Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tê CHÍNH TRỊ xây DỰNG QUAN hệ sở hữu về tư LIỆU sản XUẤT TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.63 KB, 23 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chuyên đề
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là một trong những đặc trưng cơ bản
nhất, phản ánh bản chất nhất của một phương thức sản xuất nhất định. C.Mác
và Ph.Ăngghen quan niệm: mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ xã
hội cũ và thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải đưa vấn đề sở hữu lên
hàng đầu và coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào. C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng: trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, việc xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn, mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng trên cơ sở
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu với hai hình thức sở hữu là sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể đã lâm vào tình trạng thối trào như ở các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xơ. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, phản động quốc tế lại ra sức tìm mọi cách để chống phá
chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là
lý luận về chế độ sở hữu đã trở nên lỗi thời lạc hậu. Mặt khác, sau hơn 30 năm
thực hiện đường lối đổi mới đất nước, nhất là khi nước ta chủ trương thực hiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực tiễn đã và
đang nẩy sinh nhiều vấn đề mới, trong đó có vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất
đòi hỏi cần phải tiếp tục được tìm tịi nghiên cứu bổ sung làm sáng tỏ và phát
triển hơn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Với lý do đó tác giả lựa chọn
“Xây dựng quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” làm chuyên đề khoa học cá nhân của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của chuyên đề
* Mục đích: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp kiến nghị góp phần hồn thiện
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ


- Làm rõ một số vấn đề lý luận về xây dựng quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay;
- Trình bày thực tiễn về quá trình xây dựng quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời gian qua;


2
- Đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Chuyên đề được trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam xoay quanh vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất; đồng thời chun đề kế thừa
kết quả của các cơng trình khoa học có liên quan đã cơng bố trước đó.
Chun đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
phương pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế chính trị. Ngồi ra, cịn sử
dụng phương pháp thống kê, so sánh; phân tích, tổng hợp... đề làm sáng tỏ vấn
đề nghiên cứu.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm
2 phần, 4 tiết.

Phần 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG LÝ LUẬN QUAN HỆ SỞ HỮU
VỀ TƯ LIỆU SẢN XUẤT
1.1 Lý luận quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là một trong những
nội dung trung tâm của kinh tế chính trị học
Trong lý luận kinh tế mác xít, khi đề cập đến phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa; phạm trù phương thức sản xuất nói chung và quan hệ sản xuất nói
riêng có vị trí quan trọng trong việc phân tích nhằm rút ra những tính quy luật
vận động của xã hội TBCN. Theo quan điểm mác xít, quan hệ sản xuất là quan

hệ giữa người với người trong sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của
cải vật chất. Các mối quan hệ này do LLSX quyết định. Mỗi sự thay đổi của
quan hệ sản xuất đều là sự biến đổi của LLSX và đến lượt mình sự thay đổi
của quan hệ sản xuất sẽ tác động trở lại đối với LLSX.
QHSX là hình thức xã hội của sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người
với người trên ba mặt cơ bản: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ


3
chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Mỗi mặt có một
vị trí, vai trị khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Trong
đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt giữ vai trò quyết định; vì ai nắm
tư liệu sản xuất thì người đó chi phối quá trình tổ chức quản lý và phân phối
sản phẩm làm ra. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở, là nội dung then
chốt của một loại hình quan hệ sản xuất nhất định. Quan hệ sở hữu về TLSX
là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của QHSX. Quan hệ
sở hữu đóng vai trị quyết định bản chất của QHSX. Nó quyết định mục đích,
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, phương thức quản lý và phân phối kết
quả sản xuất; quyết định địa vị của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất
xã hội. Giai cấp sở hữu những TLSX chủ yếu có quyền chi phối tổng sản
phẩm xã hội, nắm quyền thống trị xã hội.
Tuy nhiên, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lại có tác
động trở lại đối với quan hệ sở hữu. Quan hệ tổ chức quản lý tuy phụ thuộc
vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng quan hệ tổ chức quản lý có
vai trò rất quan trọng. Cụ thể, khi quan hệ sở hữu chưa có gì thay đổi, như ng nếu có phương thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn có bước phát triển.
Trong nhiều trường hợp nó cịn quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ và
hiệu quả nền sản xuất xã hội. Quan hệ tổ chức quản lý được điều chỉnh để
giải quyết mâu thuẫn lợi ích giữa người lao động với chủ sở hữu về tư liệu
sản xuất; quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất mang tính hợp tác và dân chủ
hơn sẽ phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động hơn. Quan hệ

phân phối kết quả sản xuất là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho
những người có quan hệ với quá trình sản xuất và sự phân phối đó phụ
thuộc vào quan hệ của họ đối với TLSX. Trong chế độ sở hữu tư nhân về
TLSX thì quan hệ phân phối là khơng bình đẳng. Trong chế độ sở hữu cơng
cộng về TLSX chủ yếu thì định hướng tới sự phân phối cơng bằng, bình
đẳng - phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế trong CNXH và phân
phối theo nhu cầu trong chủ nghĩa cộng sản.
Vì vậy, trong 3 mặt đó chúng ta cần tránh tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ một
mặt nào... Trong lịch sử có hai loại sở hữu cơ bản đó là sở hữu công cộng và sở
hữu tư nhân. Do LLSX ngày càng phát triển và phân công lao động xã hội ngày
càng sâu sắc nên các hình thức sở hữu ngày càng đa dạng, phong phú.
Như vậy, quan hệ sở hữu là một trong những vấn đề mấu chốt, nó có liên quan
đến vấn đề nền tảng nhất, cơ sở kinh tế của một xã hội. Bởi vậy, sự đúng sai của vấn


