Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ toàn cầu hóa kinh tế và tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.15 KB, 29 trang )

1
Toàn cầu hóa kinh tế và tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến Việt Nam
1. Lịch sử tư tưởng vấn đề toàn cầu hóa kinh tế
Mặc dù phải đến ngày nay dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa họccông nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất xã hội loài người mà trước hết là ở các
nước tư bản phát triển đạt tới trình độ rất cao thì quá trình toàn cầu hóa kinh tế mới
nảy sinh. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng: đó phải là kết quả phát triển lâu dài
của lịch sử sản xuất xã hội loài người gắn với vấn đề phân công lao động xã hội và
giao lưu hàng hóa giữa các địa phương, dân tộc và các quốc gia với nhau. Vì vậy,
trải qua các thời đại kinh tế khác nhau, các nhà tư tưởng đã ít hoặc nhiều, đầy đủ
hoặc chưa đầy đủ, nông hoặc sâu phản ánh những khía cạnh, hình thức khác nhau
của những mối quan hệ giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, những hình thức quan
hệ kinh tế quốc tế đầu tiên của toàn cầu hóa kinh tế.
a. Các nhà tư tưởng trước C.Mác
* Thời cổ đại (chủ yếu là Hy Lạp cổ đại)
Một số nhà triết học đã phản ánh những tư tưởng kinh tế trong quan niệm triết
học của mình.
- Xênophon (430-345TCN), trong tư tưởng về phân công lao động ông cho
rằng: Phân công lao động có vai trò thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa các vùng, nhờ
phân công lao động mà nâng cao được chất lượng hoạt động. Giữa phân công lao
động và quy mô thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ở những nơi trao đổi
phát triển mạnh thì phân công lao động phát triển mạnh.
- Platon (427-347 TCN), ông đã giải thích mối quan hệ giữa phân công lao động,
thương mại và tiền tệ với vai trò nổi bật của các thương gia. C.Mác đã đánh giá cao ý
tưởng này của Platon và gọi đó là sự nổi bật thiên tài đối với thời đại.
- Aristoleles (384-322TCN), ông đã chia kinh doanh làm hai loại. Loại “kinh
tế” nhằm mục đích giá trị sử dụng; loại “sản xuất của cải”, mục đích của hoạt động
kinh doanh này là làm giàu. Loại này có quan hệ với trao đổi làm giàu T - H - T
(đại thương nghiệp), ông cho rằng loại này không phù hợp cần loại bỏ.
* Thời trung cổ, trong tư tưởng kinh tế của Thomasd Aquin (1225-1274)
người ITALIA, ông đã sử dụng quan điểm của Aristoteles về ba loại thương nghiệp
và cho rằng: Đại thương nghiệp có thể theo đuổi một mục đích chân lý hay cần


thiết (thu lợi nhuận không mâu thuẫn với lòng từ thiện).


2
* Thời cận đại
- Chủ nghĩa trọng thương thế kỷ thứ XV- XVI, tư tưởng xuyên suốt của chủ
nghĩa trọng thương là: Khối lượng tiền (vàng) chỉ có thể gia tăng bằng con đường
ngoại thương; trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu
(xuất nhiều, nhập ít). Họ hiểu: của cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra ở
trong nước, sau khi đã thỏa mãn tiêu dùng thì phải được chuyển thành tiền thông
qua thị trường nước ngoài.
Montchectien (1575-1622) cho rằng: nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại
thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần của cải qua
nội thương.
Thomas Mun (1571-1641) cho rằng: thương mại là hòn đá thử vàng đối với
sự phồn thịnh của quốc gia.Ông đưa ra thuyết cân đối ngoại thương “bán ra với số
tiền lớn hơn là mua vào”.
Kolbert (1619-1683) cho rằng: ngoại thương có thể làm cho thần dân được
sung túc và thỏa mãn được nhu cầu của vua chúa. Sự vĩ đại và hùng cường của một
quốc gia là do số lượng tiền tệ quyết định.
- Thế kỷ thứ XVII, sau khi chủ nghĩa trọng thương suy tàn, Đudley North (16411695) người Anh đã kiến nghị bãi bỏ sự ủng hộ của nhà nước và đề ra tư tưởng mậu
dịch tự do. Có thể nói ông là người đầu tiên đề xuất tư tưởng này.
- Các nhà tiền bối của C.Mác (Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh).
Ađamsmit cho rằng: Các bên tham gia thương mại đều có lợi. Theo ông, mỗi
quốc gia cần chuyên môn hóa vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối
và tiêu chuẩn quyết định sự lựa chọn ngành cần chuyên môn hóa trong phân công
lao động quốc tế là những điều kiện về tự nhiên, địa lý, khí hậu mà chỉ nước đó có
lợi thế, Đó là lợi thế tuyệt đối. Theo lý thuyết này, quốc gia nào có nhiều nguồn lực
và tận dụng một cách hiệu quả nhất thì tổng sản phẩm của quốc gia đó tăng lên và
thông qua thương mại quốc tế sẽ có lợi thế hơn so với các quốc gia khác có ít hoặc

không có các nguồn lực nhất là các nguồn lực gắn với điều kiện tự nhiên. Hạn chế
trong lý thuyết của ông là không giải thích được hiện tượng một nước có lợi thế
hơn hẳn các nước khác hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào thì chỗ
đứng của nước đó trong phân công lao động quốc tế là ở đâu và thương mại quốc
tế sẽ xảy ra như thế nào với các nước này.


3
Ricácđô, kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ađamsmit, ông
đưa ra lý thuyết lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh. Theo đó, chuyên
môn hóa sản xuất quốc tế không nhất thiết phải có lợi thế tuyệt đối mà chỉ cần có
lợi thế tương đối. Một quốc gia không nên sản xuất tất cả mọi sản phẩm mà chỉ nên
tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm họ làm ra với chi phí tương đối
thấp và nhập khẩu những sản phẩm có chi phí tương đối caơ hơn so với sản phẩm
cùng loại của nước khác. Hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh là dựa trên hàng
loạt các giả thiết đơn giản hóa như không tính chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa,
hàng rào thuế quan. Vì vậy, nếu xem xét trong trạng thái động sẽ không giải thích
được nguồn gốc phát sinh lợi thế so sánh của một nước đối với một loại sản phẩm
nào đó. Vì vậy, nó không giải thích được nguyên nhân sâu xa của quá trình thương
mại quốc tế.
- Say (1766-1832) nhà kinh tế chính trị tư sản tầm thường, một trong những
kết luận của ông đưa ra trong “thuyết tiêu thụ” là việc nhập khẩu sản phẩm nước
ngoài tạo điều kiện để bán sản phẩm trong nước, qua đó ông chứng minh tác hại
của chế độ thuế quan, bảo hộ và sự cần thiết phải từ bỏ nó.
b. C.Mác và Ph.Ăngghen
Hơn 160 năm trước, trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản” và “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” các ông đã chỉ ra rằng đại công nghiệp
đã tạo ra thị trường thế giới. Ph.Ăngghen viết: “Nền đại công nghiệp đã gắn liền tất
cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau, đã thống nhất tất cả các thị trường địa
phương nhỏ bé thành thị trường toàn thế giới, đã chuẩn bị ở khắp nơi cho văn minh

và tiến bộ, đã làm cho tất cả những gì xảy ra trong các nước văn minh đều ảnh
hưởng tới tất cả các nước khác”. Các ông đều cho rằng quốc tế hóa kinh tế là một
trong những đặc trưng của sự phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bản thân
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có sức mạnh nội tại đủ khả năng vượt ra
khỏi biên giới quốc gia, bành trướng ra phạm vi toàn cầu để kiếm lợi nhuận tối đa.
Đồng thời các ông dự báo rằng: trong tương lai chủ nghĩa cộng sản sẽ quốc tế hóa
toàn bộ đời sống của nhân loại.
C.Mác không xây dựng học thuyết riêng về lợi thế so sánh, nhưng trong bộ tư
bản ông đã so sánh mối quan hệ giữa tiền công dân tộc và tiền công quốc tế; giữa
năng suất lao động dân tộc với năng suất lao động quốc tế. Nguyên lý này đã giải


