1
Chuyên đề 1
Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh
về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ
* * *
1. Mô tả chuyên đề:
Đây là chuyên đề nghiên cứu những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ.
Các bậc học dưới chưa có điều kiện nghiên cứu lịch sử hoàn cảnh xuất hiện
các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về kinh tế xã hội
chủ nghĩa và thời kỳ quá độ.
2. Mục đích :
Giới thiệu có hệ thống những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin,
Hồ Chí Minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ.
Sử dụng những nội dung có liên quan được đề cập trong các văn kiện của
Đảng để phân tích làm sáng tỏ tính cách mạng khoa học của các quan điểm Mác Lênin, Hồ Chí Minh về vấn đề này.
3. Yêu cầu:
Nắm vững quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí
Minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ.
Vận dụng và phát triển các quan điểm trên trong thực tiễn đổi mới kinh tế trên
con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đấu tranh chống các luận điểm chưa đúng
xung quanh vấn đề này.
4. Nội dung chuyên đề:
I. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng Ghen về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ
2
quá độ
II. Quan điểm của V.I.Lênin về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ
III. Quan điểm Hồ Chí Minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ
5. Tổ chức, phương pháp nghiên cứu chuyên đề:
Giảng viên lên lớp những nội dung trọng tâm, trọng điểm. Học viên ghi chép
theo ý hiểu.
Học viên chủ động tìm và đọc các tài liệu tham khảo.
Ghi chép những nội dung đã đọc để bổ sung vào bút ký, chuẩn bị các tư liệu
để viết thu hoạch.
6. Hướng dẫn viết tiểu luận:
- Nội dung của quan điểm C.Mác, Ph.Ăng Ghen về kinh tế xã hội chủ nghĩa
và thời kỳ quá độ là gì?
- Cần vận dụng các quan điểm trên vào thực tiễn nước ta hiện nay như thế nào?
7. Tài liệu tham khảo:
- C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác - Ph.Ăngghen
Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H1995, tr.591 - 646.
- Những nguyên lý của Chủ nghĩa cộng sản, C.Mác - Ph.Ăng Ghen, Toàn tập,
tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr. 467 - 476.
- Tư tưởng của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản sống mãi, Nxb QĐND, H.1998.
- C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, H.1993, tr. 9 - 58.
- Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết, V.I.Lênin, toàn tập, tập
36. Nxb tiến bộ, M. 1978, tr 201 - 256.
- Kinh tế chính trị của thời đại chuyên chính vô sản, V.I.Lênin, toàn tập, tập
39, Nxb Tiến bộ, M.1978, tr 309 - 327.
- Bàn về thuế lương thực, V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, M.1978, tr
3
244 - 296.
- Bàn về chế độ hợp tác xã, V.I.Lênin, toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, M.1978,
tr 421 - 429.
- Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc VI, VII, VIII, IX, X.
- Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, 4, 6, 7, 8, 9, 10, 11.
- Đĩa CD - ROM Hồ Chí Minh toàn tập, chuyên đề kinh tế.
8. Kế hoạch tư vấn, giúp đỡ học viên học tập, nghiên cứu chuyên đề
Tham khảo tốt nhất là giáo trình của Nxb CTQG dùng cho khối chuyên kinh tế.
Cần thiết phải tăng cường trao đổi học viên với học viên và giảng viên.
* * *
4
Nội dung Bài giảng
I. QUAN ĐIểM của c.Mác, ph.Ăng Ghen về kinh tế xã hội chủ nghĩa và
thời kỳ quá độ
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Chủ nghĩa tư bản đang phát triển, tình thế cách mạng vô sản chưa đặt ra trực
tiếp nên những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội nói chung và những vấn đề về
thời kỳ quá độ nói riêng chưa phải là mục đích nghiên cứu trực tiếp của Mác và
Ăngghen.
- Những tư tưởng đưa ra mới chỉ ở dạng phác thảo, 3 - 1895 trong lời tựa cuốn
sách: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” (tập 22 - 1995, tr. 761) dựa trên sự phát triển có
tính chất lôgíc quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản chứ chưa phải phân tích
những vấn đề chủ nghĩa xã hội hiện thực.
- Hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thời kỳ lịch sử này gắn liền với luận điểm của
Mác - Ăngghen về cách mạng vô sản nổ ra và thắng lợi đồng thời ở các nước tư
bản phát triển nhất.
Nhưng lịch sử lại không diễn ra như vậy (theo luận điểm của Lênin thì chỉ có
thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước hoặc một số nước).
2. Những quan điểm về kinh tế XHCN
a. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa - kết quả tất yếu của sự phát triển
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, là quá trình lịch sử tự nhiên.
- Dựa trên thế giới quan duy vật về lịch sử, Mác và Ăngghen khẳng định mọi
sự biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử đều là quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên. Quá trình vận động của xã hội loài người tất yếu tiến tới phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác chỉ rõ:
5
+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, một mặt, có sự tiến bộ lịch sử, có
vai trò to lớn trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hóa lao động; mặt khác,
nó có giới hạn về mặt lịch sử, do mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo tiền đề xã hội, tiền đề vật chất,
kinh tế cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa.
- Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời thay thế phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa là một quá trình lịch sử tự nhiên, phù hợp với yêu cầu của
qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
- Sự thay thế như trên được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội do giai
cấp vô sản lãnh đạo quần chúng bắt đầu bằng việc giành lấy chính quyền.
