Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về trách nhiệm của đảng cộng sản việt nam đối với dân tộc và giá trị định hướng hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.66 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN CHÍ THIỆN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI DÂN TỘC
VÀ GIÁ TRỊ ĐỊNH HƯỚNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN CHÍ THIỆN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI DÂN TỘC
VÀ GIÁ TRỊ ĐỊNH HƯỚNG HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Hồ Chí Minh học

Mã sô

: 62 31 02 04


LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Lại Quốc Khánh

HÀ NỘI – 2017


DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Chí Thiện – Hoàng Thị Hồng Hạnh (2014), “Quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơ chế quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ”, Tạp chí Giáo dục Lý luận (214), tr.14-17.
2. Nguyễn Chí Thiện (2014), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về lựa chọn, xây dựng và
phát triển cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Những bài viết, công
trình nghiên cứu chào mừng 30 năm thành lập khoa Lý luận Chính trị - Đại học Kinh tế
Quôc dân, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 91-101.
3. Nguyễn Chí Thiện (2014), “Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về phương thức
lãnh đạo của một đảng cầm quyền”, Tạp chí Lý luận và Truyền thông (7), tr. 3-5
4. Nguyễn Chí Thiện (2015), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng cộng
sản Việt Nam cầm quyền đối với sự phát triển của xã hội”, Nghiên cứu và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, tr. 271-287.
5. Nguyễn Chí Thiện (2016), “Nội dung và hình thức biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh”, Một sô vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta hiện nay – nghiên cứu và
trao đổi, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr.227-251.
6. Trần Nam Chuân - Nguyễn Chí Thiện (2016), “Quán triệt và thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng về phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,
đảo Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí Lý luận Chính trị điện tử, (6)
7. Nguyễn Chí Thiện – Hoàng Thị Hồng Đào, (2016), “Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa Đảng với dân”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr.25-28
8. Nguyễn Chí Thiện (2016), Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng từ Đại hội VI
đến Đại hội XII, Kỷ yếu Hội Thảo khoa học Quốc gia, “Quán triệt văn kiện Đại hội XII
của Đảng Cộng sản Việt Nam vào giảng dạy các môn Lý luận Chính trị tại các trường đại

học”, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 434 – 440.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam, trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng không biết mệt mỏi, đã để lại cho toàn thể dân tộc Việt Nam cũng như nhân loại
di sản tư tưởng vô cùng phong phú và quý báu: Tư tưởng về dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc, về chủ nghĩa xã hội, về nhà nước của dân, do dân, vì dân, về văn hóa, đạo đức và con
người, .v.v.. Trong đó, đặc biệt phải kể tới tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn dành nhiều
thời gian và tâm huyết cho công tásc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, giúp Đảng có đủ phẩm chất và
năng lực đảm đương trọng trách mà dân tộc, nhân dân đã giao phó. Hồ Chí Minh đã sớm thấy rõ
trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc, Người chỉ rõ: “Sự nghiệp cách mạng
còn lâu dài gian khổ. Đảng ta còn có trách nhiệm nặng nề đối với 30 triệu đồng bào cả nước ta và
phải tích cực gánh vác phần trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp cách mạng thế giới”[53,
tr.467]. Vì vậy, Người đã xây dựng lên một hệ thống quan điểm về trách nhiệm của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với dân tộc, lấy đó làm một trong những cơ sở định hướng cho mọi hoạt động
của Đảng. Hệ thống quan điểm này có giá trị to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta,
không những làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng lớn mạnh, mà còn tạo được niềm
tin vững chắc trong nhân dân, qua đó củng cố chặt chẽ mối liên hệ giữa Đảng với dân. Người cho
rằng, sở dĩ kể từ khi ra đời Đảng được nhân dân tin tưởng, hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo là bởi lẽ Đảng đã luôn làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình
đối với nhân dân, dân tộc. Đặc biệt trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm
quyền, Người cho rằng, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân, dân tộc phải cao hơn nữa, phải
cụ thể và rõ ràng hơn nữa. Có như vậy nhân dân mới tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng. Có như vậy mới bảo đảm cho sự thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Minh chứng rõ nét nhất cho tinh thần trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc đó là, dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã đập tan được chế độ thực dân nửa phong kiến, giành được
chính quyền cách mạng, thiết lập lên Nhà nước dân chủ kiểu mới; làm nên chiến thắng Điện Biên

Phủ chấn động địa cầu; giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, thu non sông về
một mối, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, v.v.. Bởi vậy, hệ thống quan điểm nói trên của
Người cần được đi sâu nghiên cứu và vận dụng nhằm rút ra giá trị định hướng cho việc nhận thức
và thực hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc.
Ngày nay trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, thì sự lãnh đạo của Đảng là vô cùng quan trọng. Đặc biệt quá trình đổi
1


mới, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đã mở ra cho chúng ta rất nhiều những cơ hội để phát
triển, nhưng cũng đặt ra rất nhiều thách thức đối với Đảng, Nhà nước và dân tộc. Sau 30 năm đổi
mới bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì cũng có nhiều thách thức đặt ra đối với Đảng: công tác
nghiên cứu lý luận còn nhiều bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới;
kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng; đời sống nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm
1994) nêu lên vẫn tồn tại, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và
những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi; niềm tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân vào Đảng và chế độ có mặt bị giảm sút, .v.v.. Thế giới hiện nay đang biến đổi
theo xu hướng đa cực, đa trung tâm mà chiến lược của các nước lớn sẽ tác động, ảnh hưởng sâu sắc
tới các quốc gia, dân tộc. Bên cạnh hợp tác để phát triển thì cạnh tranh vì phát triển cũng hết sức
quyết liệt và gay gắt; toàn cầu hóa đang ngày càng phổ biến và là xu thế không thể đảo ngược,
nhưng mặt trái và những hậu quả xã hội của nó cũng ngày càng bộc lộ; xung đột lợi ích và tranh
chấp chủ quyền ngày càng tăng, làm tiềm ẩn nhiều bất ổn, .v.v..
Do đó, hơn bao giờ hết Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải ý thức rõ được trách nhiệm vô
cùng to lớn của mình đối với dân tộc, cần có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo toàn thể dân
tộc tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, phát triển toàn diện; Đảng phải tỏ rõ mưu lược và
bản lĩnh chính trị trước mọi vấn đề đặt ra, phải đánh giá đúng, dự báo chính xác, quyết định kịp
thời, tổ chức lực lượng với phương thức lãnh đạo hợp lý. Tức là Đảng cần phải nhận thức rõ
được trách nhiệm đối với dân tộc và xác định rõ được nội dung trách nhiệm của Đảng đối với