4
thích hết sức tổng quát, chính xác cơ chế xuất hiện lợi ích khi tham gia phân công và
trao đổi quốc tế. Ông cho rằng: những tư bản đầu tư vào ngoại thương có khả năng
đem lại một tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Vì trước hết ở đây người ta cạnh tranh với
những hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện ít thuận lợi hơn, thành thử
nước tiên tiến sẽ bán được hàng hóa của mình cao hơn giá trị của chúng, mặc dù các
nước ấy bán rẻ hơn các nước cạnh tranh với họ. Tỷ suất lợi nhuận tăng lên vì lao
động ở các nước tiên tiến hơn được đánh giá là lao động có tỷ trọng cao hơn. Vì
người lao động đó không được trả công với tư cách là người lao động có chất lượng
cao hơn lại được bán ra với tư cách là lao động như thế. Đối với những nước mà
người ta trở hàng đến bán cũng giống như đối với nước người ta rút hàng ra, đều có
mối quan hệ như vậy. Thực chất của lãi đó chính là biết lợi dụng sự chênh lệch của
tiền công và năng suất lao động của các bên tham gia phân công lao động quốc tế.
c. V.I.Lênin
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”,
Ông đã chỉ ra bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa là sự thống trị của các tổ chức độc quyền, được thể hiện ở 05 đặc điểm kinh
tế nổi bật:

- Tập trung sản xuất và sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.
- Xuất khẩu tư bản.
- Sự phân chia thị trường thế giới của các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia và
đa quốc gia.
- Sự phân chia lãnh thổ thế giới của các cường quốc đế quốc.
Đây chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa
dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại.
Trong quá trình trực tiếp chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
Nga, Lê nin đã tiên đoán rằng: Toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, tinh thần của nhân
loại ngày càng quốc tế hóa ngay cả dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và trong tương lai
chủ nghĩa xã hội sẽ hoàn tàn quốc tế hóa đời sống của nhân loại.
2. Thực chất của toàn cầu hóa kinh tế
a. Thuật ngữ “toàn cầu hóa” và quá trình toàn cầu hóa.


5
* Thuật ngữ “toàn cầu hóa”(Globalisation), nó mới dược xuất hiện và phổ cập vào
những thập niên cuối của thế kỷ XX. Nó được Georg Modelski lần dầu tiên nêu ra vào
năm 1972 trong tác phẩm “Principle of the World Politics” khi nói về liên minh châu
Âu lôi kéo các nước khác vào hệ thống thương mại toàn cầu.
* Quá trình toàn cầu hóa
- Vấn đề toàn cầu hóa đã được dự báo từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời vào thế
kỷ thứ XVI và lúc đó gọi là quá trình “quốc tế hóa”. Quá trình quốc tế hóa được
phát triển mạnh mẽ nhờ sự phát triển về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm lược
thuộc địa, sự phát triển của đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất trên cơ sở áp
dụng những thành tựu khoa học- công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, mở
rộng giao lưu quốc tế. Chính sự phát triển đó đã phá vỡ tính chất cát cứ, biệt lập,
khép kín trong phạm vi quốc gia, đưa đến sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế.
Quá trình quốc tế hóa không ngừng phát triển và được đánh dấu bằng các cột mốc

lớn là: Chiến tranh thế giới thứ Nhất, Chiến tranh thế giới thứ Hai, Thập kỷ 80,
Thập kỷ 90 của thế kỷ XX và giai đoạn gần đây xu thế quốc tế hóa được gọi bằng
cái tên toàn cầu hóa.
b. Khái niệm toàn cầu hóa và toàn cầu hóa kinh tế
* Nhận thức về vấn đề toàn cầu hóa
Có nhiều ý kiến khác nhau về toàn cầu hóa. Vì toàn cầu hóa là vấn đề mới, do
đó hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau, tùy theo góc độ nghiên cứu. Một số học
giả xem toàn cầu hóa, coi nó như một khái niệm chính trị, một công cụ chính trị.
Một số khác lại cố gắng làm sáng tỏ khái niệm toàn cầu hóa trong phạm vi phát triển
kinh tế, toàn cầu hóa không có tính từ. Lại có những người chỉ chủ trương phân tích
tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa. Còn Đảng cộng sản Việt Nam không
cho rằng toàn cầu hóa mọi mặt và cũng không cho rằng toàn cầu hóa về chính trị, cái
mà Đảng ta, những người cộng sản Việt Nam quan tâm là một số vấn đề ngày càng
mang tính toàn cầu, trước hết là lĩnh vực kinh tế, trong đó chủ yếu là vấn đề kinh tếkỹ thuật (lực lượng sản xuất), chứ không phải là vấn đề kinh tế- xã hội (quan hệ sản
xuất).
Tuy nhiên, dù đánh giá, nhìn nhận thế nào, từ góc độ nào thì cuối cùng cũng
đi tới một quan niệm chung nhất cho rằng: Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên
mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau


6
của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng
loạt những biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó có thể phát sinh hàng loạt
những điều kiện mới. Toàn cầu hóa khiến cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt
làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế, kích thích gia
tăng sản xuất không chỉ ở cường độ quốc gia mà mở rộng ra trên phạm vi toàn thế
giới.
* Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế
Hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về toàn cầu hóa kinh tế. Các
nhà kinh tế học phương tây cho rằng: Toàn cầu hóa kinh tế là sự vận động tự

do của các yếu tố sản xuất nhằm phân phối tối ưu các nguồn lực. Quỹ tiền tệ
Quốc tế (IMF) cho rằng: Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng không ngừng
nguồn vốn, kỹ thuật, mậu dịch với quy mô, hình thức phong phú, tăng sự phụ
thuộc của các nền kinh tế thế giới. Các học giả khác lại cho rằng: Toàn cầu hóa
kinh tế là một cuộc chơi; ở đó ai khôn ngoan, lanh lợi sẽ được nhiều hơn mất,
ai dại khờ thì mất nhiều hơn được; không ai mất hết hoặc được hết, chỉ có
trường hợp chắc chắn mất hết là đóng cửa không tham gia vào quá trình toàn
cầu hóa. Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: thực chất của toàn cầu hóa
kinh tế là quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế, các
quan hệ kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc lan tỏa ra phạm vi
toàn cầu, trong đó hàng hóa, dịch vụ, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động... vận
động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ
kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen, tùy thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế khách quan, lôi kéo ngày càng nhiều nước tam gia, xu thế
này đang bị các nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi
phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫm, vừa có tích cực, vừa có tiêu cực, vừa có
hợp tác, vừa có đấu tranh.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt toàn cầu hóa, toàn cầu hóa kinh tế với các
khái niệm “quan hệ kinh tế quốc tế”, “quốc tế hóa đời sống kinh tế”. Các khái
niệm này chỉ các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, các nhóm quốc gia và sự
mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia ra khu vực và trên thế
giới. Còn toàn cầu hóa, toàn cầu hóa kinh tế lại được coi là rộng hơn quan niệm
quốc tế hóa đời sống kinh tế. Trong những năm 80 của thế kỷ XX, người ta
dùng khái niệm “những vấn đề toàn cầu” để chỉ những vấn đề vượt ra khỏi