Mác viết: “Cách mạng nói chung - lật đổ chính quyền hiện có và phá huỷ
những quan hệ cũ là một hành vi chính trị. Nhưng chủ nghĩa xã hội không thể thực
hiện mà không có cách mạng. Chủ nghĩa xã hội cần đến hành vi chính trị này bởi
lẽ nó cần tiêu diệt và phá huỷ cái cũ” 1.
* Những nhận thức mới trên vấn đề này: nhân tố kinh tế là nhân tố suy cho
đến cùng, chứ không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự phát triển lịch sử tự
nhiên. Các mặt kiến trúc thượng tầng cũng có vai trò phát triển lịch sử đôi khi giữ
vị trí quyết định. Kinh tế là cơ sở.... các vấn đề kiến trúc thượng tầng dựa trên sự
phát triển kinh tế. Nhưng giữa các yếu tố đều tác động lẫn nhau và tác động đến cơ
sở kinh tế hoàn toàn không phải kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động.
b. Những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai
1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.1, tr.616
6
Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875), Mác đã trình bày quan
điểm của mình về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản: giai đoạn trước là “giai
đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản
chủ nghĩa ra, sau những cơn đau để kéo dài” và giai đoạn sau là “xã hội cộng sản
chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó” hay là “giai đoạn cao hơn.”2
* Mác và Ăngghen căn cứ vào tiến trình phát triển đã dự báo ban đầu về đặc
trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Một là, lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa cộng sản phát triển ở trình độ cao, cao hơn
nhiều so với chủ nghĩa tư bản. Đó là lực lượng sản xuất của nền sản xuất lớn về qui
mô, hiện đại về khoa học - công nghệ, có môi trường sinh thái bảo đảm cho sự phát
triển ổn định, bền vững. Lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện kinh tế vật chất
cho sự phát triển tự do của mỗi thành viên trong xã hội.
Hai là, chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người
bóc lột người bị thủ tiêu.
Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu
sản xuất, là xã hội giải phóng một cách hiện thực những điều kiện vật chất, cho
phép xóa bỏ tình trạng dùng tư liệu sản xuất làm phương tiện để nô dịch bóc lột
lao động.
Người lao động quan hệ hợp tác với nhau và có cơ hội phát triển như nhau. “(tất
cả các thành viên trong xã hội quan hệ với nhau như những người sở hữu chung các tư
liệu sản xuất ) nghĩa là việc xã hội hóa tư liệu sản xuất trên qui mô toàn bộ nền kinh tế
quốc dân” ( Mác - Ăngghen tuyển tập, tập 4, tr.187.)
Mác - Ăngghen chỉ ra rằng, không thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư hữu
2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.19, tr. 33,25,36.
7
được mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào tạo lập được một lực lượng
sản xuất hiện đại, năng suất lao động rất cao thì mới xoá bỏ được chế độ tư hữu
(lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu). Điều kiện này chỉ có được trong giai đoạn cao
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. (10 biện pháp được nêu trong Tuyên ngôn của
ĐCS).(tập 4 1995, tr, 470, 471; 627).
Ba là, mục đích nền sản xuất
Sản xuất của cải vật chất là nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong
xã hội. Nền sản xuất xã hội dưới chủ nghĩa cộng sản có lực lượng sản xuất phát
triển cao do xã hội quản lý. Chính vì thế, mục đích của nền sản xuất là thoả mãn
mọi nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của tất cả thành viên trong xã hội.
Con người được tự do phát triển toàn diện, tự do phát huy năng khiếu, thể lực, trí
lực của mình. Con người và nhu cầu của họ trở thành động lực và mục tiêu của nền
sản xuất. Đây là tính ưu việt căn bản của chủ nghĩa cộng sản.
Bốn là, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm
vi toàn xã hội, sản xuất hàng hóa bị loại trừ.
Vấn đề kế hoạch:
Trong chế độ cộng sản chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân lao động và
nhờ đó trong toàn bộ nền sản xuất xã hội sẽ không còn mâu thuẫn giữa sự tổ chức
sản xuất mang tính xã hội và tình trạng vô chính phủ.
Việc tổ chức sản xuất được tiến hành một cách có ý thức, có kế hoạch, được
thực hiện trên phạm vi toàn xã hội.
Việc quản lý sản xuất nói chung không nằm trong tay các cá nhân riêng lẻ
cạnh tranh với nhau nữa, mà do toàn thể xã hội quản lý các ngành sản xuất theo
một kế hoạch chung với sự tham gia của mọi thành viên trong xã hội, cạnh tranh
được thay bằng hợp tác và thi đua sáng tạo.
Như vậy: Xã hội nắm tư liệu sản xuất thì thực hiện phát triển kinh tế theo kế
8
hoạch được. Kế hoạch hoá là do PCLĐXH, còn chế độ công hữu là nhân tố bảo
đảm tính hiện thực của kế hoạch. (trong phê phán cương lĩnh Ecphuya: Ăngghen
cho rằng không nên xem kinh tế tư bản chủ nghĩa giai đoạn độc quyền vẫn là tự
phát vô chính phủ, mà nó có thể kế hoạch được).