dân tộc, trên cơ sở đó định hướng cho mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng. Để làm được điều này,
một nhiệm vụ quan trọng là Đảng phải nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc, từ đó rút ra được giá trị định hướng cho việc nhận
thức và thực hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc hiện nay.
Ở một góc độ tiếp cận nữa có thể thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam đã được rất nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu, luận giải ở nhiều giác độ khác nhau nhằm
rút ra những giá trị vận dụng vào thực tiễn. Thế nhưng một trong những vấn đề rất có giá trị và ý
nghĩa vận dụng vào thực tiễn, thì trên thực tế chưa có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp và luận
giải một cách cặn kẽ có tính hệ thống, đó là tư tưởng của Người về trách nhiệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam trước dân tộc. Chính điều này đã mở ra một hướng nghiên cứu mới cho tác giả.

2


Với những lý do nêu trên tác giả lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm
của Đảng Cộng sản Việt Nam đôi với dân tộc và giá trị định hướng hiện nay”, làm đề tài luận án
tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với dân tộc, rút ra giá trị định hướng hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về trách
nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc;
- Luận giải hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với dân tộc;
- Rút ra giá trị định hướng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là, tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản

Việt Nam đối với dân tộc và giá trị định hướng của tư tưởng đó hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc được thể hiện trong các tác phẩm của
Người và trong thực tiễn quá trình Người sáng lập và rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt
Nam;
- Giá trị định hướng của tư tưởng trong việc xác định nội dung trách nhiệm, phương thức
thực hiện trách nhiệm, điều kiện thực hiện trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân
tộc được xem xét trong bối cảnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được triển khai trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc.
Luận án cũng kế thừa những thành quả nghiên cứu lý luận về trách nhiệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với dân tộc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
3


Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận án sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học xã hội nhân văn, khoa học chính trị như: phương
pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, phỏng vấn
chuyên gia, tổng kết thực tiễn. Trong đó:
Để làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu: phương
pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, phỏng vấn
chuyên gia, .v.v..
Để làm rõ giá trị định hướng của vấn đề nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp nghiên
cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn, .v.v..
5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án làm rõ được khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
dân tộc;
- Luận án đã làm rõ được cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc;
- Luận án đã chỉ ra những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc. Bao gồm: nội dung trách nhiệm của Đảng đối với dân
tộc, phương thức thực hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc, điều kiện thực hiện trách
nhiệm của Đảng đối với dân tộc, từ đó rút ra được giá trị định hướng về trách nhiệm của Đảng
đối với dân tộc hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án góp phần nhận diện, hệ thống và luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc;
- Luận án góp phần bổ sung vào lý luận về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
dân tộc bằng việc rút ra giá trị định hướng hiện nay trên cơ sở những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để phục vụ công tác nghiên cứu và
giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Cao đẳng và Đại học; phục vụ công
tác tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc.
4


7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả liên quan đến
luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với dân tộc
Công trình nghiên cứu tiêu biểu về tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với dân tộc, bao gồm: Tác giả Phùng Hữu Phú với bài viết: Hồ Chí Minh về
những phẩm chất cần có của Đảng Cộng sản, được đăng trên Tạp chí Thông tin Lí luận, (121992); tác giả Mạch Quang Thắng với công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; luận án phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử “Môi quan hệ
giữa Đảng với nhân dân trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 1996, của tác giả Đàm Văn Thọ; công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997; công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh rọi sáng con đường độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam, Nxb Nghệ An, 2000, của tác giả Lê Mậu Hãn; công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam và sự vận dụng ở Long An hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học do Ủy Ban
nhân dân tỉnh Long An và Trường Chính trị tỉnh Long An chủ trì năm 2000; công trình Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền của
tác giả Lê Văn Lý (Chủ biên), Mạch Quang Thắng, Đặng Đình Phú, Trần Trung Quang, Nguyễn
Văn Biều, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2002); tác giả Lê Mậu Hãn với công trình Sức mạnh
dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003; tác giả Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh trong công trình Một sô vấn đề trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Nxb Lao động, Hà Nội, 2005; tác giả Lê Mậu Hãn với
công trình Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2009; tác giả Đỗ Hoài Nam với công trình Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2009); tác giả Lê Văn Yên với công trình Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Đại hội Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; công trình Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với tiêu đề Di sản Hồ Chí Minh
trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010; luận văn thạc sĩ Khoa học
Chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh”, Học viện Chính
5


trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, của tác giả Nguyễn Phương An; công trình nghiên cứu

của tập thể tác giả làm việc tại khu di tích phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ biên Xây dựng đảng ta
thật sự trong sạch, vững mạnh là đạo đức, là văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011; Lê Hữu Nghĩa - Bùi Đình Bôn với công trình Thẩm quyền và và trách
nhiệm của Đảng cầm quyền và Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân , Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013; Trương Ngọc Nam - Hoàng Anh (Đồng chủ biên ) với công
trình Đảng ta là đạo đức, là văn minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013; công trình Tăng
cường môi quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2014, do Nguyễn Thế Trung chủ biên; công trình Xây dựng Đảng - Những bài chính luận của
nhóm tác giả do Trần Đình Huỳnh chủ biên, đồng thời là tác giả chính, Nxb Hà Nội, 2015,
1.2. Tình hình nghiên cứu giá trị định hướng và sự vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhận thức và thực
hiện trách nhiệm đối với dân tộc hiện nay
Có các công trình tiêu biểu sau đây: công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, do trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn chủ biên; bài viết: Xây dựng rèn luyện tư cách đảng viên cộng sản theo tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng, Tạp chí Lịch sử Đảng, 2000, (03), của tác giả Lê Thế Lạng; tác giả
Nguyễn Quốc Bảo với công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Nxb Lao động, Hà
Nôi, 2001; tác giả Nguyễn Trọng Phúc với công trình Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; công trình Xây dựng, chỉnh đôn Đảng – Một sô vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, của tác giả Nguyễn Phú Trọng chủ
biên; công trình Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005, của tác giả Nguyễn Phú Trọng; công trình Vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, của tác
giả Bùi Đình Phong và Phạm Ngọc Anh; công trình Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện
nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, của tác giả Đặng Đình Phú – Trần Duy Hưng (Đồng
chủ biên); công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo làm người, Nxb Hà Nội, 2009, do Ban Tuyên
giáo Thành ủy Hà Nội chủ biên; tác giả Phạm Văn Bính với công trình Phương pháp dân chủ Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009; công trình Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng, của tác giả Thanh Quang chủ biên, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2009; công trình tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2009, của tác giả Nguyễn Dy Niên; tác giả Trương Quốc Bảo với công trình Vận dụng tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong xây dựng vàhoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng, Nxb
6


Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; Phạm Thị Hải Chuyền với công trình Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010;
công trình Đảng Cộng sản Việt Nam trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử do Hội đồng Lý luận
Trung ương biên soạn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011; Tô Huy Rứa - Trần Khắc Việt
(Đồng chủ biên) với công trình Làm người Cộng sản trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013; Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền,
Nguyễn Viết Thông với công trình 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia,Hà Nội, 2015; công trình Nguyên tắc, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng
của Đảng ta, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2015, của tác giả Nguyễn Thị Luận và
Nguyễn Thị Thanh Nga (Đồng chủ biên); công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, của
tác giả Tô Lâm chủ biên; công trình Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia –
Sự thật, Hà Nội, 2016, của tác giả Trần Thị Minh Tuyết chủ biên; công trình Đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam, Nxb Chính trị - Sự thật Quốc gia, Hà Nôi, 2016, của tác giả Nguyễn Đình Minh chủ
biên.
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan và vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết
1.3.1. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một cách khách quan, liên quan đến đề tài, cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu đã
công bố có giá trị tham khảo, tuy nhiên, còn nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung
và hoàn thiện:
- Trước hết về tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng đôi với
dân tộc.
Thứ nhất, nhìn chung các công trình đã nghiên cứu và luận giải được về cơ bản hệ thống
quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; về vị trí, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc; về bản chất của Đảng

Cộng sản Việt Nam; về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền; về mối quan hệ giữa Đảng với dân
trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền; về phương thức lãnh đạo của Đảng; về tính tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, .v.v..
Thứ hai, tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, mang tính hệ
thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
dân tộc, trong khi đây là một khái niệm đã được chính Hồ Chí Minh sử dụng. Các công trình tuy
đã khái quát được vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng chưa đi vào phân tích một
cách cụ thể, chưa chỉ rõ trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc trong từng giai đoạn cách mạng
7


cũng như trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội, v.v, mà mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê, chưa
mang tính hệ thống. Vì vậy, đây là một vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu một cách cụ thể, có
tính hệ thống.
- Tình hình nghiên cứu giá trị định hướng và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đôi với
Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhận thức và thực hiện trách nhiệm đôi với dân tộc hiện nay.
Thứ nhất, nhìn chung, những công trình này bước đầu đã chỉ ra được giá trị và sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nhận thức và thực hiện
trách nhiệm đối với dân tộc trên một số lĩnh vực: trong việc nhận thức về thẩm quyền và trách
nhiệm của Đảng; trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay; trong
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; trong việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; phát huy tính tiên phong gương mẫu của cán bộ,đảng viên; trong việc xây
dựng đường lối đối ngoại của Đảng; trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đoàn
kết dân tộc của Đảng; trong xây dựng chỉ thị, nghị quyết của Đảng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật của Nhà nước, v.v.
Thứ hai, các công trình cũng đã có sự gắn kết giữa nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh với
đòi hỏi của thực tiễn trong việc xác định trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân
tộc hiện nay.
Thứ ba, tuy nhiên, chưa có công trình nào luận giải trực tiếp và có hệ thống về vấn đề giá trị
định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc

hiện nay, trên cơ sở ý thức của mỗi cán bộ, đảng viên, cũng như của các cấp tổ chức Đảng về trách
nhiệm của Đảng đối với dân tộc; các công trình cũng chưa chỉ rõ tinh thần trách nhiệm của Đảng với
dân tộc thấm sâu, chuyển hóa thành động lực bên trong, thành mục tiêu của công cuộc xây
dựng Đảng; cũng chưa có công trình nào định hướng cụ thể cho việc xác định nội dung trách
nhiệm của Đảng đối với dân tộc, phương thức thực thiện trách nhiệm của Đảng đối với dân
tộc và điều kiện thực hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc hiện nay. Vì vậy, đây cũng là
khoảng trống cần được tập trung nghiên cứu.
1.3.2. Vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết
Chính những khoảng trống nêu trên trong nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã gợi ý cho tác giả lựa chọn vấn đề :
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đôi với dân tộc và giá trị
định hướng hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Luận án hướng
tới giải quyết những vấn đề cơ bản như sau:

8


Thứ nhất, phân tích một số vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc. Trong đó luận án phân tích và chỉ rõ những cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với dân tộc; phân tích những phẩm chất cá nhân tiêu biểu của Hồ Chí Minh. Việc làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc sẽ giúp
chúng ta hiểu sâu sắc hơn tư tưởng này của Người.
Thứ hai, làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc. Điểm mới của luận án là từ việc phân tích nội dung
trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc để xác định được phương thức thực
hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc, và từ đó xác định được điều kiện thực hiện trách
nhiệm của Đảng đối với dân tộc. Đây là những cơ sở tư tưởng quan trọng để từ đó rút ra giá trị
định hướng hiện nay.
Thứ ba, rút ra giá trị định hướng của tư tưởng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc

nhận thức và thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc hiện nay.
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI DÂN TỘC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. Khái niệm
2.1.1. Khái niệm “trách nhiệm” và “dân tộc”
* Trách nhiệm
Có thể khái quát về trách nhiệm như sau: Trách nhiệm là sự phụ trách hay đảm đương một
nhiệm vụ nào đó của một cá nhân hay một tổ chức và phải đảm bảo thực hiện với tinh thần, ý
thức cao nhất, hoàn thành với kết quả tôt nhất, đồng thời sẵn sàng chịu hậu quả khi không hoàn
thành.
Hồ Chí Minh sinh thời luôn rất quan tâm đến vấn đề trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên.
* Dân tộc
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, thì dân tộc được hiểu là: “Cộng đồng người hình
thành trong lịch sử, có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, ngôn ngữ văn hóa và một số đặc
trưng văn hóa và tính cách”[99, tr.112].
Theo Từ điển triết học do M.Rô-den-tan và P.I-u-đin chủ biên, thì khái niệm dân tộc như
được hiểu như sau: “Dân tộc là một khối cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn định, hình thành