7
phạm vi quốc gia, đòi hỏi phải có sự nỗ lực hợp tác của nhiều nước để giải
quyết các vấn đề như: Dân số, môi trường, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, các
căn bệnh hiểm nghèo... Từ đó mà xuất hiện một số quan niệm hết sức sai lầm

coi vấn đề toàn cầu quan trọng hơn vấn đề dân tộc, đấu tranh giai cấp. Tư duy
chính trị kiểu này thực chất là từ bỏ vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp và đó
cũng là một trong những căn nguyên góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở
Đông Âu và Liên Xô cũ.
Toàn cầu hóa kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hóa đời sống
kinh tế. Quốc tế hóa đời sống kinh tế gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp thì
toàn cầu hóa gắn liền với những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa họccông nghệ hiện đại. Toàn cầu hóa cũng khác với vấn đề toàn cầu. Nó diễn tả một
quá trình làm giảm bớt sự khác biệt giữa các quốc gia, cốt lõi của toàn cầu hóa là
toàn cầu hóa kinh tế. Từ lĩnh vực kinh tế, với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền
thông hiện đại, toàn cầu hóa lan đến các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội.....đem
đến cho các quốc gia trên thế giới cả những điều tốt và điều xấu như các tệ nạn ma
túy, mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em... Cần phải lưu ý một vấn đề là: Toàn cầu
hóa của ai và vì ai? Toàn cầu hóa dưới góc nhìn của giai cấp vô sản hay giai cấp tư
sản. của các nước tư bản phát triển hay các nước đang phát triển. Rõ ràng có hai tư
tưởng đối lập nhau về toàn cầu hóa và từ đó trong thế giới ngày nay có hai cách
hành xử đối lập nhau trước xu thế toàn cầu hóa. Theo quan điểm của C.Mác: xã hội
hóa hay rộng hơn là quốc tế hóa là một trong những biểu hiện của quá trình phát
triển lịch sử tự nhiên của xã hội loài người tiến tới chủ nghĩa cộng sản, một thế giới
đại đồng cả về kinh tế lẫn văn hóa của những người lao động tự do và phát triển
toàn diện. Dự báo về xã hội tương lai (thế giới đại đồng) của C.Mác có cơ sở vật
chất thực tiễn từ chính bản chất tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất
sẽ dẫn tới xã hội hóa sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Những vấn đề lý luận này
C.Mác đã trình bày trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và trong bộ
“Tư bản”. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã đưa lý luận này vào thực tiễn
thành lập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Lý luận toàn cầu hóa kinh tế của giai cấp tư
sản chính là lý luận kinh tế của “Chủ nghĩa tự do mới” với khẩu hiệu: Tự do hóa
thương mại toàn cầu, tự do đầu tư, tự do luân chuyển vốn trên thị trường tài chính
toàn cầu. Hiện nay, cùng với việc tuyên truyền lý thuyết tự do kinh tế, các nước tư
bản chủ nghĩa đang tìm mọi cách sử dụng các thể chế kinh tế quốc tế để thực hiện
một thứ chủ nghĩa thực dân kiểu mới tinh vi hơn, hoàn hảo hơn lên các nước đang



8
phát triển đó là: “Chủ nghĩa thực dân thương mại”, “Chủ nghĩa thực dân thông
tin”, “Chủ nghĩa thực dân công nghệ”, “Chủ nghĩa thực dân văn hóa”. Vì vậy, hiểu
rõ thực chất của toàn cầu hóa, nhận thức đầy đủ về nó là một việc hệ trọng cả về lý
luận và thực tiễn. Do đó, toàn cầu hóa dù xét nó dưới nhãn quan gì, ở góc độ nào?
cũng bao hàm sự khác biệt về lợi ích của các chủ thể tham gia; lợi ích của giai cấp
này với giai cấp khác, của dân tộc này với dân tộc khác, của khu vực này với khu
vực khác. Tính không thuần nhất về lợi ích đó đang buộc các quốc gia phải chủ
động tham gia và có cách ứng xử thích hợp để tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ,
thách thức do toàn cầu hóa mạng lại.
3. Các nhân tố làm nảy sinh và thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế nảy sinh do những nhân tố sau đây tác động:
Một là, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy cùng với sự phát triển của phân công lao động
là sự ra đời của sản xuất hàng hóa, nó đã xuyên thủng vòng tuần hoàn khép kín của
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Kinh tế hàng hóa đã rỡ bỏ tính chất cát cứ của vùng
miền trong từng quốc gia, dân tộc đến một mức độ nhất định vượt ra khỏi biên giới
quốc gia. Các quan hệ thương mại giữa các nước được khởi động và ngày càng phát
triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Việc hình thành các con đường tơ
lụa từ Trung Quốc xuyên qua vùng Trung A đến Trung Cận Đông, việc giao lưu buôn
bán giữa Châu Âu và Châu A đã chứng minh điều đó. Đến khi chủ nghĩa tư bản ra
đời, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp và cùng với việc đưa quân đội viễn
chinh đi xâm chiếm, cướp bóc thuộc địa đã đẩy nhanh tốc giao lưu hàng hóa trên thế
giới. Với đà phát triển của chủ nghĩa tư bản, thương mại toàn cầu ngày càng được mở
rộng. Xu thế này đã được C.Mác dự báo cách đây hơn 160 năm, trong tác phẩm:
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Ông đã khẳng định: Đại công nghiệp đã tạo ra thị
trường thế giới và do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất
và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới. Thực tiễn đã chứng minh từ

những năm 1950 của thế kỷ XX trở lại đây thương mại thế giới đã tăng lên rất nhanh.
Nếu 1950 giá trị xuất khẩu của thế giới đạt 69,7 tỷ USD thì đến năm 1990 con số này
đã đạt con số 4000 tỷ USD, năm 2000 là 7360 tỷ USD và hiện nay đã đạt tới con số
gần 20.000 tỷ USD.
Cùng với sự phát triển của thương mại thế giới là sự mở rộng cơ cấu thị
trường quốc tế, thị trường tài chính ngày càng có vai trò quan trọng tạo ra một nền