Vấn đề thị trường:
Mác và Ăngghen cho rằng, trong nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa tương lai, tính
chất hàng hóa đối với người sản xuất sẽ không còn. Mác viết: “Trong một trật tự xã
hội cộng sản chủ nghĩa được xây dựng trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
những người sản xuất không trao đổi sản phẩm của họ; ở đây lao động đã nhập vào
trong sản phẩm cũng vậy, không còn biểu hiện như là giá trị của những sản phẩm ấy,
không còn biểu hiện như một tính chất thật sự mà những sản phẩm ấy vốn có, vì từ
nay, trái với điều xảy ra trong xã hội tư bản, lao động của cá nhân trở thành bộ phận
khăng khít của lao động của công xã không phải bằng con đường quanh co, mà bằng
con đường trực tiếp” ( Mác - Ăngghen, Phê phán cương lĩnh Gô ta và Ecphuya, Nxb
Sự thật, H.1957, tr. 24).
Theo Ăngghen thì: Một khi xã hội nắm trong tay các tư liệu sản xuất và sử
dụng tư liệu sản xuất đó để sản xuất dưới hình thức trực tiếp xã hội hóa, thì lao
động của mỗi người, dù tính chất đặc thù của lao động có khác nhau đến đâu chăng
nữa, ngay từ đầu và trực tiếp cũng trở thành lao động xã hội. Khi ấy người ta
không cần dùng đường vòng để xác định số lượng lao động xã hội xã hội nằm
trong một sản phẩm. Nguyên lý về tính chất xã hội trực tiếp của lao động sản xuất
đã khiến cho sự thủ tiêu quan hệ giá trị trở thành một tất yếu kinh tế là đặc trưng
của xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
Năm là, sự phân phối sản phẩm bình đẳng.
Do lực lượng sản xuất có sự phát triển cao độ, xã hội cộng sản chủ nghĩa sẽ
sản xuất ra số lượng sản phẩm dồi dào và tổ chức phân phối một cách khoa học
nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Nguyên tắc chung của sự
9
phân phối sản phẩm trong xã hội cộng sản chủ nghĩa là theo sự thoả thuận chung,
hay nói cách khác là sự phân phối bình đẳng với những hình thức cụ thể tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nguyên tắc phân phối cộng sản chủ
nghĩa tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để thực hiện khẩu hiệu: làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Sáu là, xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay, xóa bỏ giai cấp.
Ăngghen khẳng định, tình trạng xã hội phân chia thành các giai cấp khác
nhau, đối địch nhau không những sẽ trở nên thừa, mà còn không thể tương dung
với xã hội mới. Xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội không còn giai cấp; xã hội
phát triển cao về kinh tế, văn hóa và xã hội sẽ tạo cơ sở để thủ tiêu sự đối lập giữa
thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trở
thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống.
Bảy là, Xu hướng quốc tế hoá quan hệ kinh tế.
Tác động của đại công nghiệp cơ khí sẽ tạo xu hướng thống nhất thị trường
toàn thế giới. Chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển vật chất của sức sản xuất
và hình thành một thị trường toàn thế giới.
Cần nhận thức đúng đắn rằng, những đặc trưng kinh tế - xã hội nêu trên là đặc
trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
* Đặc trưng kinh tế - xã hội chủ yếu của giai đoạn đầu của phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa:
Một là, kế thừa và phát triển lực lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản tạo ra.
Nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và lao động.
Hai là, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức sở hữu
chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
10
Ba là, còn sản xuất hàng hóa, quan hệ giá trị còn là tất yếu kinh tế của thời
kỳ này. Việc phân phối những sản phẩm vẫn phải tuân theo nguyên tắc trao đổi
hàng hóa - vật ngang giá: một số lượng lao động dưới hình thức này được đổi lấy
cùng một số lượng lao động dưới hình thức khác. Mác viết: “Lưu thông hàng hóa
và sản xuất hàng hóa là những hoạt động thuộc nhiều phương thức sản xuất hết sức
khác nhau, tuy nhiên với mức độ và phạm vi không giống nhau”. 3 Trong thời kỳ
quá độ vẫn còn giai cấp và nhà nước, mà đó là nhà nước chuyên chính vô sản.
Bốn là, lao động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ và còn sự khác nhau về lao
động, do đó kết quả lao động cũng khác nhau.
Năm là, thực hiện phân phối theo lao động, nghĩa là mức sống của người lao
động không thể vượt quá điều kiện kinh tế mà chế độ kinh tế đạt được, sự hưởng
thụ của cá nhân căn cứ vào lao động của họ đóng góp ở thời kỳ này. Theo đó, phân
phối ở thời kỳ này còn mang dấu vết “pháp quyền tư sản”.
2. Quan điểm của c.mác, ph.Ăngghen về những vấn đề kinh tế của thời
kỳ quá độ
a. Sự cần thiết khách quan của thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ dài:
Đây là thời kỳ cần thiết để tiến hành những cải biến cách mạng làm biến đổi
căn bản mọi lĩnh vực để chuyển từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản. Sự cần thiết
của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản được quyết định bởi
tính chất đặc thù của sự ra đời và hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Theo Mác: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là
nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.” 4 Ăngghen cho rằng, cần phải có
3
4
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.23, tr. 175.
Sđd, tr.47.