9


trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống
kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung biểu hiện trong một nền văn hóa chung”[103, tr. 219].
Như vậy, từ sự phân tích nêu trên có thể khái quát về dân tộc như sau: Dân tộc là một hình
thức cộng đồng người ổn định, được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử, có chung
một lãnh thổ, một nền kinh tế, một ngôn ngữ, một cấu tạo tâm lý được biểu hiện trong nền văn
hóa chung.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung mà chủ yếu bàn về

vấn đề dân tộc thuộc địa, tìm mọi cách để giải phóng dân tộc thuộc địa. Vì vậy, trên thực tế Người
chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về dân tộc, nhưng nếu hiểu dân tộc là cộng đồng người cụ thể, là
nhân dân hiểu theo nghĩa cộng đồng, thì Hồ Chí Minh đã không ít lần nêu ra quan niệm về nhân
dân.
2.1.2. Khái niệm “trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt nam đối
với dân tộc” và “tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc”
* Trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đôi với dân tộc
Có thể hiểu trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc như sau: Trách nhiệm
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc là một hệ thống quan điểm về vị trí, vai trò, nhiệm vụ
của Đảng đối với dân tộc; là một loại trách nhiệm đặc biệt, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo
đức, trách nhiệm pháp lý, .v.v..
Trong quá trình sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần
đề cập tới vấn đề trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước, dân tộc với những chỉ dẫn
rất cụ thể trong các bài nói, bài viết của Người. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng”[44, tr. 289].
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản V iệt Nam đối với
dân tộc
Từ sự chỉ dẫn nêu trên, có thể hiểu khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc như sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đôi với dân tộc là một hệ thông những quan điểm về vị trí, vai trò,
nhiệm vụ của Đảng đôi với dân tộc, được biểu hiện trên những phương diện cụ thể: về nội dung
trách nhiệm, phương thức thực hiện trách nhiệm và điều kiện thực hiện trách nhiệm của Đảng
đôi với dân tộc, nhằm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn.

10


2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt

Nam đối với dân tộc
2.2.1. Cơ sở lý luận
* Truyền thống về ý thức trách nhiệm của người cầm quyền
trước vận mệnh dân tộc
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã hun đúc
nên những giá trị truyền thống tốt đẹp, đó là tình yêu nước, yêu quê hương, tình gia đình, làng
xóm, tình cảm cộng đồng, đoàn kết thủy chung, nhân văn, nhân nghĩa, lòng hi sinh quả cảm,
trọng đạo lý, .v.v.. Đó là một nền văn hóa tình nghĩa – một nền văn hóa không xây dựng trên lợi
ích cá nhân mà lấy ý thức trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng làm nền tảng; luôn đặt lợi ích
của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết. Biểu hiện của tinh thần trách nhiệm này được thể hiện rõ
thông qua hình ảnh và những tư tưởng lớn của những người anh hùng dân tộc, những người cầm
quyền trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những giá trị truyền thống
này đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và là cơ sở quan trọng để Người xây dựng lên hệ thống quan
điểm về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc.
* Tinh thần trách nhiệm trong văn hóa Phương Đông
- Nho giáo: Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tiếp thu những giá trị tích cực trong tư tưởng
Nho giáo để xây dựng lên tư tưởng về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc. Đặc biệt là quan
điểm về trách nhiệm của người cầm quyền đã được Khổng Tử và các học trò của ông đề cập tới.
Trước tiên là Người tiếp thu quan điểm của Khổng Tử về trách nhiệm của người cầm
quyền, những quan điểm này được thể hiện thông qua một số nội dung sau đây:
+ Quan niệm về chính trị: Khổng Tử cho rằng, việc chính trị hay dở cốt lại ở người thực
hiện (người cầm quyền)
+ Quan điểm Thiện ý dân tâm: Khổng giáo có quan niệm là Trời với người cùng đồng một
thể, toàn dân muốn thế nào là Trời muốn thế ấy.
+ Quan điểm Thứ, phú, giáo: Khổng Tử cho rằng, việc chính trị có ba điều hệ trọng là: làm
cho dân nhiều, làm cho dân giàu, và dạy cho dân biết lễ nghĩa.
Thứ hai, Người tiếp thu quan điểm của Mạnh Tử về trách nhiệm của người cầm quyền,
quan điểm này được thể hiện thông qua các nội dung sau:
+ Mạnh Tử tuy thừa nhận chính thể quân chủ, nhưng ông cho thiên hạ là của chung của
thiên hạ, chứ người làm vua không có quyền được lấy thiên hạ làm của riêng của mình.

+ Mạnh Tử rất chú trọng sự “bảo dân” cho nên ông đã đưa ra nhiều ý kiến có giá trị về
đường lối chính trị.
11