9
kinh tế ảo mà những biến động của nó tác động trực tiếp đến nền kinh tế toàn cầu.
Hiện nay, mức giao dịch ngoại hối và luân chuyển vốn trên thị trường chứng khoán
toàn cầu đạt khoảng 375.000 tỷ USD/ngày. Đầu tư trực tiếp vào các nước đang
phát triển đạt 200 đến 250 tỷ USD/năm.
Hai là, sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Vào thế kỷ thứ XV- XVI sự phát triển của các phương tiện hàng hải đã tìm ra
những châu lục mới, giúp cho hàng hóa từ Châu Âu vượt đại dương sang Châu A,
Châu Phi, Châu Mỹ. Sự ra đời của động cơ hơi nước, sự phát triển của công nghệ
luyện kim tạo ra hệ thống đường sắt, sự ra đời của xe hơi, tàu thủy chạy bằng động
cơ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của điện tín, điện thoại, của máy bay
vào đầu thế kỷ XXđẫ làm cho nền sản xuất vật chất có điều kiện vượt biên giới
quốc gia và khu vực. Đặc biệt là sự phát triển của cuộc cách mạng khoa hoc- công
nghệ hiện đại trong nửa cuối thế kỷ XX, nhất là công nghệ thông tin, hệ thống
Internet bao trùm toàn cầu làm cho quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Ba là, phân công lao động xã hội và nền sản xuất vật chất phát triển.
Cùng với sự phát triển của khoa học- công nghệ và thị trường, một sản phẩm
sản xuất ra với sự đóng góp của nhiều công ty trên thế giới như:Một chiếc ô tô
Ford Mỹ sử dụng sản phẩm của 162 công ty đặt ở nhiều nước và khu vực khác
nhau trên thế giới.Sự phân công lao động quốc tế và mạng lưới sản xuất toàn cầu
đã làm tăng thêm tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các công ty ở nhiều quốc gia khác
nhau trên thế giới.

Bốn là, sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
Bàng việc thiết lập hệ thống các công ty con, cháu, chắt ở nhiều quốc gia, các
công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch chuyển
vốn... liên kết các quốc gia với nhau trong các hoạt động kinh tế. Hiện nay trên thế
giới có 60.000 công ty xuyên quốc gia, chiếm 25% giá trị sản xuất toàn cầu, 65%
kim ngạch mậu dịch quốc tế, 70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ cao.
Năm là, sự ra đời và vai trò ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế quốc tế,
hình thành các thể chế toàn cầu và khu vực.
Sự ra đời của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO); Liên minh Châu Âu (EU);
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu A Thái Bình Dương (APEC), Khu vực Mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA); Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Quỹ tiền tệ Quốc


10
tế (IMF); Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng Châu A (ADB)... Xu thế toàn cầu
hóa kinh tế được thể chế hóa trong nhiều định chế quốc tế và phát triển mạnh cả về
chiều rộng và chiều sâu, thông qua nhiều hoạt động của nhiều tổ chức tài chính,
thương mại quốc tế và khu vực. Nó có tác dụng đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa
không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ tài
chính, đầu tư, lan sang lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường.
4. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến Việt Nam
a. Các quan niệm khác nhau về tác động có tính hai mặt của toàn cầu hóa
kinh tế.
Do toàn cầu hóa kinh tế mang tính mặt vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu
cực đã làm tổn thương nền kinh tế nhỏ yếu của các nước đang phát triển nên có
nhiều quan điểm khác nhau về tác động của toàn cầu hóa đối với các nước này.
Một số người cho rằng với các nước đang phát triển thì toàn cầu hóa kinh tế
đem lại thách thức tối đa, lợi ích tối thiểu. Quan điểm khác lại xem cả lợi ích và
thách thức là tương đối lớn. Nhiều nguyên thủ quốc gia các nước đang phát triển
cảnh báo nguy cơ đe dọa độc lập chủ quyền các nước này từ tác động của toàn cầu

hóa kinh tế.
Trên quan điểm Mác- xít khi xem xét tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến
sự phát triển của các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng không
nên tuyệt đối hóa mặt tích cực hoặc tiêu cực mà phải thấy rằng cả cơ hội và thách
thức đều rất lớn. Vấn đề quan trọng là mỗi nước có tranh thủ lấy cơ hội được hay
không? Bởi cơ hội và thách thức có thể chuyển hóa cho nhau.
b. Những tác động tích cực của toàn cầu hóa đối với Việt Nam
* Thứ nhất, Mở rộng thị trường
Nước ta có quy mô dân số khoảng 86 triệu người. Thu nhập bình quân đầu
người năm 2006 khoảng 729 USD, năm 2008 ước đạt 1030 USD ( tiêu chí
chung nước nghèo kém phát triển có thu nhập bình quân đầu người là dưới 960
USD/năm). Như vậy, dù đứng thứ 13 trên thế giới về dân số đông, nhưng dung
lượng thị trường nội địa đối với nước ta thực tế là nhỏ do thu nhập của dân cư
thấp. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Là
thành viên của AFTA, hàng hóa của Việt Nam có thể vào thị trường các nước
ASEAN với số dân trên 500 triệu người. Là thành viên thứ 150 của WTO, Việt


11
Nam sẽ được hưởng ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với các nước
thành viên còn lại. Theo sự thỏa thuận chung bắt đầu từ năm 2020, hàng rào
thuế quan của các nước thuộc diễn đàn hợp tác kinh tế Châu A- Thái Bình
Dương (hiện có 21 nước thành viên) sẽ được rỡ bỏ, hàng hóa Việt Nam có thể
dễ dàng vào các nước thành viên APEC. Tuy nhiên, hàng hóa Việt Nam bán
được hay không lại tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh, chất lượng, mẫu mã, giá
cả, khả năng tiếp thị...
* Thứ hai, Tăng khả năng thu hút các nguồn vốn, khả năng mở rộng thị
trường sẽ quyết định khả năng mở rộng đầu tư.
Việc mở rộng thị trường bên ngoài và thị trường nội địa là một trong những
yếu tố hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư. Lợi thế về thị trường do toàn cầu hóa

mang lại sẽ kéo theo lợi thế về thu hút đầu tư nước ngoài và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào nước ta qua đó sẽ thúc đẩy việc sử dụng các nguồn vốn trong nước
có hiệu quả. Vốn FDI đầu tư của nước ngoài vào nước ta năm 2006 là13,5 tỷ USD,
năm 2007 là 20,3 tỷ USD, năm 2008 là 64 tỷ USD. Năm 2007, các nhà tài trợ cam
kết cho Việt Nam vay 5,7 tỷ USD.
* Thứ ba, tạo cơ hội để Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ mới của thế
giới.
Toàn cầu hóa kinh tế làm cho thành tựu khoa học- công nghệ được
chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi, qua đó các nước đi sau có thể
dễ dàng tiếp cận với chúng để phát triển. Nước ta có điều kiện để lựa chọn
công nghệ ngoại sinh phù hợp nhằn nâng cao mặt bằng công nghệ quốc gia;
đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; thực hiện tốt hơn một trong những
nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đổi mới, nâng cao trình
độ công nghệ của nền sản xuất xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng lao động với công nghệ tiên tiến, hiện đại.
* Thứ tư, Thúc đẩy nhanh các bước điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước
nhằm phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nước, khai thác và phát huy
được các lợi thế so sánh của nước ta, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nói cách khác là khai thông sự giao lưu các nguồn lực giữa nước ta và thế
giới.