11
hành động chính trị của giai cấp vô sản và có chuyên chính vô sản, coi đó là bước
quá độ chuyển sang thủ tiêu giai cấp và, cùng với giai cấp thì thủ tiêu Nhà nước”.
Thời kỳ quá độ ngắn:
Mác chỉ ra rằng, thời kỳ quá độ là thời kỳ mà về phương diện kinh tế, đạo
đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ - xã hội mà nó đã thoát thai
ra, vì thế thời kỳ này còn có những thiếu sót không tránh khỏi.
b. Hình thức quá độ
Đó là sự quá độ trực tiếp từ sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.
c. Độ dài của thời kỳ quá độ dài
Đó là thời kỳ khá lâu dài chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản.
Cải tổ nền sản xuất là việc khó khăn; phải trải qua cuộc đấu tranh quyết liệt có thể
thắng được thế lực to lớn của thói quen đối với lối quản lý tiểu tư sản và tư sản nền
cần phải có thời gian.
d. Dự báo về khả năng quá độ lên chủ nghĩa cộng sản bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Xuất phát từ sự nghiên cứu tình hình nước Nga lúc đó, Mác và Ăngghen nêu các
luận điểm: những nước lạc hậu có thể bước vào “con đường rút ngắn”, có thể “chuyển
thẳng” lên hình thức cộng sản chủ nghĩa bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa, có thể
không cần trải qua những đau khổ của chế độ đó, tránh được phần lớn những đau khổ và
những cuộc đấu tranh mà Tây Âu đã phải trải qua.
Mác và Ăngghen chỉ ra rằng: “Thắng lợi của giai cấp vô sản Tây Âu đối với
giai cấp tư sản và gắn liền với điều đó, việc thay thế nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
bằng nền sản xuất do xã hội quản lý - đó là điều kiện tiên quyết tất yếu để nâng công
12
xã Nga lên cùng một trình độ phát triển như vậy.” 5
Mác và Ăngghen là người đầu tiên nêu lên khả năng những nước còn đang trong
giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái xã hội
cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của những nước này bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời kỳ quá độ đó như thế nào và những nhiệm vụ
cụ thể gì thì Mác và Ăngghen chưa đề cập đến.
ii. quan điểm của, V.I.Lênin về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản giai đoạn tự do cạnh
tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì cách mạng xã hội chủ nghĩa đặt
ra một cách trực tiếp, quan điểm của Lênin về chủ nghĩa xã hội đã được hình
thành. Đó là sự vận dụng và phát triển học thuyết Mác về chủ nghĩa cộng sản và về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản để chỉ đạo cuộc cách mạng tháng 10 Nga
thành công và kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Trên cơ sở tổng
kết thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới, Lê nin đã xây
dựng lý luận về chủ nghĩa đế quốc, và vạch rõ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa cực kỳ không đều. Từ đó, Lê nin đã rút ra kết
luận về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trước tiên ở một nước hoặc ở một
số nước riêng lẻ và chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi cùng một lúc trong tất cả
các nước. Sự phân tích của Lê nin về những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã dẫn đến nhận thức mới về chủ nghĩa tư bản và thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra
những tiền đề vật chất làm cơ sở hiện thực cho sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
2. Quan điểm của Lê nin về kinh tế xã hội chủ nghĩa
5
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.22, tr. 629-630.
13
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với các dân tộc, một khi giành được
chính quyền thiết lập chuyên chính vô sản. Vấn đề xác định các nguyên lý, mục
tiêu, biện pháp kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội nhằm xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng. Theo đó, Lê nin đã xác định những nguyên lý
về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm những vấn đề:
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể.
Mục đích nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là nhằm thoả mãn phúc lợi vật chất đầy
đủ cho toàn xã hội và sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi thành viên trong xã hội.
Nguyên tắc phân phối vật phẩm cho tiêu dùng cá nhân dưới chủ nghĩa xã hội
là phân phối theo lao động; người nào có sức lao động mà không làm thì không có
ăn, số lượng lao động ngang nhau thì được hưởng số lượng sản phẩm bằng nhau.
Thực hiện nghiêm ngặt chế độ hạch toán kinh tế nhằm đánh giá đúng mức
cống hiến, mức hưởng thụ của người lao động, lợi nhuận cho doanh nghiệp và tăng
năng suất lao động.
Tổ chức nền kinh tế XHCN phát triển có kế hoạch, tập trung, thống nhất.
Nhà nước có chức năng quản lý nền kinh tế.
Nền kinh tế vận động theo quy luật kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, sử dụng
phổ biến quan hệ hàng hóa- tiền tệ, các phạm trù của sản xuất hàng hóa.
Lênin chỉ ra các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là:
Biện pháp quốc hữu hoá xã hội chủ nghĩa là sự thủ tiêu sở hữu tư nhân của
giai cấp bóc lột về tư liệu sản xuất, chuyển nó thành sở hữu toàn dân. Quốc hữu
hóa bằng hai phương pháp: một là, tịch thu không hoàn lại (tước đoạt); hai là, tịch
thu có bồi thường (cải tạo hoà bình) được thực hiện thông qua các hình thức của
chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Biện pháp hợp tác hóa được thực hiện để chuyển người lao động cá thể thành
14
người lao động tập thể nhằm hình thành và phát triển sở hữu tập thể về tư liệu sản
xuất. Hợp tác hoá tuân theo nguyên tắc tự nguyện, từ thấp lên cao, có sự lãnh đạo
của đảng và sự giúp đỡ của nhà nước.