+ Ông cũng cho rằng, người trị dân, trị nước là phải chăm lo việc dân, khiến cho dân được
sung túc, rồi phải dạy dỗ dân, để cho dân đừng làm điều bậy.
+ Mạnh Tử cũng cho rằng, việc giáo hóa là nhiệm vụ trọng yếu trong việc chính trị của
nho giáo, mà trách nhiệm thuộc về người cầm quyền.
- Phật giáo: cũng như Nho giáo, Phật giáo là hệ thống tư tưởng – văn hóa được Hồ Chí
Minh nghiên cứu và chịu ảnh hưởng từ rất sớm. Bởi vậy, Phật giáo cũng là một trong những nhân
tố quan trọng trong việc hình thành nên tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về trách nhiệm
của Đảng đối với dân tộc.
Khi nghiên cứu những tư tưởng của Phật giáo, Hồ Chí Minh cho rằng, Phật giáo là một hệ
thống tư tưởng – văn hóa có nhiều mặt tích cực. Trong giáo lý của đạo Phật thể hiện rõ tư tưởng nhân
văn, đó là sự thấu hiểu cho nỗi thống khổ của chúng sinh và từ đó đi tìm cách giải thoát cho chúng
sinh khỏi đau khổ. Đây chính là biểu hiện cao nhất của tinh thần trách nhiệm đối với con người của
đạo Phật.
- Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn:
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tiếp thu học thuyết Tam dân của nhà cách mạng Trung Quốc
Tôn Trung Sơn để hình thành nên tư tưởng về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc. Tôn Trung
Sơn là nhà yêu nước vĩ đại, nhà cách mạng dân chủ lỗi lạc của Trung Quốc. Tên tuổi của Tôn
Trung Sơn gắn liền với chủ nghĩa Tam dân và cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc.
Chủ nghĩa Tam dân (với 3 nội dung chủ yếu là dân tộc, dân quyền, dân sinh) đã thể hiện khá hoàn
chỉnh tư tưởng dân chủ tư sản của Trung Quốc thời kỳ cận đại.
- Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng từ nhà cách mạng người Ấn Độ Gandhi:
Hồ Chí Minh rất cảm phục người anh hùng Gandhi nhà cách mạng người Ấn Độ, cho nên
Người đã nghiên cứu và tiếp thu những quan điểm cách mạng tích cực của ông. Đó là quan điểm về
giải phóng con người; là những yếu tố tích cực trong nguyên tắc Chấp trì chân lý của Gandhi để
hình thành hệ thống quan điểm của Người về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc.

* Tinh thần trách nhiệm trong văn hóa Phương Tây
Bên cạnh việc tiếp thu những hạt nhân tích cực trong văn hóa phương Đông thì các giá trị
tư tưởng, văn hoá phương Tây về tinh thần trách nhiệm cũng là một yếu tố có vị trí vô cùng quan
trọng trong việc hình thành nên tư tưởng của Người về trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc.
Một trong những giá trị trong văn hóa phương Tây mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu và có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới việc hình thành tư tưởng của Người về trách nhiệm của Đảng với dân tộc, đó là
những giá trị tích cực về quyền tự do, bình đẳng, bác ái và quyền mưu cầu hạnh phúc của con
người phương Tây.
12


* Giá trị trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của Đảng cộng sản
- Quan điểm của Mác – Ăngghen:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sớm đề cập tới vai trò của đảng cộng sản, hai ông là người đặt
cơ sở tư tưởng cho việc ra đời của chính đảng cộng sản. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, trước
hết sự tồn tại của chính Đảng của giai cấp vô sản và vai trò lãnh đạo của nó trước hết xuất phát từ
việc xác định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Phân tích những sự kiện lịch sử trong những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống
chủ nghĩa tư bản hồi đầu thế kỷ XIX, cùng với sự nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã
phát triển hoàn chỉnh. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự diệt vong
của chủ nghĩa tư bản và sự tất yếu của bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời hai ông đã
chỉ ra một lực lượng có khả năng thực hiện bước quá độ đó, người có vai trò lịch sử đào mồ chôn
chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới – xã hội cộng sản, đó chính là giai cấp vô sản.
* Quan điểm của V.I. Lênin
Là người kế tục vĩ đại sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen, chiến đấu trong thời kỳ đế
quốc, thời kỳ cách mạng vô sản trở thành trực tiếp và trong hoàn cảnh giai cấp vô sản Nga đã
giành được chính quyền, V.I. Lênin đã phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen một cách
toàn diện, làm phong phú thêm tất cả các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Bằng hoạt động
lý luận và thực tiễn của mình, Lênin đã thành lập đảng của giai cấp công nhân ở Nga - Đảng
Công nhân dân chủ - xã hội Nga năm 1898. Lênin cũng đã bàn một cách rất cụ thể về vai trò,

nhiệm vụ của Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp vô sản. Có thể chia quan điểm của Lênin
về vai trò, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản làm hai giai đoạn:
Thứ nhất, giai đoạn trước cách mạng Tháng Mười: mục tiêu ở giai đoạn này là đánh đổ
giai cấp phong kiến quý tộc Nga, nhằm thiết lập lên nhà nước kiểu mới. Vì vậy, sau khi thành lập
Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga năm 1898, Lênin có đề cập tới vị trí vai trò của đảng đó là:
tổ chức cho giai cấp công nhân đấu tranh và tố cáo chính phủ chuyên chế, hay đấu tranh giành
những lợi ích kinh tế cho giai cấp công nhân cũng như lôi cuốn, tập hợp đông đảo quần chúng vô
sản vào phong trào cách mạng đấu tranh vì mục tiêu chung của giai cấp vô sản, v.v..
Thứ hai, giai đoạn sau cách mạng Tháng Mười: xuất phát từ vai trò lãnh đạo tất yếu khách
quan của đảng cộng sản cũng như vai trò trung tâm, hạt nhân trong hệ thống chuyên chính vô sản
và nhất là trong điều kiện đảng cầm quyền, nhiệm vụ của đảng là vô cùng quan trọng, quyết định
sự thành bại của cách mạng.
2.2.2. Cơ sở thực tiễn
* Thực tiễn quá trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
13


