa dạng chức năng và cơ
cấu của tổ chức nghiên cứu và triển khai (đảm bảo thực hiện tự
chủ trong khoa học)
4.1.1. Điều kiện cần - Chính sách đảm bảo quyền tự chủ (Quản lý vĩ
mô)
- Có nền kinh tế thị trường thật sự và hội nhập quốc tế
21


+ Tôn trọng các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường
+ Phát triển các loại thị trường:
1. Thị trường hàng hóa và dịch vụ:
Nhà nước cần thực hiện:
- Xây dựng thị trường thống nhất trong toàn quốc .
- Tự do hóa thương mại, đa dạng hóa các thành phần kinh tế.
- Hình thành các trung tâm thương mại hóa.
- Tôn trọng quan hệ cung - cầu, kích cầu để tăng cung.

- Thông thương với thị trường quốc tế, thúc đẩy thị trường xuất
khẩu phát triển.
- Đổi mới cơ chế quản lý thị trường từ trực tiếp can thiệp, kiểm
soát thị trường sang cơ chế gián tiếp tạo môi trường chính sách
cho kinh doanh, đảm bảo tự do, bình đẳng cho các chủ thể trên
thị trường.
2. Thị trường lao động
3. Thị trường tiền tệ
+ Thiết lập cơ chế thị trường
Thiết lập cơ chế thị trường tự do là một thị trường mà không có
sự can thiệp kinh tế và quy định của nhà nước, ngoại trừ việc thực thi
các hợp đồng tư nhân và quyền sở hữu tài sản. Trong cơ chế thị
trường tự do, các nhà sản xuất cần giảm chi phí sản xuất, nâng cao
chất lượng sản phẩm để cạnh tranh và tăng lợi nhuận. Để thực hiện
được việc này cần đưa khoa học và công nghệ vào sản xuất, từ đó sẽ
thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển và đảm bảo đa dạng hóa
chức năng và cơ cấu của các tổ chức NC & TK.
+ Hội nhập quốc tế: để tồn tại trong cạnh tranh bình đẳng với các
nước phát triển trên thế giới, các tổ chức NC & TK buộc phải đổi
22


mới bằng cách đa dạng hóa chức năng và cơ cấu, mở rộng các hoạt
động của mình.
- Chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp (đặc
biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa)
a. Vai trò đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp (đặc biệt doanh
nghiệp nhỏ và vừa):
Đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp là nhu cầu phát triển bền
vững của đất nước, là nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, là môi

trường cho phát triển khoa học và công nghệ. Đổi mới công nghệ ở
doanh nghiệp sẽ hình thành thị trường kéo.
b. Những chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ ở doanh
nghiệp
- Chính sách về vốn và tín dụng:
Nguồn vốn có thể lấy từ các quỹ, từ thị trường vốn (thị trường
chứng khoán) và thị trường tiền tệ (tín dụng)
Chính sách tín dụng: Có các loại hình tín dụng: Tín dụng thương
mại; Tín dụng ngân hàng; Tín dụng nhà nước; Tín dụng quốc tế;
Tín dụng thuê mua.
- Chính sách về thuế
Sử dụng thuế như công cụ thúc đẩy đổi mới công nghệ ở doanh
nghiệp: Nhà nước có thể giảm thuế suất của các thuế thu nhập
doanh nghiệp; thuế giá trị gia tăng; thuế xuất nhập khẩu; thuế
thu nhập cá nhân; Giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt
hàng là sản phẩm của quá trình đổi mới công nghệ; đánh thuế
cao vào những sản phẩm có chất lượng thấp do sử dụng công
nghệ lạc hậu để thúc đẩy doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ.
- Chính sách KH&CN
23


a. Vai trò chính sách KH&CN đối với đa dạng chức năng và cấu
trúc của các tổ chức NC & TK
b. Chính sách về tài chính
- Chính sách vốn và tín dụng
- Chính sách thuế
- Chính sách về xây dựng nhiệm vụ KH&CN
- Chính sách về tổ chức và nhân sự
- Chính sách về sở hữu trí tuệ

- Chính sách về hội nhập
4.1.2. Điều kiện đủ - Chính sách đảm bảo năng lực tự chủ (quản lý
vi mô)
- Cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho đầu tư ban đầu đảm
bảo cho hoạt động của đơn vị
- Năng lực tự điều chỉnh tổ chức
- Năng lực sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
- Bộ máy quản lý: Người lãnh đạo, bộ máy quản lý, chuyên viên
quản lý
- Tinh thần tự chủ: của lãnh đạo và nhà khoa học
- Văn hóa tổ chức
4.2. Quá trình chuyển đổi của các tổ chức nghiên cứu và triển
khai trong tiến trình thực hiện tự chủ
- Nguyên tắc chuyển đổi:
+ Không phá vỡ hệ thống
+ Thích ứng dần với nền kinh tế thị trường
+ Từng bước tự trị hóa
- Phương thức chuyển đổi
+ Thực hiện chuyển đổi từng bước
+ Tự chuyển đổi là chính
24


+ Nhà nước hỗ trợ quá trình chuyển đổi
- Các bước chuyển đổi:
+ Đa dạng hóa hoạt động
+ Đa dạng hóa chức năng
+ Đa dạng hóa cấu trúc
+ Đa dạng hóa nguồn tài chính
+ Đa dạng hóa nguồn nhân lực

+ Đa dạng hóa sở hữu
* Tiều kết chương 4
Đưa ra điều kiện để đảm bảo hiện thực hóa việc đa dạng hóa
chức năng và cấu trúc ở các viện NC & TK gồm có điều kiện cần là
chính sách đảm bảo quyền tự chủ (quản lý vĩ mô) và điều kiện đủ là
chính sách đảm bảo năng lực tự chủ (quản lý vi mô).
Đưa ra nguyên tắc chuyển đổi, phương thức chuyển đổi và các
bước chuyển đổi của các viện NC & TK để phù hợp với điều kiện
hiện nay ở nước ta.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sự phân ly giữa khoa học với sản xuất và đào tạo ở nước ta
mang tính lịch sử. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, các viện NC &
TK thường chỉ có chức năng nghiên cứu, không có chức năng sản
xuất và đào tạo, vì vậy cấu trúc của các viện cũng đơn giản chỉ có
các phòng nghiên cứu. Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển dần sang kinh tế thị
trường. Thể chế kinh tế đó thúc đẩy các viện NC & TK tự điều chỉnh
và được hệ thống văn bản pháp quy tác động, chức năng của các viện
ngày một đa dạng và cấu trúc tổ chức cũng đa dạng theo. Cùng với
25


×