4
đề này có ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ tới việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã
hội - chính trị của q trình phát triển và đổi mới của mỗi quốc gia.
- Sở hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, gắn liền với một tổ chức kinh tế - xã hội nhất định.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: sở hữu là quan
hệ giữa người với người về chiếm hữu những vật phẩm. Khác với quan điểm
của các nhà kinh tế học tư sản cho rằng sở hữu là quan hệ giữa người với vật.
Sở hữu là một phạm trù lịch sử thay đổi theo sự phát triển của LLSX, sự biến
đổi của hình thái kinh tế xã hội. Sở hữu là một quan hệ kinh tế khách quan
được hình thành phù hợp với trình độ nhất định của LLSX. Xét về bản chất thì
sở hữu chỉ có thể là công hữu hay tư hữu.
Sở hữu là một phạm trù vừa xuất phát vừa cơ bản của kinh tế chính trị. Nó là
hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải vật chất xã
hội. Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu và quyền sở hữu được
thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Đây là vấn đề căn bản nhất

của chế độ kinh tế xã hội, chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có cơ sở để
giải quyết các vấn đề khác như: động lực, lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền...
Quan hệ sở hữu thể hiện dưới những hình thức nhất định có tính chất
pháp lý gọi là chế độ sỡ hữu. Chế độ sở hữu xác định các quyền cơ bản đối
với tư liệu sản xuất cụ thể như: quyền sở hữu, quyền quản lý, quyền sử dụng,
quyền phân phối. Trong bốn quyền đó thì quyền chiếm hữu và quyền sử dụng
là cơ bản nhất, hai quyền này có thể thống nhất hoặc tách rời nhau; hai quyền
sau là hai quyền phát sinh. Giữa các quyền đó có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Sự thống nhất thể hiện ở chỗ
chúng có thể gắn liền với nhau đối với một chủ thể kinh tế. Sự mâu thuẫn thể
hiện ở chỗ giữa các quyền có khả năng tách rời nhau đối với một chủ thể kinh
tế. Việc phân biệt các quyền này giúp chúng ta nhận thức rõ hơn và sử dụng có
hiệu quả tư liệu sản xuất.
Chế độ sở hữu vừa mang tính pháp lý vừa mang tính khách quan. Tính
pháp lý thể hiện ở chỗ quan hệ sở hữu phải được giai cấp thống trị thừa nhận,
được thể chế hoá thành pháp luật và do pháp luật bảo vệ. Tính khách quan thể
hiện ở chỗ quan hệ sở hữu nó hình thành phụ thuộc vào sự phát triễn của
LLSX, con người không thể tuỳ tiện lựa chọn chế độ sở hữu này hay chế độ sở
hữu khác. Việc chuyển hoá quan hệ sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên
phụ thuộc vào sự phát triễn của LLSX, chứ không phải theo ý muốn chủ quan


5
của con người. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “...phù hợp với sự phát triển
của LLSX, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất từ thấp đến cao, với sự đa
dạng về hình thức sở hữu”.
Cần phân biệt rạch ròi giữa chiếm hữu và sở hữu, đây là vấn đề hết sức
cần thiết để nhận thức khoa học về phạm trù sở hữu tư liệu sản xuất. Chiếm
hữu phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và là một phạm trù
vĩnh viễn; còn sở hữu lại là mặt xã hội của chiếm hữu phản ánh mối quan hệ

giữa con người với con người trong việc chiếm hữu, quan hệ sở hữu là một
phạm trù lịch sử. Lý luận kinh tế học tư sản đã lợi dụng cách hiểu lập lờ giữa
hai phạm trù nói trên để biện hộ cho sự tồn tại “vĩnh viễn” của chế độ tư hữu
tư bản chủ nghĩa. Họ cho rằng, sở hữu là quan hệ giữa người với vật, đồng
nhất sở hữu với chiếm hữu, họ đã không thấy hoặc cố tình khơng thấy quan hệ
giữa người với người thơng qua chiếm hữu vật và mang tính đặc thù trong mỗi
hình thái kinh tế - xã hội, khơng thấy trình độ chiếm hữu tự nhiên của con
người gắn liền với hình thức xã hội nhất định của con người, cái hình thức
khơng phụ thuộc vào ý chí của con người. Chính quan hệ sở hữu biến đổi là
“sóng ngầm” bên trong quyết định sự biến đổi của chế độ kinh tế - chính trị xã hội. Sở hữu là quan hệ kinh tế chứ khơng phải là quan hệ ý chí của con người
trong xã hội. Sở hữu quyết định hệ thống chính trị chứ khơng phải ngược lại. Chỉ
khi mối quan hệ giữa người với người độc lập với quan hệ ý chí thì vật sở hữu
mới trở thành đối tượng sở hữu thực tế, mới đem lại quyền lợi thực tế của con
người sở hữu cho giai cấp nhất định và cho một hệ thống chính trị nhất định.
Đối tượng sở hữu thuộc về một chủ thể nhất định, nó phản ánh quan hệ
người với người về quyền chiếm hữu đối với đối tượng sở hữu đó. Đối tượng
sở hữu bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng sở hữu có
thể là: TLSX, TLTD, vốn.v.v.. Trong đó sở hữu về TLSX là quan trọng nhất.
Lịch sử cho thấy đối tượng của sở hữu đã từng phát triển qua nhiều nấc thang
từ sở hữu vật tự nhiên quý hiếm; rồi sở hữu nô lệ; đất đai tiến đến sở hữu tư
bản thể hiện dưới dạng vốn, sức lao động mua được… Đối tượng của sở hữu
ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển của LLSX bao gồm cả những
vật phẩm hữu hình và vơ hình. Ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa
học - công nghệ, đối tượng sở hữu không chỉ sở hữu về tư liệu sản xuất, vật
phẩm tiêu dùng mà còn xuất hiện những nhân tố mới như: sở hữu thương hiệu,
thơng tin, trí tuệ chất xám…