12
Trong các nguồn lực để phát triển, nguồn nhân lực (con người và trí tuệ) ngày
càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, tuy tỷ lệ có
văn hóa phổ thông cao hơn cả Thái Lan và Trung quốc nhưng đào tạo tay nghề
chuyên môn kỹ thuật lại kém. Đào tạo đại học thì nặng về lý thuyết, nhẹ về thực
hành. Sự hiểu biết về thị trường và nghiệp vụ kinh doanh thấp... dẫn đến lao động
phổ thông và tỷ lệ lao động thất nghiệp khá cao; thiếu lao động kỹ thuật và các
chuyên gia đầu ngành. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp Việt Nam khai thông

nguồn lực. Chúng ta có thể xuất khẩu lao động sang các nước, có thể sử dụng lao
động trong nước thông qua hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu, chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng phát huy lợi thế so sánh... Đồng thời, nước ta có thể nhập
khẩu các loại lao động kỹ thuật, chuyên gia ở các ngành, các lĩnh vực mà nước ta
chưa có hoặc còn thiếu.
* Thứ năm, Tạo thế đan cài lợi ích giữa các nước- điều kiện để duy trì sự ổn
định cho phát triển của mỗi nước, cho phép các nước đang phát triển như nước ta
lợi dụng cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế để bảo vệ lợi ích của mình, tránh
bị phân biệt đối xử.
Về mặt chính trị, quốc phòng, an ninh, quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo
ra thế đan cài lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau, có lợi cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền, cho hòa bình, hợp tác và phát triển. Ngay cả các nước phát triển cũng tùy
thuộc đáng kể vào các nước đang phát triển, Do lợi ích của các nước phát triển, của
ba trung tâm kinh tế Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản không phải lúc nào cũng thống nhất nên
các nước đang phát triển có thể lợi dụng sự chế ước lẫn nhau giữa các nước này
trong quan hệ đa phương để duy trì hòa bình, chủ quyền quốc gia dân tộc. Tuy nhiên
các cơ hội tích cực trên lại luôn tồn tại đan xen với các thách thức. Do vậy, mỗi nước
có khai thác được cơ hội thuận lợi nhiều hay ít lại tùy thuộc rất quyết định vào sự nỗ
lực chủ quan của mỗi nước trong xây dựng chiến lược quốc phòng của mình phù
hợp với bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hay không?
c. Những tác động tiêu cực (thách thức) của toàn cầu hóa đến Việt Nam
* Thứ nhất, Sức ép của những biến động kinh tế thế giới sẽ gây áp lực ngày
càng lớn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam do tính tùy thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia tăng lên trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế hay nói cách khác là
nền kinh tế toàn cầu hóa là nền kinh tế dễ bị tổn thương.


13
Thực tế đã chứng tỏ, bất kỳ có một sự trục trặc nào ở một khâu hay ở một
quốc gia nào đó cũng có thể lan rộng và nhanh ra toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài

cính tiền tệ ở Thái Lan tháng 8 năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế
giới bắt đầu bùng phát từ cuộc khủng hoảng cho vay để đầu tư vào thị trường bất
động sản Mỹ cuối năm 2007 đầu năm 2008; cuộc khủng hoảng năng lượng do cuộc
chiến tranh ở Nam Tư, I Rắc ...đã cho thấy rõ điều đó. Năm 2009 bị tác động bởi
cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm
lại, để kích cầu đầu tư nhà nước phải chi 1 tỷ USD; những nền kinh tế lớn phải chi
vài trăn tỷ đến cả 1000Tỷ USD (Mỹ phải chi tới 830tỷ USD) để cứu vãn nền kinh
tế.
* Thứ hai, nguy cơ thôn tính do cạnh tranh không cân sức với các công ty
khổng lồ của các nước phát triển cũng tăng lên.
Tự do hóa thương mại đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp
phát triển. Vì các sản phẩm của họ chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp
do đó có sức cạnh tranh cao, dễ chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, các nước
ngày càng áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (áp dụng hạn ngạch)
hoặc trá hìng như tiêu chuẩn lao động, môi trường, an sinh xã hội ...), hoặc các
rào cản về kỹ thuật (quy cách, mẫu mã, dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ
thực vật trong các sản phẩm chế biến của nông nghiệp...). Cấm chuyển giao
những thành tựu công nghệ mới, họ dùng chiêu bài “sở hữu công nghiệp, sở
hữu trí tuệ” để ngăn cản các nước nghèo tiếp cận công nghệ mới, công nghệ
tiên tiến. Ngày nay thị trường đang thực sự trở thành chiến trường, trong khi
đó tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn quá mỏng, chất lượng lao động, trình độ
công nghệ, năng lực quản lý còn non kém...và những điều đó đã dẫn đến sức
cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp. Sự thua thiệt trên thị trường là
điều chúng ta phải hết sức quan tâm nhất là khi chúng ta đã là thành viên của
WTO.
Một lĩnh vực của toàn cầu hóa kinh tế là toàn cầu hóa thị trường tài chính,
một lọai thị trường còn mới mẻ với Việt Nam và chúng ta chưa có nhiều kinh
nghiệm, đặc biệt là thị trường chứng khoán, ở đó buôn bán các tư bản giả. Đây
cũng là một thách thức với nước ta khi tham gia thị trường này.



14
* Thứ ba, lợi dụng toàn cầu hóa kinh tế, các nước đế quốc đứng đầu là Mỹ sẽ
luôn lợi dụng sự bất ổn đó về kinh tế để can thiệp, thực hiện chiến lược “can dự”,
áp dụng các hình thức chủ nghĩa thực dân kinh tế để khuất phục các nước theo kiểu
Mỹ; thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại; bản sắc
văn hóa của dân tộc dễ bị đe dọa.
II. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ ở Việt Nam
1. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở cửa nền kinh tế nhằm kết hợp
các nguồn lực trong nước với ngoài nước để phát triển và chiếm lĩnh vị trí
phù hợp nhất có thể có được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đó là quá trình
thực hiện những điều chỉnh về chính sách, luật lệ trong nước cho thích hợp
với tình hình và thông lệ quốc tế; đồng thời thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của mình
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Nói cách khác hội nhập kinh tế quốc tế là quá
trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học- công nghệ giữa các nước trên
quy mô toàn cầu; là quá trình tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội
có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường sống... là quá trình loại bỏ các hàng rào trong thương mại quốc tế,
thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều hình thức và mức độ khác nhau về hội nhập
kinh tế quốc tế như: Hiệp hội thương mại, liêm minh thuế quan, thị trường chung,
liên minh tiền tệ.
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách
quan, xuất phát từ các lý do sau đây:
* Thứ nhất, Xuất phát từ chính tính khách quan của xu thế toàn cầu hóa kinh
tế, một xu thế lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia mà nước ta không thể đứng
ngoài cuộc. Bản thân xu thế toàn cầu hóa không chỉ có mặt tiêu cực, nó có cả

những mặt tích cực mà các nước có thể khai thác để củng cố nền độc lập tự chủ
của mình. Vì vậy nếu biết tận dụng cơ hội toàn cầu hóa kinh tế thì hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ đem lại cho mỗi nước một sức mạnh mới.