Có thể khẳng định rằng, trong các yếu tố thuộc cơ sở thực tiễn, thì yếu tố thực tiễn quá trình
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ đó là căn cứ cụ thể để
Hồ Chí Minh xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân
tộc và cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng để Người xây dựng lên hệ thống quan điểm của mình về
trách nhiệm của Đảng với dân tộc.
Thứ nhất, về bôi cảnh lịch sử xã hội trong nước những năm cuôi thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời:
Có thể thấy rằng, bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam trong giai đoạn này đã tác động mạnh mẽ
tới người thanh niên Nguyễn Tất Thành để từ đó hình thành nên lòng yêu nước, chí căm thù giặc,
và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước cũng như hình thành nên tư duy phải xây dựng cho dân tộc
Việt Nam một tổ chức chính trị để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi cuối
cùng. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam trong giai đoạn này cũng đặt ra một vấn đề lớn là làm thế
nào để giải phóng được dân tộc? Tổ chức chính trị nào sẽ chịu trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp đấu

tranh của dân tộc Việt Nam?
Thứ hai, sự ra đời của một sô các tổ chức chính trị do các nhà yêu nước ở Việt Nam lập ra
trước năm 1930 và yêu cầu cần phải có một chính đảng của dân tộc.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thì ở nước ta đã xuất hiện một số các tổ chức
chính trị như: Hội Duy Tân; Việt Nam Quang Phục Hội; Đảng lập hiến; Việt Nam quốc dân
Đảng, .v.v.. Vậy vấn đề đặt ra là các tổ chức chính trị này hoạt động như thế nào? Đã thực hiện
được trách nhiệm của mình đối với dân tộc hay chưa? Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã có
những tìm hiểu và phân tích rất cặn kẽ về hoạt động của các tổ chức chính trị này
*Kinh nghiệm của cách mạng thế giới
- Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quôc:
Xuất phát từ mối quan hệ rất đặc biệt giữa cách mạng Việt Nam và Trung Quốc, sinh thời
trong quá trình xây dựng, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm
tới việc học tập kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong lãnh đạo cách mạng giải phóng
dân tộc cũng như trong lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước. Người nghiên cứu và tiếp thu với
tâm thế của một người cộng sản đã được giác ngộ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, với óc phê
phán tinh tế, với cách nhìn toàn diện, gắn với quan điểm lịch sử cụ thể, cho nên trong những bài
học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người tiếp thu cả bài học thành công và bài học
thất bại. Đó là cơ sở thực tiễn vô cùng quan trọng để Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc.
- Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô:
14


Bên cạnh việc nghiên cứu kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì Hồ Chí Minh
còn nghiên cứu những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng
sản Liên Xô để xác định trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc. Những kinh
nghiệm phong phú của Đảng Cộng sản Liên Xô trên nhiều lĩnh vực là bài học bổ ích đã giúp cho
Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời những kinh
nghiệm này cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng để Người đã xây dựng lên hệ thống quan điểm về
trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc, nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi

hoàn toàn.
2.2.3. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Trước tiên, là trí tuệ khoa học trong con người Hồ Chí Minh: biểu hiện trước hết ở sự kiên
trì học tập tiếp thu vốn tri thức phong phú của dân tộc và nhân loại, là tư duy độc lập tự chủ trong
tiếp thu, phê phán, chọn lọc các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, trí tuệ của thời đại để
trên cơ sở đó sáng tạo và phát triển thành những giá trị tư tưởng mới vì mục tiêu độc lập dân tộc
và giải phóng con người triệt để.
Thứ hai, là ý thức trách nhiệm đôi với nhân dân, dân tộc: ngay từ thuở thiếu thời, trăn trở
trước vận nước lâm nguy, cùng với những tư tưởng cứu nước không thành công của các bậc tiền
bối, trước trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc, vì vậy, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc.
Thứ ba, là tinh thần dấn thân, đức hy sinh: Sau khi xác định được trách nhiệm của mình
đối với dân tộc, xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh đã có những hoạt
động thực tiễn vô cùng phong phú, cả ở trong và ngoài nước, Người không ngại khó khăn gian
khổ để thực hiện bằng được mục tiêu con đường cách mạng mà mình đã lựa chọn. Đó chính là
biểu hiện của tinh thần “dấn thân”, đức hy sinh cao cả vì nước, vì dân mà không màng tới danh
lợi cho cá nhân.
Thứ tư, là tinh thần phê phán nghiêm túc: Hồ Chí Minh còn là một tấm gương lớn thể hiện
nhân cách cao đẹp về tinh thần tự phê phán.
Chương 3
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM ĐỐI VỚI DÂN TỘC
3.1. Nội dung trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc
3.1.1. Trách nhiệm với đất nước
* Xây dựng một nền hòa bình, thông nhất cho dân tộc
* Xây dựng một nước Việt Nam độc lập
15


* Xây dựng một nhà nước dân chủ

* Xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh
3.3.2. Trách nhiệm đối với nhân dân
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ có trách nhiệm đối với đất nước, với Tổ quốc, mà
Đảng còn phải có trách nhiệm đối với hàng triệu đồng bào Việt Nam. Nghĩa là Đảng phải có trách
nhiệm đối với nhân dân, đối với con dân đất Việt. Bởi lẽ Người quan niệm, dân tộc ở đây là gắn
với những con người cụ thể, là nhân dân, là không phân chia giai cấp, đều là những “con Lạc
cháu Hồng”. Như vậy suy cho cùng trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc cũng chính là trách
nhiệm đối với nhân dân. Trách nhiệm này được biểu hiện qua một số nội dung sau đây.
* Làm cho nhân dân được ăn no, mặc ấm
* Làm cho nhân dân được tự do
* Làm cho nhân dân được sung sướng, hạnh phúc
3.2. Phương thức thực hiện trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc
3.2.1. Đảng trực tiếp thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc
* Đảng thực hiện trách nhiệm đôi với dân tộc thông qua đường lôi, chủ trương, chính
sách và các khẩu hiệu của Đảng.
* Đảng thực hiện trách nhiệm đôi với dân tộc thông qua các tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên của đảng
- Trước tiên Đảng thực, hiện trách nhiệm đối với dân tộc thông qua tổ chức đảng mà hạt nhân
chính là các tổ chức cơ sở đảng:
- Thứ hai, Đảng thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc thông qua đảng viên của Đảng:
3.2.2. Đảng thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc thông qua hệ thống chính trị mà
trước hết là Nhà nước và Mặt trận dân tộc thống nhất