Biện pháp công nghiệp hóa mà Lênin nêu ra là nhằm xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành cách mạng văn hoá- tư tưởng để xóa mù chữ, nâng cao trình độ dân
trí, đào tạo đội ngũ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao cho nền kinh tế. Cách
mạng tư tưởng - văn hóa nhằm xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN.
Lênin khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng những bước đi trung
gian, quá độ gián tiếp thông qua phát triển kinh tế hàng hóa, sử dụng cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, thực hiện rộng rãi các hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Đó chính là yêu cầu cơ bản trong chính sách kinh tế mới do Lênin
đề xuất và tổ chức thực hiện.
Sự ra đời của chính sách kinh tế mới xuất phát từ chính sách kinh tế cũ - chính
sách cộng sản thời chiến tuy đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi cuộc nội
chiến, song không còn phù hợp khi đã có hoà bình do nội dung chính sách này là
xoá bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ, xoá bỏ tự do mua bán lương thực trên thị trường.
Chính sách đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất, làm mất
vai trò động đối với nông dân do chủ trương trưng thu lương thực thừa của họ mà
đa số họ là trung nông.
Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới là: Thay thế chế độ
trưng thu trưng mua lương thực thừa bằng thu thuế lương thực; tổ chức thị trường,
mở rộng thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hóa - tiền tệ giữa nhà nước với
nông dân, giữa thành thị với nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp và sử
dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, phát triển
15
quan hệ hợp tác với các nước phương Tây.
Nhờ chính sách kinh tế mới mà đã khôi phục được nền kinh tế sau chiến
tranh, từ “nước Nga đói” trở thành nước có lương thực dồi dào. Củng cố liên minh
công - nông, củng cố lòng tin nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội
theo nguyên lý của Lê nin nêu ra. Chính sách kinh tế mới đánh dấu bước phát triển
mới về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chính sách kinh tế mới giúp các nước vận
dụng vào điều kiện cụ thể của mình để phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm của Lê nin về kinh tế thời kỳ quá độ
a. Sự khẳng định tất yếu phải có thời kỳ quá độ
Lý luận về kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bộ phận quan trọng
trong học thuyết của Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, sự cần thiết
khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc điểm ra đời, phát
triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định.
Lênin chỉ ra rằng, sau khi giành được chính quyền chưa phải đã có chủ nghĩa xã
hội, mà phải phát triển mạnh lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới. Sự phát triển như
thế phải trải qua thời kỳ lâu dài, đó là thời kỳ quá độ. Lênin khẳng định: “Về mặt
lý luận không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản có một thời kỳ quá độ.” 6 Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng từ xã hội cũ sang xã hội mới. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh
tế, văn hóa, tư tưởng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
6
V.I. Lê nin, Toàn tập, t.39, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 309.
16
Luận điểm của Lênin về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ nhỏ
hơn là sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác. Theo Lênin, đối với một nước tư bản
chưa phát triển, không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội được mà
phải trải qua “một loại những bước quá độ”. 7 Luận điểm này của Lênin bao gồm
những nội dung chủ yếu là: không thể quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà
phải qua con đường gián tiếp chứ không thể “quá vội vàng thẳng tuột, không được
chuẩn bị”.8 Những bước quá độ ấy, theo Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ
nghĩa xã hội. Bước quá độ nhỏ từ chủ nghĩa tư bản nhà nước thể hiện trong nội
dung chính sách kinh tế mới (NEP). Khi thực hiện NEP, chúng ta có sự nhượng bộ
tạm thời và cục bộ đối với chủ nghĩa tư bản nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, từng bước xã hội hóa sản xuất trên thực tế.
Theo Lênin, một nước lạc hậu có thể quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa khi có những điều kiện khách
quan và điều kiện chủ quan. Điều kiện khách quan là phải có một nước giành
được thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nêu tấm gương và giúp đỡ các nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Điều kiện chủ quan là phải hình thành
được các tổ chức đảng cách mạng và cộng sản, phải giành được chính quyền về
tay nhân dân, xây dựng nhà nước của nhân dân và vì nhân dân. Lênin cho rằng,
không thể thiếu hai điều kiện khách quan và chủ quan của quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
b. Chỉ ra đặc trưng kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội.
Lênin, người có công đầu xem xét nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
7
8
V.I. Lê nin, Toàn tập, t.44, Nxb Tiến bộ, M. 1978, tr. 189.
V.I. Lê nin, Toàn tập, t.43, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 445.
17
nghĩa xã hội với bất cứ nước nào, đặc trưng cơ bản nổi bật của thời kỳ quá độ là sự
tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Sự phân tích đặc
trưng này sẽ xác định đúng đắn những mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ. Tất cả các
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế đều có những
thành phần kinh tế cơ bản là: Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh
tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ. Thích ứng với
nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần, trong xã hội có ba giai cấp cơ bản: giai
cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản (đa số là nông dân) và giai cấp tư sản.