15
* thứ hai, Xuất phát từ nhận thức mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Theo đó nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là nền kinh tế đóng cửa khép
kín ngược lại đó phải là nền kinh tế có quan hệ rộng mở với tất cả các nước trong
công đồng thế giới.
* Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp
hiện nay.
Trong điều kiện các nước tư bản phát triển đang chi phối quá trình toàn cầu hóa
thì đối với các nước đang phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế phải được coi là một bộ
phận của cuộc đấu tranh vì độc lập chủ quyền của đất nước.
Đối với Việt Nam đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đó là
cuộc đấu tranh vừa mang sắc thái của cuộc đấu tranh dân tộc, vừa mang sắc thái
của cuộc đấu tranh giai cấp vì chủ nghĩa xã hội. Bởi bên cạnh những thuận lợi lớn
như có nhiều cơ hội để tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ, thị trường...của thế
giới đẩy nhanh phát triển kinh tế trong nước, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang
lại cho nước ta nhiều thách thức gay gắt. Nổi bật là:
- Chúng ta cam kết thực hiện những quy định nhiều khi rất khắt khe trong các
quan hệ song phương và đa phương. Đáng chú ý là Mỹ và các cường quốc tư bản
phương Tây đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và quân sự của mình để chi phối các tổ
chức kinh tế tài chính toàn cầu như IMF, WB, WTO, đề ra những luật chơi mang
tính áp đặt ép buộc các nước nghèo, thách thức độc lập chủ quyền của các nước
đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, nếu không chủ động hội nhập với những
lộ trình hợp lý, phù hợp với sự chuẩn bị trong nước thì sẽ phải trả giá đắt về kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
- Chúng ta phải chấp nhận những bất chắc khó lường ngày càng nhiều của nền

kinh tế thế giới. Những bất chắc ấy cũng dễ làm nảy sinh những phức tạp mới về
quốc phòng, an ninh của nước ta.
- Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh trên phạm vi quốc tế. Với một nền kinh tế
còn nhỏ yếu, sức cạnh tranh thấp như nước ta, nếu lộ trình hội nhập không tạo đủ thời
gian và khả năng cho các doanh nghiệp trong nước thích ứng thì nguy cơ các doanh
nghiệp này dễ bị phá sản, bị thôn tính sẽ ngày càng nhiều.
Điều đó dễ dẫn đến những bất ổn về chính trị, an ninh quốc gia.


16
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù
địch thâm nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” trên các lĩnh vực, nếu chúng ta
chủ quan thiếu các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Trong thực tế Mỹ và các thế
lực thù địch đã tận dụng triệt để quá trình toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện chiến
lược chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế Đảng ta chủ trương chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế chứ không chấp nhận bất cứ giá nào.
2. Quá trình hình thành các chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, bước
đi, kết quả và những tồn tại yếu kém cần khắc phúc.
a. Quá trình hình thành chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Ngay sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, chúng ta đã
chủ trương tham gia vào Hội đồng tương trợ kinh tế, tích cực tham gia vào
Phong trào không liên kết, nhóm 77, Liên hợp quốc... mà một trong những
nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới mới công bằng.
Bên cạch sự hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã
thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ
nghĩa mặc dù họ còn thực hiện chính sách thù địch, bao vây, cấm vận với Việt
Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được thực
hiện tích cực hơn. Đại hội VI (12/86) chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới, xây
dựng nền kinh tế thị trường mở cửa. Việc triển khai Nghị quyết VI diễn ra trong bối

cảnh tình hình Đông Âu, Liên Xô xấu đi. Đến năm 1990, 1991 thì hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới thoái trào, Hội đồng đồng tương trợ kinh tế bị giải thể. Các Nghị quyết
13 (5/88) của Bộ chính trị, Nghị quyết 8A (3/90) của BCHTW đã phân tích sâu sắc
tình hình thế giới, đề ra các chủ trương, giải pháp để đẩy lùi chính sách bao vây kinh
tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Với tinh thần
đó tháng 12/87, chúng ta đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài với những quy định
thông thoáng.
Đại hội VII (6/91), sáu tháng trước khi Liên Xô tan rã, đã thông qua cương
lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000; đồng thời đưa ra
đường lối đối ngoại rộng mở với tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nghị
quyết Trung ương 3 Khóa VII về Chính sách đối ngoại và kinh tế dối ngoại đã đưa


17
ra nguyên tắc: “Giữ vững độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải
rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với
từng đối tượng mà nước ta có quan hệ”. Đồng thời Nghị quyết nêu ra 4 phương
châm: Bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; nắm vững hai
mặt vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực,
đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội VIII (9/96) chủ trương xây dựng nền kinh tế mở; đẩy nhanh quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII nêu
nhiệm vụ: Tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới, tiến hành
khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập
APEC, WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ
AFTA...

Đại hội IX (4/2001), Đại hội tiếp tục khảng định chủ trương của các đại hội
trước: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong công đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình và phát
triển”. “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Tháng 11/2001, Bộ chính trị ra Nghị
quyết số 07/NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể hóa hơn nữa đường lối Đại
hội IX đã vạch ra. Nghị quyết đánh giá tình hình thực hiện chủ trương hội nhập
kinh tế quốc tế, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và vạch ra những nhiệm vụ
cụ thể về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội X (4/2006), Đại hội tiếp tục khẳng định và có bước bổ sung, phát triển
thêm đường lối đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là: “Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực khác. Việt


18
Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong công đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Tháng 7/11/2006 Việt Nam được kết nạp vào WTO. 1/1/2007 trở thành
thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức này. ngày 5/2/2007, Hội nghị Trung
ương 4 khóa X đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính
sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Trên cơ sở đánh giá cơ hội và thách
thức, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điển chỉ đạo và 10 chủ trương, chính sách lớn
trong đó có công tác tư tưởng, cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính; nâng cao
khả năng cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm; bổ sung các nguồn

lực, tăng cường chỉ đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết các vấn
đề xã hội nảy sinh; giữ bản sắc văn hóa, bảo vệ mội trường; giữ vững và tăng
cường quốc phòng, an ninh quốc gia; hoàn thiện các thiết chế dân chủ, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng.
b. Các bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới.
Năm 1993, ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế
như: IMF, WB, ADB. Trong quan hệ với các tổ chức này chúng ta chỉ chấp nhận sự
hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không trái với đường lối, chính sách của ta.
Ngày 25/7/1995, nước ta gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) và từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực hiện các
nghĩa vụ và các cam kết trong trương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) của AFTA. Theo quy định của CEPT ta có nghĩa vụ giảm thuế nhập khẩu
xuống còn 0- 5% vào năm 2006; năm 2001, sáu nước thành viên cũ sẽ thực hiện
toàn bộ các mặt hàng có thuế xuất bằng 0% và Việt Nam là năm 2010. Ngoài ra
chúng ta còn tham gia các chương trình hợp tác công nghiệp (AICO), khu vực đầu
tư ASEAN (CAIA) và các chương trình hợp tác khác của ASEAN.
Tháng 3/96, nước ta tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế A - Âu (ASEM) nhằm
thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp A- Âu, cam
kết về tự do hóa thương mại và đầu tư chưa được nêu ra.