* Đảng thực hiện trách nhiệm đôi với dân tộc thông qua Nhà nước
Trước tiên, trên lĩnh vực chính trị;
Thứ hai, trên lĩnh vực kinh tế;
Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục.
* Đảng thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc thông qua Mặt trận
dân tộc thống nhất
Hồ Chí Minh cho rằng: “Để làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải

dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác”[52, tr. 453]. Muốn vậy Đảng không thể tự mình đoàn kết nhân dân
16


tập hợp lực lượng, mà Đảng phải thông một hình thức tổ chức nhất định đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của các tầng lớp giai cấp trong xã hội.
3.2.3. Đảng thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc bằng cách vận động, giác ngộ nhân
dân, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục nhân dân tin theo Đảng và thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ cách mạng
Trách nhiệm của Đảng trước dân tộc là vô cùng to lớn, Đảng phải củng cố sức mạnh cho
dân nhằm tạo ra một lực lượng cách mạng vô địch đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, đem lại độc
lập tự do cho nhân dân. Nhưng muốn có dân mạnh thì dân phải được giác ngộ, được tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục, được tổ chức và lãnh đạo mới tạo nên sức mạnh vô địch, Đảng không dùng
sức mạnh để ép buộc, áp đặt nhân dân. Đây chính là một trong những phương thức lãnh đạo của
Đảng và cũng là một trong những phương thức để Đảng thực hiện trách nhiệm trước dân tộc.
3.3. Điều kiện thực hiện trách nhiệm đối với dân tộc của Đảng Cộng sản việt Nam
3.3.1. Phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh
* Đảng phải là hiện thân của trí tuệ và đạo đức
* Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân
Trước tiên là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ hai, trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ hoặc đảng viên mới, đều
nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vô sản.
* Cán bộ, đảng viên của Đảng phải tiên phong gương mẫu
3.3.2. Đảng phải lãnh đạo Nhà nước xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ nhằm
tạo ra môi trường văn hóa - đạo đức lành mạnh cho xã hội
Một trong những điều kiện đảm bảo để Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện trách nhiệm
đối với dân tộc, đó là Đảng phải lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối của mình
thành hiến pháp và pháp luật để đưa vào cuộc sống. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một hệ

thống pháp luật đồng bộ, quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của công dân và tổ chức. Bởi lẽ
Đảng muốn lãnh đạo được nhân dân, dân tộc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mà mình đề
ra, thì đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, của
nhân dân. Từ đó Đảng sẽ thực hiện theo đúng bổn phận, trách nhiệm của mình đã được quy định,
nhân dân cũng sẽ tự giác thực hiện quyền và trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc, dân tộc.
3.3.3. Đảng phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, qua đó đoàn kết nhân dân
xây dựng lực lượng cho cách mạng
* Đảng phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân
17


* Đảng phải thực hiện đoàn kết nhân dân xây dựng lực lượng cho cách mạng
3.3.4. Đảng phải xây dựng và mở rộng mối quan hệ quốc tế nhằm phát huy các nguồn lực
từ bên ngoài vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Trong việc xây dựng mối quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Việt nam được Hồ Chí Minh
xác định rất rõ ràng và cụ thể:
Trước tiên đối với đảng anh em trong phong trào cộng sản, Hồ Chí Minh cho rằng mối quan
hệ này được xác lập dựa trên cơ sở chung là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ hai, Hồ Chí Minh xác định mối quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam là mối
quan hệ đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau vì sự tiến bộ, lớn mạnh của mỗi đảng và vì sự lớn mạnh chung
của cả phong trào cộng sản.
Thứ ba, trong việc xây dựng mối quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh còn chủ trương Đảng phải đoàn kết, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Thứ tư, trong xây dựng mối quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
luôn luôn quán triệt quan điểm phải dựa vào sức mình là chính, không được trông chờ, ỷ lại.
Chương 4
GIÁ TRỊ ĐỊNH HƯỚNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI DÂN TỘC HIỆN NAY
4.1. Giá trị định hướng trong việc xác định nội dung trách nhiệm của Đảng trước dân tộc

4.1.1. Đảng phải lãnh đạo nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc
Thứ nhất, Đảng có phải quyết tâm sắt đá, thái độ dứt khoát, nguyên tắc chiến lược và hành
động nhất quán để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Thứ hai, Đảng phải xây dựng phương châm đúng đắn, sách lược mềm dẻo, bước đi khôn
khéo để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Đây là trách nhiệm to lớn của
Đảng đối với dân tộc.
Thứ ba, để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong
tình hình mới đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Thứ tư, phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tăng cường hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh.

18


Thứ năm, Đảng phải lãnh đạo nhằm phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước,
nhất là vai trò của nhân dân đối với quá trình đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ sáu, phải tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự
giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
4.1.2. Đảng phải lãnh đạo xây dựng và củng cố Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, để thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thứ nhất, phải quán triệt quan điểm Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, dựa trên nền tảng vững chắc của khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, Đảng phải lãnh đạo đảm bảo thực thi quan điểm quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phân cấp và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ ba, Đảng phải dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và
củng cố Nhà nước.
Thứ tư, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, bảo đảm sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy
tính chủ động, năng động, sáng tạo của từng địa phương, từng cơ sở, từng tổ chức, từng cá nhân và
toàn hệ thống.
Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thứ sáu, Đảng phải lãnh đạo nhằm thực hiện tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4.1.3. Đảng phải lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước
Trong thời gian tới Đảng cần tập trung vào một số nội dung sau đây.
Trước tiên, Đảng phải đề ra được đường lối, chiến lược phát triển kinh tế, bảo đảm tính
chính trị trong sự phát triển của kinh tế, làm cho kinh tế vừa có tốc độ tăng trưởng và năng suất
lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh, vừa đi đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, hạn chế bất công và bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
Thứ hai, các cấp ủy đảng phải có trách nhiệm quan trọng hàng đầu là lãnh đạo, kiểm tra và
trực tiếp đấu tranh thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm cho tất cả
các thành phần kinh tế đều theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không đi lệch quỹ đạo của
chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực kinh tế.