Mỗi thành phần kinh tế, giai cấp kể trên có đặc điểm và vai trò riêng, song
chúng cùng tồn tại và vận động xen kẽ với nhau, đan xen nhau, hình thành thực
trạng kết cấu kinh tế - xã hội của kinh tế thời kỳ quá độ. Mâu thuẫn cơ bản
trong thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản,
mâu thuẫn này bắt nguồn từ tính độc lập tương đối về kinh tế do các hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu
tranh giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản
đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Chính vì tính chất quá độ đó
nên trong nền kinh tế chưa có thành phần kinh tế thống trị chi phối, mới có
thành phần kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Vì vậy, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản rất phức tạp, gay go và quyết liệt, tất yếu sẽ bảo đảm địa vị chủ
đạo và thống trị của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tính chất, mức độ
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng kinh tế - giai
cấp trong điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước trong từng giai đoạn.
c. Chỉ ra những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ
Một trong những điều kiện chủ yếu làm cho cách mạng xã hội chủ nghĩa
thắng lợi là giai cấp công nhân có ý thức về quyền thống trị của mình và sử dụng
18
quyền đó trong bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó,
cần phải lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế trong
thời kỳ quá độ, đó là:
Một là, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Cơ sở duy nhất và thực sự để làm tăng của cải vật chất, để xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể là đại công nghiệp. Do đó, phải khôi phục đại công nghiệp,
cơ sở kinh tế vững chắc trong nghành đại công nghiệp cơ khí hoá và vận dụng nó
vào nông nghiệp và vận tải, phải điện khí hoá toàn quốc. Theo Lênin, “Cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả
năng cải tạo cả nông nghiệp. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện
đại...đó là điện khí hoá cả nước.” 9 Nhiệm vụ công nghiệp hoá không những tăng
thêm tỷ lệ của công nghiệp, nhất là phát triển ngành sản xuất tư liệu sản xuất mà
còn phải bảo đảm sự độc lập về mặt kinh tế của đất nước. Muốn thế phải dùng
những biện pháp nhanh chóng và quan trọng để nâng cao các lực lượng sản xuất
sản xuất của nông dân; phải tăng cường trao đổi sản phẩm của đại công nghiệp lấy
các sản phẩm của nông dân; phải tích luỹ vốn, phải tiết kiệm về mọi mặt.
Hai là, cải tạo nền kinh tế theo xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải xác định rành mạch mục đích cuối cùng
của những cải tạo và đề ra những biện pháp cải tạo phù hợp. Theo Lênin: Mục đích
cải tạo “là thiết lập một xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội không chỉ hạn chế ở
việc tước đoạt các công xưởng, nhà máy, ruộng đất và tư liệu sản xuất, không chỉ
hạn chế ở việc kiểm kê và giám sát một cách chặt chẽ việc sản xuất và phân phối
sản phẩm”.10 Các biện pháp được sử dụng là:
Biện pháp tước đoạt tài sản đối với giai cấp tư sản phản động chống lại chủ
9
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 32, Nxb ST, Hà Nôị 1970, tr. 595.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 27, Nxb ST, Hà Nôị 1971, tr. 155.
10
19
nghĩa xã hội và biện pháp lợi dụng chủ nghĩa tư bản làm mắt xích trung gian giữa nền
tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội đối với giai cấp tư sản chịu cải tạo.
Biện pháp kiểm kê, kiểm tra của toàn dân về số lượng lao động, về sản xuất
và phân phối sản phẩm. Cần có sự giám sát đặc biệt của toàn dân đối với bọn nhà
giàu cùng tay chân là bọn trí thức tư sản và bọn ăn cắp, bọn ăn bám, bọn lưu manh.
Biện pháp hướng những người tiểu sản xuất vào các công xã nông nghiệp
theo nguyên tắc tự nguyện và nêu gương, giúp đỡ họ lối kinh doanh tập thể trên qui
mô lớn vì lợi ích chung của chính họ. “Khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới mức
đông nhất, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện.” 11
Ba là, tổ chức bộ máy quản lý, chế độ quản lý.
Theo Lênin, “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô viết cộng với điện khí
hóa toàn quốc” 12do đó, ta thấy tầm quan trọng của việc tổ chức bộ máy chính
quyền, chế độ quản lý nền kinh tế đất nước.
Đối với lĩnh vực công nghiệp phải “chuyển từ hình thức ‘công nhân kiểm
soát’ sang ‘công nhân quản lý’ những công xưởng, những nhà máy, những đường
sắt.
Để tăng năng suất lao động phải nâng cao trình độ học vấn và văn hóa của
nhân dân và nâng cao tinh thần kỷ luật, kỹ năng, tính cần mẫn của những
người lao động; áp dụng chế độ trả công tính theo sản phẩm; phải áp dụng rất
nhiều yếu tố khoa học và tiến bộ trong phương pháp Taylo. Lênin viết: “chúng
ta sẽ có thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội hay không, điều đó chính là tuỳ ở
những kết quả của chúng ta trong việc kết hợp Chính quyền Xô viết và chế độ
quản lý Xô viết với những tiến bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản.
11
12
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb ST, Hà Nôị 1970, tr. 689.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 31, Nxb ST, Hà Nôị 1969, tr. 639.
20
Để chuyển sang lối canh tác tập thể, kinh doanh tập thể trên qui mô lớn, chính
phủ công nông không thể dùng bất cứ một biện pháp cưỡng bức nào cả, và cả luật
pháp cấm điều đó. Do đó phải quản lý bằng phương pháp kinh tế và thuyết phục
nhân dân tự nguyện là chủ yếu.