6
Trí tuệ cũng là đối tượng của sở hữu, bời vì: ngày nay khoa học và cơng

nghệ đã thực sự trở thành LLSX trực tiếp, cùng với sự phát triển của LLSX và
khoa học - công nghệ, xuất hiện nền kinh tế tri thức đã làm cho cơ cấu giá trị
trên một đơn vị sản phẩm hàng hóa có sự thay đổi với sự gia tăng giá trị hàm
lượng chất xám ngày càng cao; giá trị nguyên, nhiên vật liệu có xu hướng
ngày càng giảm. Hơn thế, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại cùng với q trình tồn cầu hóa đã làm cho khoa
học - công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực trở thành nhân tố quan trọng
hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Đại hội X, Đảng ta khẳng
định: nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học
và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp. Nhà
Nước khuyến khích các hoạt động sáng tạo, hồn thiện và ứng dụng cơng
nghệ mới, cơng nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Việc tiền tệ hố các đối tượng sở hữu chủ yếu là một bước tiến bộ lớn so
với quan niệm đối tượng sở hữu hiện vật cụ thể, đặc biệt là sở hữu trí tuệ. Ở
nước ta, đối tượng chủ yếu của sở hữu còn là những tư liệu sản xuất quan
trọng như đất đai, tài nguyên, nhà máy, hầm mỏ, tiền vốn, các phương tiện kỹ
thuật hiện đại v.v.. Vì thế làm chủ những đối tượng sở hữu ấy là những điều
kiện tiên quyết cho việc làm chủ các quan hệ kinh tế khác. Điều quan trọng là
phải biết nắm đối tượng sở hữu chủ yếu để tác động, điều chỉnh quan hệ kinh
tế theo những định hướng xã hội nhất định.
Khi đề cập đến chế độ tư hữu C.Mác cho rằng chế độ tư hữu không phải
là loại quan hệ giản đơn, tuyệt đối; không phải là kinh nghiệm và nguyên lý
trừu tượng mà là tổng hoà các quan hệ sản xuất tư sản; sự chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa là dùng quyền sở hữu để làm phương tiện bóc lột, nô dịch,
thống trị người khác và sự vận hành của tồn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
chính là dựa trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa “giai cấp những nhà
tư bản lớn… là những người độc chiếm mọi tư liệu sinh hoạt và cả ngun
liệu, cơng cụ (máy móc, nhà xưởng v.v) cần thiết để sản xuất ra những tư
liệu đó”1, muốn biến đổi hình thái kinh tế xã hội này phải bắt đầu từ biến đổi
quan hệ sản xuất mà đặc biệt là quan hệ sở hữu. Trong “Tuyên ngôn Đảng

Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen xác định: “đặc trưng của xã hội cộng sản
khơng phải là xố bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xố bỏ chế độ sở hữu tư
sản”2. Bởi vì, “chế độ tư hữu tư sản hịên thời là đại biểu cuối cùng và đầy
1
2

C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr 458.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr 615.


7
đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những
đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột người kia”3. Vì vậy,
chủ nghĩa cộng sản thực hiện việc xoá bỏ tư hữu tư sản cũng có nghĩa là xố
bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với tư cách là biểu hiện cuối cùng và hoàn
bị nhất của chế độ tư hữu nói chung, mở ra thời đại cộng sản chủ nghĩa dựa
trên chế độ cơng hữu.
Có thể nói, lý luận về chế độ sở hữu được C.Mác lấy làm tiền đề để tạo lập
nền móng cho tồn bộ lý luận kinh tế của mình; quy luật phát sinh, phát triển và
diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng được xây dựng trên cơ sở phân tích bản
chất chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, nó là hạt nhân và bản chất của lý luận kinh
tế mác xít. Trong suốt quá trình hình thành quan niệm về chủ nghĩa xã hội, vấn
đề sở hữu là một trong những vấn đề luôn giành được sự quan tâm chú ý của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin, vấn đề xác
định các hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhất là trong giai đoạn quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến những sự thay đổi về trình
độ của LLSX, của sự phân cơng lao động và tính đến lợi ích của người lao động
nhằm tạo ra động lực cho quá trình phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Theo
C.Mác: “Vấn đề sở hữu biểu hiện ra dưới một hình thức rất khác biệt, tương ứng

với những giai đoạn phát triển khác nhau của cơng nghiệp nói chung và với
những giai đoạn phát triển đặc biệt của nó ở các nước khác nhau”4.
C.Mác cũng cho rằng, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có đặc trưng bởi
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng được quy định bởi chế độ sở hữu chủ đạo
của xã hội. Lịch sử phát triển của nhân loại gắn liền với sự thay đổi chế độ sở
hữu. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ dựa trên cơ sở chế độ công hữu của thời
hoang sơ; lao động tập thể; phân phối bình quân, nguồn sống chủ yếu dựa vào tự
nhiên. Vào cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ nô lệ xuất hiện tư hữu, đã
đưa lồi người thốt khỏi tình trạng mơng muội hoang sơ, bước sang một giai
đoạn mới. Chế độ nô lệ, tư hữu trở thành động lực vươn lên trong mỗi con người
và là động lực phát triển xã hội. Tuy nhiên tư hữu nô lệ trong chế độ chiếm hữu
nô lệ là tư hữu dã man, không chỉ bị chiếm đoạt của cải làm ra mà nơ lệ cịn là
đối tượng sở hữu của chủ nô. Chế độ phong kiến đã giải phóng nơ lệ, nơng dân
được sở hữu một phần sản phẩm của mình, tạo nội lực cho chế độ phong kiến
3
4

C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr 615.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr 427.