19


Thứ tư, Đảng phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, tận tụy, có
phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo và quản lý, có kiến thức về kinh tế và quản lý kinh
tế, biết làm kinh tế, có kiến thức về pháp luật và biết quản lý nhà nước bằng pháp luật, biết tiếp
cận thị trường, nhanh nhạy.
4.1.4. Đảng phải chăm lo, nâng cao đời sống của nhân dân
Thứ nhất, nhận thức sâu sắc hơn nữa ý nghĩa quan trọng của vấn đề chăm lo đời sống nhân
dân, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, quan điểm của Đảng về vấn đề này trong

toàn xã hội. Đặc biệt Đảng phải quán triệt sâu rộng tới các cấp ủy đảng ở cơ sở, các cán bộ, đảng
viên của Đảng nhận thức rõ trách nhiệm này.
Thứ hai, Đảng phải có biện pháp cụ thể và tích cực bảo đảm đời sống nhân dân, trước hết là bảo
đảm việc làm, chăm lo cái ăn, cái mặc, sức khỏe và học hành của nhân dân
Thứ ba, phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội, lối sống có văn hóa, bảo đảm
an toàn xã hội. Bởi đây là biểu hiện tốt đẹp của chế độ dân chủ do Đảng lãnh đạo xây dựng và cũng
là cơ sở, là tiêu chí để đảm bảo cho việc nâng cao đời sống của nhân dân về mọi mặt.
Thứ tư, phải thẳng tay trừng trị những kẻ làm ăn phi pháp, xâm phạm lợi ích của nhân dân,
khôi phục trật tự kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, .v.v.. Có như vậy, mới giúp cho
quần chúng nhân dân yên tâm, phấn khởi trong lao động sản xuất và trong công tác. Đó cũng là
điều kiện quan trọng đảm bảo cho đời sống của nhân dân được nâng cao, không ngừng cải thiện.
4.2. Giá trị định hướng về phương thức thực hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc
4.2.1. Đảng phải không ngừng củng cố và xây dựng cương lĩnh, đường lối đúng đắn,
phù hợp hợp yêu cầu của nhân dân và đất nước để lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc phát triển đi
lên chủ nghĩa xã hội.
4.2.2. Đảng phải củng cố và phát triển tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, nâng cao ý thức
trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Thứ nhất, tổ chức cơ sở đảng phải quan tâm làm tốt công tác vận động quần chúng, chống
bệnh quan liêu, xa rời quần chúng ngay từ cơ sở.
Thứ hai, tổ chức cơ sở đảng, trước hết là chi bộ, cần phải chăm lo hơn nữa việc giáo dục, rèn
luyện đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên, thường xuyên kiểm tra công tác, phẩm chất và tác phong
của đảng viên, làm tốt công tác phát triển Đảng và đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Thứ ba, cần phải nâng cao chất lượng các cấp ủy của các tổ chức cở sở đảng, trước hết là
người đứng đầu.
Thứ tư, cần phải nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ.

20


4.2.3. Phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ

thống chính trị nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc
thực hiện trách nhiệm của Đảng đối với dân tộc
* Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đôi với Nhà nước
Trước tiên, tiếp tục cụ thể hóa và hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối phát triển đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, phải đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo hướng: Đảng lãnh
đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh của Đảng, đường lối, chiến lược của Đảng thành pháp luật,
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, v.v..
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay cần tập trung
vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp;
với Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; với cơ quan tư pháp, trong đó đặc biệt quan trọng là
Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp.
Thứ tư, Đảng phải đổi mới mạnh mẽ cách ra nghị quyết.
Thứ năm, Đảng với tư cách là người lãnh đạo Nhà nước, được Hiến pháp ghi nhận, Đảng
phải trực tiếp làm công tác cán bộ chủ chốt của Nhà nước.
* Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đôi với Mặt trận và các đoàn thể
Thứ nhất, phải nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân theo tinh thần
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011).
Thứ hai, đổi mới việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo hướng: các cấp bộ đảng, nhất là người đứng đầu, phải
sâu sát cơ sở, đi cùng nhân dân để nắm được yêu cầu, nguyện vọng của đa số nhân dân, từ đó xây
dựng và ban hành các quyết định lãnh đạo.
Thứ ba, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nghị quyết của Đảng, kết hợp với
giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới việc thể chế hóa nghị quyết của Đảng thành các văn bản pháp luật để chỉ
đạo, quản lý hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
4.3. Giá trị định hướng trong việc tạo lập những điều kiện để thực hiện trách nhiệm
của Đảng đối với dân tộc
4.3.1. Phải nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng

4.3.2. Phải phát huy tinh thần tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc
thực hiện các nhiệm vụ
21


4.3.3. Đảng phải lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
Trước tiên là Đảng phải lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh; không
ngừng nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.
Thứ hai, Đảng phải lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
nhằm tập hợp và phát huy sức manh của quần chúng nhân dân.
Thứ ba, Đảng phải lãnh đạo hệ thống chính trị cả về mặt tổ chức và công tác cán bộ.
Thứ tư, Đảng phải tăng cường thực hiên công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của
hệ thống chính trị.
4.3.4. Phải tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân
Thực tiễn kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay đã minh chứng rằng, khi
nào Đảng giữ được mối liên hệ máu với nhân dân thì cách mạng thành công, khi nào Đảng lơ là
trong mối liên hệ với nhân dân thì cách mạng gặp khó khăn. Vì vậy, giữ mối liên hệ với nhân dân
là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố tạo ra sức mạnh của Đảng và cũng
là một trong những điều kiện quan trọng để Đảng thực hiện được trọng trách của mình đối với
dân tộc.
4.3.5. Thực hành dân chủ, đề cao và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Thứ nhất, Đảng phải lãnh đạo từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ từ trong Đảng đến dân chủ ngoài xã hội được thực hiện trong thực tế ở các cấp, các
địa bàn, các lĩnh vực.
Thứ hai, Đảng phải lãnh đạo đổi mới, cải tiến quy chế bầu cử (Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp) để khắc phục tính hình thức trong bầu cử, tạo điều kiện cho người dân thực sự có quyền
lựa chọn những người xứng đáng thay mặt mình gánh vác công việc chung của đất nước và địa
phương, đây là quyền quan trọng nhất của người dân.
Thứ ba, Đảng phải lãnh đạo đổi mới cơ chế và quy trình ra quyết định lãnh đạo, quản lý
theo hướng phát triển dân chủ, phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chủ

trương, chính sách.
Thứ tư, cần tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong các công việc hàng ngày ở ngay trên địa bàn trực tiếp nhất.
Thứ năm, Đảng phải lãnh đạo sâu sát nhằm thực hiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, giám
sát công việc của Đảng, Nhà nước.
Thứ sáu, cần có chế độ cung cấp thông tin cho nhân dân và trách nhiệm giải trình của cơ
quan nhà nước trước nhân dân.
22


×