Khi giai cấp công nhân, giai cấp nắm chính quyền Nhà nước trong tay...thì
mới thu hút được đông đảo quần chúng nông dân đi theo mình, một cách vững
chắc và thật sự. Theo đó, phải gắng sức xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa
và giúp dân tiếp cận với nguồn vốn sản xuất, ủng hộ .
Vấn đề cán bộ là vấn đề quyết định đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo đó, phải thu hút và đào tạo các kỹ thuật và chuyên gia vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Phải xây dựng được những cơ sở của việc tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa
rộng rãi với qui mô to lớn và mặt khác phải dùng những biện pháp cưỡng bách cần
thiết không để xuất hiện trạng thái nhu nhược mềm yếu của chính quyền vô sản
trong đời sống thực tiễn.
iii. Quan điểm hồ chí minh về kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
Sau nhiều năm buôn ba, tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh là nhà yêu nước
Việt nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin qua Lênin và cách mạng Tháng
Mười Nga. Từ đó người đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình.
Người chỉ rõ: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào
khác là con đường cách mạng vô sản''(Sđd, T9, Tr.314) và khẳng định: '' chỉ có chủ
nghĩa cộng sản, mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng
tộc, nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bắc ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình hạnh phúc, nói tóm lại là nền
cộng hoà thế giới chân chính''(T1, Tr.461).
21
Hồ Chí Minh khẳng định: ''con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội của các dân
tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử , không ai ngăn cản nổi'' (T8,
Tr.449). Và đó là con đường phát triển tất yếu của lịch sử. Hồ Chí Minh lập luận: ''
Từ xưa đến nay chế độ công cộng nguyên thuỷ sụp đổ là do chế độ nô lệ thay thế.
Chế độ nô lệ sụp đổ là do chế độ phong kiến thay thế…đó là qui luật nhất định trong
sự phát triển của xã hội. Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra, người lao
động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sản xuất phát triển tức là xã
hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững. Nếu không hợp thì giai
cấp đại biểu cho sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật đổ chế độ cũ. Hiện nay chủ
nghĩa tư bản có mâu thuẫn to, nó không giải quyết được. Một là, nhà tư bản sản xuất
hàng hoá quá nhiều , quá mau, nhưng không bán được; Hai là, tính chất sản xuất là
công cộng mà tư liệu sản xuất thì nằm trong tay một số ít người…chỉ có chế độ cộng
sản mới giải quyết được mâu thuẫn ấy'' (T7, Tr.246).
Đồng thời, Hồ Chí Minh còn cho rằng việc Việt Nam làm cách mạng dân chủ
mới( tức cách mạng dân chủ gắn với chủ nghĩa xã hội) là phù hợp với xu thế của thời
đại. Người viết: ''Cách mạng Nga thành công, mặt trận đế quốc và tư bản thế giới đã
tan vỡ một phần sáu trên quả đất, đồng thời đã lập thành một chế độ xã hội chủ nghĩa
vững chắc. Tiếp đến cách mạng các nước dân chủ nhân dân Trung, Đông Âu thành
công, xây dựng và phát triển nền dân chủ mới. Vì vậy cách mạng Việt Nam phải làm
cách mạng dân chủ mới'' (T7, Tr. 210).
Trong khi khẳng định, tiến tới chế độ cộng sản là mục đích chung của tất cả
những người lao động trên toàn thế giới, thì Hồ Chí Minh còn chỉ ra việc thực hiện
mục đích ấy của mỗi nước phải tuỳ điều kiện cụ thể của mình mà tiến dần.
Cụ thể đối với nước ta, Người chỉ rõ: ''Tính chất thuộc địa và phong kiến của
xã hội Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất
là đánh đế quốc, đánh phong kiến thực hiện người cày có ruộng…bước thứ hai là
tiến lên chủ nghĩa xã hội tức giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản'' (T7, Tr. 209).
22
Như vậy cách mạng Việt nam sẽ trải qua hai giai đoạn, tức là sau khi làm
xong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì cách mạng Việt Nam sẽ tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại: quan điểm nhất quán xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
lựa chọn con đường của cách mạng Việt Nam là con đường xã hội chủ nghĩa không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quan điểm đó đã được thể hiện một cách
sinh động và sáng tạo trong suốt quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam qua
các thời kỳ và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
2. Về bản chất của chủ nghĩa xã hội
Nắm vững học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ đặc
điểm của xã hội Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã nêu lên
những luận điểm sáng tạo về những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản nói chung và
về những đặc trưng phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng.
Về đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định:'' Chủ nghĩa
cộng sản là chế độ xã hội không có chế độ tư hữu, không có giai cấp áp bức bóc
lột, là của cải đều của chung, sức sản xuất cao, nhân dân lao động hoàn toàn giải
phóng và rất tự do, sung sướng'' (T7, Tr.243)
Theo Người chủ nghĩa cộng sản có hai giai đoạn, giai đoạn thấp tức chủ nghĩa xã
hội, giai đoạn cao tức chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn ấy có những điểm giống và
khác nhau. Người viết: '' Cộng sản có hai giai đoạn, giai đoạn thấp tức chủ nghĩa xã
hội , giai đoạn cao tức chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở nơi: sức sản
xuất đã phát triển cao; nền tảng kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung, không có
giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai đoạn ấy khác nhau ở nơi: chủ nghĩa xã hội vẫn còn
chút ít vết tích của xã hội cũ; xã hội cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích của xã
hội cũ'' (T7, Tr. 244).