8
phát triển cao hơn chế độ nô lệ. Cuộc cách mạng tư sản đã đem lại bước tiến mới,
xoá bỏ tính chất độc quyền sở hữu của Nhà nước, khẳng định sở hữu tư nhân.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, con người được pháp luật thừa nhận và bảo
vệ quyền sở hữu tài sản của mình. Con người được tự do, của cải làm ra được
bảo vệ. Năng lực sáng tạo của hàng triệu con người được phát huy. Chế độ tư
hữu đã tạo động lực to lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển
vượt trội về kinh tế, khoa học công nghệ và một số mặt về xã hội có nguồn gốc
của chế độ sở hữu tư nhân - động lực to lớn dưới chủ nghĩa tư bản. Nhưng chính

sự phát triển ấy đã ngày càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản, trình độ bóc lộc ngày càng tăng, phân hoá ngày càng lớn, từ sức mạnh
kinh tế chuyển hố thành sức mạnh chính trị: thống trị, áp đặt - nguyên nhân chủ
yếu của các cuộc chiến tranh phi lý tàn khốc, băng hoại tự do, dân chủ của tuyên
ngôn lúc ban đầu.
Như vậy, lịch sử đã ghi nhận sở hữu có vai trị to lớn, tạo bước ngoặt
trong tiến trình phát triển nhân loại, nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức đối
với xã hội. Sự xuất hiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách
mạng trong lịch sử xã hội lồi người. Vì đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa là tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu xã hội. Sự hình thành chế độ
cơng hữu về tư liệu sản xuất tạo ra mối quan hệ hợp tác tương trợ giữa những
người lao động đã thoát khỏi bóc lột và sản xuất được tổ chức khoa học nhằm
thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong xã hội. Tuy
nhiên, xây dựng chế độ cơng hữu như thế nào, dưới những hình thức, bước đi
và nhịp độ phát triển ra sao là một vấn đề kinh tế và chính trị cực kỳ phức tạp,
khơng thể đem ý chí chủ quan nơn nóng áp đặt một cách tuỳ tiện. Giống như
mọi kết cấu kinh tế của xã hội, quan hệ sở hữu thay đổi phụ thuộc vào sự phát
triển của LLSX. Khi LLSX cịn thấp thì ngay như chế độ tư hữu cũng chưa thể
xuất hiện. Cùng với sự phát triển của LLSX thì chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất cũng ra đời và phát triển từ thấp đến cao. Chế độ chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến và đỉnh cao của chế độ tư hữu là chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Tuy chế độ tư hữu có nhiều khuyết
tật nhưng lồi người khơng thể tuỳ ý lựa chọn, xố bỏ nó khi mà trình độ phát
triển của LLSX chưa cho phép. Nếu chế độ tư hữu là một tất yếu kinh tế gắn bó
với một trình độ phát triển nhất định của LLSX thì chế độ cơng hữu, đến lượt nó
cũng trở thành một tất yếu kinh tế khi LLSX đã phát triển đến một trình độ phát
triển nhất định, khi nền sản xuất xã hội đạt đến một trình độ xã hội hố cao.


9

Lịch sử xã hội lồi người từ khi có giai cấp đều diễn ra sự đối kháng
giai cấp và sự đối kháng ấy mang những hình thức khác nhau tuỳ theo từng
thời đại, và “dù những đối kháng ấy mang hình thức nào đi nữa thì hiện
tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ phận khác cũng vẫn là một
hiện tượng chung cho tất cả các thế kỷ trước kia… Cách mạng XHCN là sự
đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của q khứ;
khơng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó,
nó đoạt tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá
khứ”5. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những hìng thức
sở hữu mới được xác lập (tồn dân, tập thể) thì hình thức sở hữu tư nhân vẫn
chưa mất đi. Ăngghen cho rằng: Liệu có thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức
được không? không, không thể được cũng y như khơng thể làm cho LLSX
hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế
công hữu. Ph.Ănghen cũng chỉ rõ: “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ
xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết
quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX mới, khơng cịn phù hợp với các
quan hệ sở hữu cũ nữa”. Bởi vậy, trước hết phải phát triển LLSX, phải thừa
nhận bất cứ hình thức sở hữu nào cịn thúc đẩy sự phát triển LLSX, khơng
thể nóng vội xố ngay chế độ tư hữu, kể cả hình thức sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa. Đồng thời phải thực hiện nhiều hình thức phân phối, kể cả phân
phối theo tư bản. Chính vì thế, Đại hội X của Đảng đã đặt ra các nhiệm vụ
chủ yếu là giải phóng và phát triển mạnh mẽ LLSX, phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu, thực hiện nhiều
hình thức phân phối.
Điểm nổi bật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế
còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu: sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân. Các loại hình sở hữu này đan xen tạo nên một loại hình hỗn hợp. Sự tồn
tại nhiều loại hình sở hữu tong thời kỳ quá độ là do yêu cầu quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của LLSX. Trong thời kỳ quá độ,
LLSX với nhiều cấp độ khác nhau, nên trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản

xuất cũng tồn tại nhiều loại hình tương ướng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lênin cũng chỉ rõ sự tồn tại
khách quan lâu dài của các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu, phải sử
dụng ngay cả tư hữu tư bản chủ nghĩa để xây dựng xã hội mới. Và Lênin cho
5

C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 626.