19
Tháng 11/98, Việt Nam gia nhập APEC và trở thành thành viên đầy đủ của tổ
chức này vào năm 2020; tháng 10/2006 Việt Nam tổ chức thành công Hội ngị cấp
cao APEC tại Hà Nội, có 21 nước thành viên tham dự.
Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn gia nhập WTO. Để gia nhập tổ chức này
chúng ta phải đàm phán cả đa phương và song phương với các nước thành viên.
Từ ngày 16/9/1996 đến 13/7/2000 trải qua 10 vòng đàm phán, Hiệp định

Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã được ký kết. Ngày 10/2/2001, hiệp định bắt đầu
có hiệu lực. Việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ mở ra một thời
kỳ mới bình thường hóa quan hệ thương mại giữa hai nước.
7/11/2006 sau nhiều lần đàm phám cả song phương và đa phương, thời gian
12 năm liên tục, Việt Nam được kết nạp vào WTO và trở thành thành viên chính
thức của tổ chức này vào 1/1/2007. Là thành viên của WTO, Việt Nam phải thực
hiện các cam kết sau:
- Các cam kết đa phương: Là các cam kết chung, mang tính nguyên tắc về
thực hiện các quy định của WTO. Việt Nam cam kết trên 30 nhóm vấn đề:
+ Kinh tế phi thị trường, Việt Nam chấp nhận kinh tế phi thị trường trong 12
năm (chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá) nhưng không muộn hơn
31/12/2018.
+ Dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may
đối với Việt Nam.
+ Trợ cấp phi nông nghiệp: Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị
cấm theo quy định của WTO như trợ cấp xuất khẩu, trợ cấp nội địa hóa.
+ Trợ cấp nông nghiệp: Việt Nam sẽ không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với
nông sản, tuy nhiên được bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng với các
nước đang phát triển trong lĩnh vực này như trợ cấp nhằm giảm chi phí xuất khẩu
sản phẩm nông nghiệp.
+ Quyền kinh doanh (quyền xuất- nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng ý cho
các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hóa như doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam.
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia.
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, minh bạch hóa và một số nội dung
khác...


20
- Các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa: Việt Nam đồng ý ràng buộc

mức trần cho toàn bộ biểu thuế 10.600 dòng. Mức thuế bình quân toàn biểu được
giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trong 5-7 năm. Mức
thuế bình quân đối với hàng nông sản từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%
thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp mức giảm từ 16,8% xuống
còn 12,6% thực hiện trong thời gian từ 5-7 năm. Có khoảng 1/3 số dòng của biểu
thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế xuất trên 20% và cam kết cắt
giảm thuế theo một số hiệp định tự do hóa theo ngành như sản phẩm công nghệ
thông tin, dệt may, thiết bị y tế. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch với
đường, trứng gia cầm, thuốc lá điếu và muối.
- Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ: bao gồm các cam kết chung (cam
kết nền) và các cam kết cụ thể.Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ và nếu phân
theo phân ngành khoảng 110 phân ngành ( sẽ đề cập cụ thể hơn ở phần nội dung
hội nhập kinh tế quốc tế).
c. Một số kết quả đạt được và những tồn tại yếu kém cần khắc phục trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Kết quả đạt được
Như trên đã phân tích, thời gian hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chưa
dài, chúng ta còn rất ít kinh nghiệm nhưng bước đầu đã đạt được những thành tựu
đáng khích lệ:
- Chúng ta đã phá được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại tạo dựng môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Khắc phục được tình trạng hẫng hụt về thị trường do hệ thống xã hội chủ
nghĩa thoái trào và không để bị cuốn vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực (1997-1998) và thế giới (2008-2009); mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Hiện nay, nước ta đã thiết lập được quan hệ thưong mại với 170 nước và
vùng lãnh thổ. Năm 1990, xuất khẩu 2,404 tỷ USD, năm 2000 đạt gần 15 tỷ USD,
hiện nay đạt hơn 60 tỷ USD (năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD tăng 29,5% so với năm
2007). Nhờ mở rộng thị trường xuất khẩu đã tạo thêm được công ăn việc làm, mở
mang được các ngành nghề mới.

- Thu hút được nguồn vố lớn đầu tư nước ngoài vào nước ta


21
Vốn FDI, tính đến hết năm 2001, đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều
tập đoàn và công ty đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với 3265 dự án được cấp giấy
phép, vốn đăng ký là 38,6 tỷ USD và đã thực hiện được 18 tỷ USD. Nguồn vốn
này chiếm 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp 13,3% GDP, 6-7% thu ngân
sách, chiếm 35% sản lượng công nghiệp và 23% kim ngạch xuất khẩu; thu hút 30
vạn lao động trực tiếp và gián tiếp. Đến năm 2007, thu hút được 20,3 tỷ USD tăng
70% so với 2006. Năm 2008, thu hút được 64 tỷ USD trong đó có 3,7 tỷ USD vốn
đăng ký thêm và 60,3 Tỷ USD vốn đăng ký mới, tăng gấp 3 lần so với năm 2007;
vốn thực hiện là 11,5 tỷ, tăng 43,2% so với năm 2007.
Nguồn viện trợ ODA ngày càng lớn, làm giảm đáng kể nợ nươc ngoài.
Năm 2004 thu hút ODA là 3,4 tỷ USD, kiều hối 3,0 tỷ USD; năm 2006, OAD
đạt 4,45 tỷ USD tăng 13% so với năm 2005, kiều hối đạt 4,7 tỷ USD; năm 2007,
ODA đạt 5,4 tỷ USD, tăng 20% so với 2006, kiều hối thu hút 10 tỷ USD.
- Tiếp thu khoa học- công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo cán bộ
quản lý và kinh doanh.
- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo ra tư duy làm ăn mới, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
- Kết hợp nội lực với ngoại lực hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến
đến những thành tựu kinh tế- xã hội lớn. Tiếp tục giữ vững độc lập, tự chủ, an ninh
quốc gia, định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hóa dân tộc.
* Một số yếu kém, tồn tại cần khắc phục.
- Chưa làm tốt công tác chuẩn bị cho hội nhập
Tuy chủ trương đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết và đã được thực
hiện từng bước nhưng nhận thức hội nhập chưa đạt được sự nhất trí làm ảnh hưởng

tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực hiện. Công tác nghiên cứu triển
khai chậm, dường như hội nhập là công việc của Trung ương, còn các ngành, các
cấp có đặt ra nhưng còn rất yếu và không đồng bộ, làm yếu đi sức mạnh của Việt
Nam trong hội nhập.
- Luật pháp, chính sách quản lý thương mại chưa hoàn chỉnh.