Về bản chất của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh có các đặc trưng sau:
23
Một là, nhân dân lao động là những người làm chủ tập thể tất cả những của
cải vật chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, không còn áp bức
bóc lột. Mục đích là không ngừng nâng cao mãi đời sống vật chất, văn hoá của
nhân dân, mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và hưởng một đời hạnh
phúc.
Hai là, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có nền văn hoá và khoa học,
kỹ thuật tiên tiến; thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo của nền
kinh tế quốc dân.
Ba là, nguyên tắc phân phối lợi ích là: ''làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít
và ai không làm thì không hưởng'', người già yếu tàn tật được Nhà nước chăm lo.
Bốn là, kinh tế có kế hoạch. Cả nước có một kế hoạch chung, mỗi ngành theo
kế hoạch chung đó mà đặt kế hoạch riêng.
Năm là, không có sự đối lập giữa thành thị và thôn quê, giữa lao động chân
tay và lao động trí óc. Vì vậy nông thôn ngày càng văn minh, công nông ngày càng
thông thái'' (T7, Tr. 243 - 245 ).
Những quan điểm trên đây của Bác đã được Đảng và nhân dân ta nhận thức
và vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta những
năm qua. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là
văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII.
3. Những vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Cũng giống như nhiều vấn đề khác, tư tưởng của Bác về những vấn đề kinh tế
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không được trình bày tập trung thành một
tác phẩm chuyên khảo, mà được đề cập rải rác ở nhiều bài nói và viết trong các
hoàn cảnh khác nhau. Tập hợp lại, chúng ta có thể thấy tư tưởng của Hồ Chí Minh
về những vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ toát lên một số vấn đề sau:
* Về đặc điểm, nhiệm vụ và độ dài của thời kỳ quá độ của nước ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định việc phải trải
24
qua thời kỳ quá độ là bước đi tất yếu của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người
viết:'' Con đường của chúng ta ngày nay ở miền Bắc là qua thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội…chỉ có đi theo con đường ấy, miền Bắc nước ta mới vĩnh viễn
thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu và xây dựng cơ sở vững chắc cho sự nghiệp thống
nhất tổ quốc'' (T10, Tr. 79). Trên thực tế, ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng thì chúng ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Về đặc điểm của thời kỳ quá độ ở nước ta, Bác chỉ rõ đặc điểm lớn nhất của
thời kỳ quá độ ở Việt Nam là chúng ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Bác viết: ''Đặc điểm to lớn nhất của
thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa'' ( T10, Tr. 3).
Xuất phát từ tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và từ đặc điểm
của thời kỳ quá độ ở nước ta, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nhiệm vụ kinh tế cơ
bản của thời kỳ quá độ. Bác viết:'' Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc
biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn
toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt
để những nếp sống, thói quen… có gốc rễ từ ngàn năm, chúng ta phải thay đổi
quan hệ sản xuất cũ, xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không
có áp bức bóc lột'' và ''phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội'' (T8, Tr. 493 ; T10, Tr. 3). Như vậy, theo Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội có hai nhiệm vụ kinh tế cơ bản, một là xây dựng quan hệ sản
xuất mới; hai là xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Quan
điểm trên đây của Bác là tư tưởng xuyên suốt chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta và đã được Đảng ta quán triệt ngay từ văn kiện Đại hội
Đảng III với nội dung tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng .
Về độ dài của thời kỳ quá độ, theo Bác đó là một thời kỳ lịch sử lâu dài, song
25
dài bao nhiêu là phụ thuộc vào nỗ lực chủ quan của chính chúng ta. Bác viết : ''Việt
Nam ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi mới xã hội cũ thành xã hội
mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc. Thời kỳ quá độ của ta chắc chắn sẽ đòi
hỏi ba, bốn kế hoạch dài hạn. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn đấu thi đua
xây dựng thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn'' (T9, Tr. 175).
* Về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Trước hết, về sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế.
Về sở hữu, Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại
đa dạng các hình thức sở hữu, cụ thể là các hình thức sở hữu sau: sở hữu của nhà
nước tức sở hữu toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân
lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; và một ít tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu của nhà tư bản (T9, Tr. 588).
Theo Bác cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Bác viết : '' Hiện nay kinh tế nước ta có
những thành phần kinh tế sau: kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc
doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội; các HTX tiêu thụ và HTX cung cấp có tính chất
nửa XHCN; kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh là công, là nền tảng và sức lãnh
đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta
phải ủng hộ nó'' ( T7, Tr, 221).
Về cơ cấu ngành, theo Bác việc phát triển kinh tế cần phải chú ý đến sự phát
triển đồng bộ của cả ba ngành: công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp. Bác
viết: '' Về nhiệm vụ thì phải hiểu rõ trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng:
công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật thiết với
nhau. công nghiệp và nông nghiệp như hai cái chân của con người. Hai chân có
mạnh thì đi mới vững chắc, nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng
không phát triển được. Ngược lại không có công nghiệp thì nông nghiệp cũng khó