10
rằng, cải biến tư hữu nhỏ phải là quá trình lâu dài, kiên trì theo nguyên tắc “tự
nguyện”. Đây là vấn đề cốt lõi để đưa nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng
chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa mà khơng xố bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, trái
lại cần phải sử dụng quan hệ đó làm phương thức quản lý của chính ngay doanh
nghiệp nhà nước, biết tổ chức hạch toán kinh tế và vận dụng quy luật giá trị. Cần
sử dụng nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp, trong đó đặc biệt chú ý đến mức độ
khác nhau của hình thức tư bản nhà nước… Những điều đó địi hỏi nhà nước
phải biết vận dụng cả một hệ thống công cụ để quản lý kinh tế hàng hoá vận
động theo cơ chế thị trường.
Như vậy, việc thủ tiêu chế độ tư hữu chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ
khi nào đã tạo ra được một LLSX hiện đại, xã hội hố cao độ với năng suất lao
động rất cao thì khi đó mới xố bỏ được chế độ tư hữu. Sự phát triển tới một
trình độ cao ấy là điều kiện làm cho mỗi thành viên trong xã hội đều có cơ hội
phát triển như nhau. Khi đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người. C.Mác đã sử dụng quan hệ sở hữu,
trong đó chủ yếu là sở hữu đối với tư liêu sản xuất như là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong toàn bộ học thuyết cách mạng của mình.
2. Thực tiễn về quá trình xây dựng quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt đó là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm. Mỗi mặt có vị trí, vai
trị khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Trong đó, quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt cơ bản quyết định... Song, thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới, chúng ta có những nhận thức không
đúng về quan hệ sở hữu và về quan hệ sản xuất. Điểm nổi bật ở đây là chúng ta
đã tuyệt đối hoá mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng ta đã đẩy nhanh quá
trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, xố bỏ hình thức sở hữu tư bản tư nhân và các
hình thức sở hữu khác để xác lập chế độ công hữu với hai hình thức sở hữu tồn
dân và sở hữu tập thể. Trước hội nghị TW6 khóa IV (8-1979), nền kinh tế nước
ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Đây là cơ chế kinh tế được hình
thành ở Liên Xô trong những năm tiến hành công nghiệp hóa và sau đó được áp
dụng trong tất cả các nước XHCN. Mặc dù có những khiếm khuyết vốn có,
nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế theo chiều rộng, tăng trưởng về số
lượng là chủ yếu, cơ chế kinh tế này đã tạo nên những kết quả quan trọng trong


11
q trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Khi
nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ
sở áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ; cơ chế kinh
tế này đã bộc lộ những khuyết điểm của nó và đã làm cho nền kinh tế trì trệ rơi
vào khủng hoảng, trong đó có nước ta.
Thực chất chế độ cơng hữu ở nước ta chỉ là hình thức, nhưng chúng ta
lại lầm tưởng rằng chúng ta đã có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Từ
tuyệt đối hoá mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta đi đến tuyệt đối hoá
quan hệ sản xuất, đi ngược lại quy luật kinh tế khách quan là đẩy mạnh việc
xây dựng quan hệ sản xuất để mở đường cho LLSX phát triển mà trái lại đã
kìm hãm LLSX. Từ những luận điểm, lý thuyết như vậy, ở các nước xã hội
chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, đã áp dụng những biện pháp cực đoan về

sở hữu, coi việc xác lập chế độ cơng hữu là mục đích của chính sách, thậm
chí coi đó là tiêu chuẩn đánh giá trình độ xã hội hố, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội.
Như vậy, với chế độ cơng hữu hình thức áp đặt, chúng ta đã nhanh chóng
xố bỏ các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
đã triệt tiêu động lực kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển tiêu cực, sản xuất
không phát triển, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Sự vận dụng lý luận chế độ sở hữu của Đảng ta trước đổi mới đã có
những kết quả nhất định góp phần vào cơng cuộc kháng chiến giải phóng
đất nước. Tuy vậy, q trình vận dụng đó đã có những sai lầm, khuyết điểm
nhất định như cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 chỉ rõ: “Trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tịi,
xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền
kinh tế nhiều thành phần”6.
Từ sau hội nghị TW6 khóa IV đến trước đại hội VI, dưới áp lực của
tình thế khách quan; nền kinh tế nước ta đã có cải tiến theo hướng thị
trường chủ yếu ở cấp vi mơ, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu
đồng bộ. Những bước cải tiến mới như khốn sản phẩm trong nơng nghiệp
theo chỉ thị 100 – CT/TW của ban bí thư khóa IV, nghị quyết TW8 khóa V
về giá, lương, tiền (1985)… là những căn cứ thực tế để Đảng ta đi tới
6

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb ST, H, 1991, Tr: 4


12
quyết định thay đổi cơ chế kinh tế tại Đại hội VI (1986). Từ đại hội VI đến

hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001) là thời kỳ đổi mới toàn diện, cả cấu trúc
và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX, X, XI của Đảng đều khẳng định xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình hình thành và phát triển tư duy về sở hữu gắn liền với hình thành
và phát triển thị trường. Hơn 26 năm đổi mới là hơn 26 năm, chúng ta xử lý lại
bài tốn sở hữu, xố bỏ chế độ độc tơn một loại hình sở hữu. Từ Đại hội VI của
Đảng (năm 1986) đã mở đầu cho công cuộc đổi mới của toàn Đảng, toàn dân ta.
Đảng ta đã chỉ ra những thiếu sót khuyết điểm trong nhận thức và chỉ đạo về sở
hữu nói riêng cũng như việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của LLSX. Báo cáo chính trị đã khẳng định:
Trong nhận thức và trong hành động chúng ta chưa thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất và LLSX. Đại hội đã đánh giá; “LLSX bị kìm hãm khơng
chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu
tố đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX” 7. Với đường lối đổi mới đúng
đắn, sáng tạo của Đảng, trên cơ sở chỉ ra những thiếu sót, Đảng ta đã có những
nhận thức mới đúng đắn khoa học về vấn đề sở hữu, từng bước khắc phục chế
độ cơng hữu hình thức và khơi dậy được những động lực của nền kinh tế. Nghĩa
là thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất. Từ đó, thay đổi cơ chế quản lý và cơ chế phân phối, cụ thể là chuyển từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ phân phối bình quân sang phân phối
theo lao động và tài sản đóng góp. Đồng thời đã nhận thức rõ hơn các quyền
như quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền thừa kế, chuyển nhượng, nhờ đó khắc
phục được tình trạng vơ chủ như trước đây. Với chủ trương phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, với chế độ sở hữu đa dạng, cũng từ đó nhân dân có quyền
phát huy sức lực, trí tuệ, cơ sở vật chất, quan hệ, tạo thêm nhiều việc làm và của