22
- Doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh
tranh; quy mô nhỏ, yếu cả về công nghệ và quản lý; chưa rũ bỏ được thói quen bao
cấp. Nhà nước chưa có cơ chế có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn
sự tồn tại và phát triển của mình với khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc
tế.
- Đội ngũ cán bộ yếu, công tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp, đặc biệt là cán
bộ làm công tác hợp tác quốc tế.
3. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung, hình thức và biện pháp hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
a. Mục tiêu
Theo tinh thần Nghị quyết 07/NQ-TW, Bộ Chính trị Ngày 7/11/2001: Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công
nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, trước mắt thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội năm 2001- 2010.
b. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
* Một là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tố đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường.
* Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình

hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
* Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong xử lý hai mặt của hội nhập, tùy theo đối tượng, vấn đề,
trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa
phải chống tư tưởng giản đơn, nóng vội.
* Bốn là, nhận thức đầy đủ đặc điểm kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và
lộ trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các
quy định của các tổ chức quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ các ưu đãi dành


23
cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập
trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
* Năm là, kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ
vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc
gia. Nhằm củng cố chủ quyền an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông
qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” với nước ta.
c. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế.
Nói đến hội nhập kinh tế quốc tế là nói đến việc tham gia vào các tổ chức
kinh tế khu vực và thế giới, nhất là Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Nội dung
hội nhập kinh tế quốc tế chính là thực hiện các cam kết và tiến trình hội nhập vào
các định chế kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nội dung chủ yếu trong các
quy định, định chế của một số tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như sau:
* Thứ nhất, Nội dung chủ yếu trong các quy định của WTO.
- Về trao đổi thương mại: Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan
bao gồm các hạn chế định lượng như quota, chế độ giấy phép xuất- nhập khẩu
thay vào đó là thuế (trừ những lĩnh vực liên quan đến QP, AN, trật tự an toàn
xã hội, đạo đức và truyền thống dân tộc). Các tiêu chuẩn dịch tễ, tiêu chuẩn kỹ

thuật được áp dụng trên cơ sở khoa học và công bằng, không được lạm dụng
để cản trở thương mại. Toàn bộ biểu thuế nhập khẩu được ràng buộc ở mức
hiện hành và giảm dần theo lịch trình thực hiện. Công nhận quyền kinh doanh
của các chủ thể kinh tế nước ngoài trên lãnh thổ nước mình và được bình đẳng
trước pháp luật.
- Về dịch vụ: WTO quy ước 12 lĩnh vực và 155 tiểu ngành các nước mở
cửa thị trường cho nhau với tất cả bốn phương thức cung cấp dịch vụ, như
cung cấp qua biên giới; xử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ; hiện diện thương mại
thông qua liên doanh, chi nhánh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài; hiện diện
thể nhân nước ngoài.
- Về đầu tư: WTO quy ước các nước cam kết không áp dụng đối với đầu tư
nước ngoài các yêu cầu nội địa hóa, về cân bằng xuất- nhập khẩu và hạn chế tiếp
cận nguồn ngoại tệ.
* Thứ hai, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)


24
Các nước thành viên cũ (6 nước) giảm thuế quan xuống còn từ 0- 5% (riêng
Việt Nam vào năm 2006). Năm 2010 với 6 nước cũ và vào năm 2015 với các nước
mới gia nhập ASEAN sẽ thực hiện thuế xuất là 0%.
*Thứ ba, Diễn đàm hợp tác kinh tế Châu A- Thái Bình Dương (APEC) đặt
mục tiêu tương tự như AFTA ở trên, áp dụng cho các nước phát triển vào năm 2010
và cho các nước đang phát triển vào năm 2020.
* Thứ tư, Diễn đàn hợp tác Kinh tế A- Âu (ASEM) chưa có quy định cụ thể
về mốc thời gian tự do hóa mậu dịch. Những hoạt động chủ yếu là tìm kiếm khả
năng mở rộng hợp tác kinh tế A- Âu; tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực văn
hóa, thông tin, khoa học- công nghệ.
* Thứ năm, Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ gồm 7 chương, 72 điều, 9 phụ lục
với một số nội dung như sau:

- Về thương mại hàng hóa: Nổi bật và quan trọng nhất là hai bên dành
cho nhau ngay lập tức và không điều kiện quy chế tối huệ quốc sau khi hiệp
định được phê chuẩn. Với điều kiện này thuế xuất đánh vào hàng hóa Việt
Nam xuất vào Hoa kỳ giảm từ mức bình quân 40% xuống còn 3%, trong
tương lai một số mặt hàng của Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế là 0%.
- Về sở hữu trí tuệ: Quyền sở hữu các sản phẩm trí tuệ, phát minh, sáng chế,
tác phẩm, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp...
- Về thương mại dịch vụ: Theo quy định của WTO, tổng cộng có 155 phân
ngành, ta chỉ đàm phán với Mỹ 53 phân ngành tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm
nhất của nền kinh tế là: ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm...(Mỹ mở cửa 103 phân
ngành cho Việt Nam như với các nước khác).
Về ngân hàng: Hoa Kỳ chỉ được mở ngân hàng tại Việt Nam ở Thủ đô và các
thành phố lớn, không được mở ở các địa phương và rút tiền từ trong dân. Các chi
nhánh ngân hàng của Hoa Kỳ ở Việt Nam chỉ được huy động vốn sau 8 năm hoạt
động và không vượt quá 15% tổng số vốn.
Về viễn thông: Việt nam được quyền giữ đường trục và giữ 51%vốn đầu tư.
Hoa Kỳ chỉ được phép đầu tư vào đường nhánh và số vốn không quá 49% (diễn ra
từng bước, không thực hiện ngay).


25
Về lĩnh vực bảo hiểm: Hoa Kỳ chỉ được phép tham gia trong lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ, không được tham gia bất kỳ lĩnh vực bảo hiểm khác tại Việt Nam.
- Về đầu tư: Hiệp định quy định áp dụng chế độ “đối xử quốc gia” trên một
loạt các vấn đề nhạy cảm, nhất là lĩnh vực liên quan đến văn hóa, tư tưởng, các loại
dịch vụ khác nhau như giao thông vận tải, khai thác khoáng sản...(nghĩa là không
thực hiện phương án mở toang cửa cho tự do đầu tư). Hiệp định quy định lộ trình
dài, ngắn khác nhau; có mức độ cụ thể đối với các doanh nghiệp nước ngoài và
trong nước trong quá trình đầu tư.
d. Hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.

Có hai hình thức song phương và đa phương. Các định chế kinh tế đa phương
có giá trị hướng dẫn tạo ra khuôn khổ khống chế các quan hệ song phương. Nếu
chúng ta không tham gia các tổ chưc đa phương thì khó có thể mở rộng quan hệ
kinh tế song phương với các nước. Các quan hệ đa phương không chỉ giới hạn
trong các quan hệ lợi ích kinh tế, thương mại trực tiếp cụ thể mà còn có các lợi ích
khác như liên kết các nước đang phát triển cùng đấu tranh bảo vệ lợi ích chung trên
diễn đàn quốc tế, chống lại sự áp đặt không công bằng, không bình đẳng của các
nước.
e. Một số biện pháp để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
- Một là, Tiến hành làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền giải thích trong tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và trong các tầng lớp
nhân dân về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Đại hội IX, X và
các nghị quyết chuyên đề cùng các quan điểm của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế
quốc tế để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập
kinh tế quốc tế, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta về
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hai là, Chính phủ cùng các bộ, ngành, doanh nghiệp khẩn trương xây dựng
chiến lược tổng thể về hội nhập với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ
thể; phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp trong việc
tích cực chuẩn bị hội nhập. Theo đó lộ trình hội nhập phải đảm bảo vừa từng bước
rỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan một cách hợp lý, vừa khuyến khích
và buộc các doanh nghiệp trong nước phải tích cực đổi mới trình độ công nghệ, cơ
chế quản lý kinh tế, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tìm kiếm thị trường.....để nâng dần


×