cải, làm giàu cho mình và làm giàu cho xã hội, sức mạnh to lớn của nguồn lực
con người được sử dụng tối đa nhờ thay đổi quan hệ sở hữu.
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb CTQG, H. 1987, tr. 57.


13
Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VII của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2000, Đảng ta khẳng định: Trong nền kinh tế ở nước ta cịn
tồn tại ba hình thức sở hữu là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, và sở hữu tư
nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều hình thức sở hữu khac nhau về tư liệu sản
xuất. Đây là một bước tiến quan trọng trong nhận thức và tư duy của Đảng về
phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã đưa ra được
những chủ trương đúng đắn như sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và LLSX.
Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần và thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần. Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991, Đảng ta
khẳng định: “Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
cần nắm vững những phương hướng cơ bản sau đây: … Ba là, phù hợp với sự
phát triển của LLSX, cần thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”8.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996), đã có bước tiến mới trong nhận
thức và tổng kết thực tiễn những thành tựu của cơng cuộc đổi mới, trong đó có
việc xử lý một cách khoa học các vấn đề về hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất ở nước ta.
Tiếp tục phát triển những tư tưởng của Đại hội VII và VIII về sở hữu, Đại

hội IX khẳng định thêm một số tư tưởng đó là: “Chế độ công cộng (công hữu)
về sở hữu tư liêu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế
tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ
là một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình
thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tịi, thử nghiệm để xây dựng chế độ
sở hữu cơng cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi
vững chắc. Và, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả sản xuất, quan hệ sản
xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển LLSX, cải thiện
đời sông nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”9. Nghị quyết cho rằng: “Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
8

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H, 1991, Tr: 4
9

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 87.


14
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” 10 và “
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân hình thành nên nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”11.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Đại hội IX, Đại hội lần thứ X
của Đảng (2006) đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, đó là: “phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu”; “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành

nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi”; xố bỏ mọi sự phân biệt đối sử theo
hình thức sở hữu”.
Đại hội XI của Đảng (2011) chỉ rõ: “Khuyến khích phát triển các hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh
nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế,
thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
của nền kinh tê”. Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục thể chế hóa quan điểm của
Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu
tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế; xây dựng và hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với tài sản mới như sở hữu
trí tuệ, cổ phiếu...”.
Chính sự thừa nhận trên đây của Đảng ta về vị trí quan trọng, lâu dài
của kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác cùng nhiều hình thức sở
hữu góp phần làm thay đổi quan niệm của một số người cho rằng trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ cần phát triển nền kinh tế với hai
hình thức sở hữu tồn dân và tập thể. Chúng ta có thể thấy, trong một tổ chức
kinh tế thường có sự hiện diện của nhiều quan hệ sở hữu khác nhau như sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân v.v.. Đồng thời cũng phải nhận
thức đúng đắn những lý do thiết yếu trong quan điểm của Đảng về “vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế” của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, trong khi chủ trương
coi kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng kinh tế
10
11

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 87.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 96.



15
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế thì cũng
cần thấy vai trị quan trọng của các thành phần kinh tế khác. Chúng ta chủ
trương: kinh tế nhà nước là chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nhưng
khơng nên coi chỉ có những thành phần kinh tế này mới là kinh tế xã hội
chủ nghĩa còn các thành phần kinh tế khác là phi xã hội chủ nghĩa. Vì,
chúng ta lấy tiêu chí định hướng xã hội chủ nghĩa là: dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; về LLSX phải khai thác mọi nguồn
lực trong đó nội lực là quyết định bảo đảm sự phát triển bền vững của nền
kinh tế làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật,
được tự do kinh doanh lành mạnh. Về mặt xã hội phải bảo đảm thực hiện
dân chủ và công bằng, đời sống của mọi thành viên được nâng cao, mọi
người đều được làm giàu chính đáng bằng sức lao động của mình… Do
đó, khơng nên phân biệt đối xử mang tính kỳ thị đối với các thành phần
kinh tế tư nhân và sở hữu tư nhân. Chúng ta cũng thừa nhận rằng: động
lực cá nhân dựa trên sở hữu tư nhân và lợi ích cá nhân là một thuộc tính
bản năng của con người sẽ còn tồn tại lâu dài. Nếu chúng ta biết sử dụng
động lực này cho thật tốt sẽ có lợi trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Từ đó khẳng định, trong điều kiện nước ta hiện nay thừa nhận sở hữu
tư nhân, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân hồn tồn khơng mâu
thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn sự vận động và phát triển
của đất nước đã chứng minh sự đúng đắn trong quan niệm của Đảng cộng
sản Việt Nam về sở hữu và các thành phần kinh tế. Đây là kết quả của một
q trình nhận thức của Đảng thơng qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Thực chất xóa bỏ chế độ tư hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
xóa bỏ chế độ tư hữu với tư cách là chế độ tư hữu đặc trưng, giữ vai trò

thống trị để thiết lập chế độ công hữu, chứ không phải xóa bỏ chế độ tư hữu
nói chung. Xố bỏ chế độ tư hữu thiết lập chế độ công hữu là một q trình
lâu dài cần có những hình thức kinh tế q độ và những bước đi thích hợp.
Q trình đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của LLSX cùng với những
điều kiện kinh tế, lịch sử xã hội khác quy định. Vì vậy, Đảng ta chủ trương
xây dựng và phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đó là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin vào


16
điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam hiện nay, phù hợp
với quy luật vận động của xã hội xét cả về mặt lơgíc và lịch sử.
Đảng ta xác định nền kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đây là một tất yếu khách quan của
loài người và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là hướng tới sự phồn thịnh,
bình đẳng và văn minh, trong đó vấn đề bình đẳng là then chốt nhất. Vì
vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình
sử dụng kinh tế thị trường hướng vào việc phục vụ một xã hội phồn thịnh,
bình đẳng và văn minh, trong đó Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định cho định hướng đó. Cũng
cần nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam trong thời kỳ quá độ là nền kinh
tế hàng hố có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế...; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Tóm lại, thực chất sự đa dạng về các hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là dựa trên
cơ sở ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân - hình thành nhiều
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu bao

gồm: sở hữu tồn dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu hổn hợp. Các
hình thức sở hữu mang bản chất riêng, nhưng lại tồn tại trong một kết cấu kinh
tế quá độ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau; vừa tồn tại độc lập vừa đan
xen hỗn hợp lẫn nhau tạo nên các tổ chức kinh doanh đa dạng. Trong đó sở
hữu tồn dân và sở hữu tập thể ngày càng đóng vai trị quan trọng, trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân, định hướng cho các hình thức sở hữu khác
trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Bản chất chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu. Chế độ công hữu thể hiện ở chỗ
mọi thành viên trong xã hội là chủ của tư liệu sản xuất và các tài nguyên khác
của xã hội. Trong xã hội khơng ai có quyền chiếm đoạt tư liệu sản xuất để làm
phương tiện bóc lột lao động của người khác. Sự thiết lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất là một nhu cầu khách quan, do yêu cầu quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triễn của LLSX trong từng ngành, từng
lĩnh vực, từng cơ sở sản xuất kinh doanh, từng giai đoạn nhất định...


17
Đảng ta xác định rõ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh
tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó chế độ cơng hữu xã hội chủ về
TLSX được thiết lập ở những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, quá
trình phát triển sở hữu toàn dân và tập thể sẽ trở thành nền tảng của hệ thống
các hình thức sở hữu và định hướng phát triễn cho các loại hình sở hữu khác.
Đảng và nhà nước khơng chủ trương xố bỏ tư hữu nói chung vì sự chuyển
hố quan hệ sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chủ trương của Đảng ta
là xoá bỏ việc sử dụng chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất với tư cách là một quan hệ thống trị.
Đối với nước ta hiện nay, có sự đa dạng và tính chất hỗn hợp đan xen
giữa các hình thức về quan hệ sở hữu là tất yếu khách quan, bởi lẽ:
Thứ nhất, con đường phát triển của nước ta hiện nay là con đường phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ

qua việc xác lập của vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tằng tư bản chủ nghĩa. Do vậy, chúng ta phải sử dụng các hình thức kinh tế
trung gian, quá độ khi có sự hiện diện, đan xen của các kết cấu kinh tế hỗn
hợp là một đòi hỏi bức thiết, một nhu cầu không thể thiếu.
Thứ hai, trong điều kiện LLSX chưa có sự phát triển đồng bộ, tất yếu phải
tồn tại của một hệ thống quan hệ sản xuất đa dạng, các hình thức và quan hệ sở
hữu thích ứng, đảm bảo cho sợ phù hợp sinh động của chúng đối với trình độ
phát triển của LLSX đó và thúc đẩy lược lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Thứ ba, việc sử dụng nhiều trình độ, nhiều hình thức kinh tế với nhiều
cấp độ khác nhau nhằm khai thác triệt để mọi năng lực sản xuất cho sự nghiệp
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố với mục tiêu đưa nước ta nhanh
chóng thốt khỏi tình trạng của một nước kém phát triển.
Với một xã hội có những đặc điểm như ở nước ta hiện nay, việc thực hiện
một mơ hình kinh tế mà trong đó, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau, thậm
chí đối lập nhau cùng tồn tại là một phương án tối ưu để thúc đẩy nền kinh tế
phát triển năng động. Vấn đề đa dạng hoá sở hữu hay sự tồn tại của một nền
kinh tế nhiều hình thức sở hữu là vấn đề tất yếu khách quan, lâu dài trong suốt
thời kỳ quá độ lên CNXH. Quan niệm này xuất phát từ quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, LLSX càng phát triển thì mối quan hệ giữa người với người trong sản
xuất càng đa dạng, phong phú và càng có nhiều hình thức sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất hơn.


18
Trên thực tế, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, nền kinh tế
nước ta đã có sự chuyển hướng: từ một nền kinh tế thuần nhất về thành phần
kinh tế và hình thức sở hữu chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần với
nhiều hình thức sở hữu đa dạng. Chính sách kinh tế nhiều thành phần là sản
phẩm của việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất

và trình độ phát triển của LLSX, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, phù hợp với
thực tiễn nước ta, một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Thực tiễn đó đã chứng minh, chính sách kinh tế nhiều thành phần
đã góp phần giải phóng, khơi dậy và phát triển các tiềm năng kinh tế, LLSX
của đất nước, đưa đến những thành tựu to lớn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Hơn 26 năm qua với sự nỗ lực phấn đấu
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta công cuộc đổi mới đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tồn diện. Trong nền kinh tế
nhiều thành phần có sự tồn tại, đan xen, kết hợp nhiều chế độ sở hữu khác nhau:
chế độ sở hữu tồn dân, tập thể, tư nhân; hình thành nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế. Điều đó đã minh chứng rằng, việc vận dụng một cách
đúng đắn, sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sẽ tồn tại và
phát triển ngược lại nếu áp dụng một cách máy móc, giáo điều, dập khn, chủ
quan duy ý chí sẽ dẫn đến thất bại. Vì vậy, vấn đề chế độ sở hữu trong xã hội
chủ nghĩa cần phải nhận thức một cách đúng đắn, đặc biệt là những vấn đề có
tính ngun tắc của chủ nghĩa xã hội như: vấn đề thủ tiêu chế độ tư hữu, xác lập
chế độ công hữu.
Mặt khác, cần phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái phản
động khi cho rằng: các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn chưa
thoát khỏi tính chất khơng tưởng trong quan niệm về chế độ sở hữu của chủ
nghĩa xã hội, không tưởng trong việc xây dựng lý luận chế độ sở hữu. Đồng
thời phải nhận thức rằng: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở nước ta đó là một kiểu phát triển rút ngắn đúng với quy luật,
chứ khơng hề chủ quan nóng vội đốt cháy giai đoạn. Đó là sự quá độ gián tiếp
lên chủ nghĩa xã hội, là việc rút ngắn những cơn đau đẻ kéo dài, nghĩa là rút
ngắn giai đoạn và bước đi của tiến trình lịch sử lên chủ nghĩa xã hội. Bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học, công nghệ để phát



19
triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Phương thức bỏ qua đó là
một q trình đầy khó khăn, phức tạp, tất yếu phải lâu dài và trải qua nhiều
chặng đường, qua nhiều khâu trung gian, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất q độ.
3. Một số đề xuất góp phần hồn thiện quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Để hoàn thiện quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là một q trình khó khăn
phức tạp cần tiếp tục tìm tịi nghiên cứu bổ sung phát triển, nhưng theo tôi
chúng ta cần làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp nhà nước theo
hướng giảm số lượng, tỷ trọng và tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này.
Việc làm này tạo ra sức mạnh và trạng thái mới cho sở hữu nhà nước hay rộng
hơn là kinh tế nhà nước.
Số lượng các doanh nghiệp nhà nước từ khoảng 12 nghìn đã được giảm
xuống cịn khoảng 6 nghìn. Quan niệm cứng nhắc về việc các doanh nghiệp nhà
nước phải chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế cũng đã thay đổi. Hơn nữa,
việc các doanh nghiệp nhà nước đã và đang được cổ phần hố đánh dấu việc
chấm dứt tình trạng độc tôn của một chủ sở hữu. Nhà nước chỉ sở hữu một phần
nhất định vốn và tài sản của doanh nghiệp thay cho việc sở hữu hoàn toàn trước
đó. Q trình cổ phần hố vẫn được tiếp tục tiến hành và hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp đã qua cổ phần hoá đang được nâng lên. Các doanh
nghiệp cũng được trao quyền tự chủ rất lớn, được tự do cạnh tranh và có thể bị
giải thể, phá sản, hợp nhất, chuyển nhượng, bán khoán, cho thuê… Điều này
làm cho các quan hệ sở hữu tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước vận động
theo đúng thực chất của nó và quan trọng hơn là phù hợp với khả năng quản lý
của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, đã xuất hiện hình thức sở hữu mới – sở hữu của

các tổng cơng ty theo hướng tập đồn kinh doanh và xuất hiện cơ chế công ty
mẹ – công ty con. Đây là việc sử dụng tác động của các hình thức tổ chức kinh
doanh mới để tạo nên cấp độ mới của sở hữu theo xu hướng vận động chung
của nền kinh tế thị trường tồn cầu.
Thành cơng của quá trình tổ chức, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà
nước nói riêng và kinh tế nhà nước đã khẳng định tính đúng đắn của chính sách
đổi mới. Các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn vì trách nhiệm của người
quản lý được đề cao. Khơng cịn tình trạng “cha chung khơng ai khóc” như thời


20
gian trước. Như vậy có thể thấy, chế độ sỡ hữu tồn dân hay sở hữu cơng cộng
hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở trình độ
phát triển sản xuất đạt đến trình độ rất cao, khả năng làm chủ (thực chất là khả
năng quản lý) đạt đến trình độ rất lớn. Do đó, mọi ý chí áp đặt chủ quan các
hình thức sở hữu vượt quá khả năng quản lý của chủ sở hữu thực chất là phi
kinh tế và trái quy luật, không thể tồn tại. Việc loại bỏ sự độc quyền của các
doanh nghiệp nhà nước nhưng vẫn bảo đảm duy trì vai trị chủ đạo của kinh tế
nhà nước để nền kinh tế vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự
chuyển biến quan trọng trong nhận thức về sở hữu. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp nhà nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung, để thực hiện được vai
trị chủ đạo, cần đi đầu trong việc ứng dụng khoa học-công nghệ, nêu gương về
năng suất-chất lượng-hiệu quả và tăng khả năng cạnh tranh quốc tế.
Thứ hai, phát triển hình thức sở hữu tư nhân thơng qua việc cho phép và
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã
phát huy hiệu quả rõ rệt. Đây là sự chuyển biến rất lớn về nhận thức đối với vị
trí và vai trị của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Số doanh
nghiệp tư nhân đã “bùng lên” sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời và cho đến nay
đã đạt con số hàng chục vạn (khoảng 80 vạn) và giải quyết hàng triệu việc làm
cho dân cư. Tỷ trọng của kinh tế tư nhân đã tăng lên trong cơ cấu các thành

phần kinh tế và trong đóng góp vào GDP. Các loại thủ tục đăng ký doanh
nghiệp đã được đơn giản hoá và đã bước đầu thực hiện việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp qua “mạng”- một xu hướng tạo sự đơn giản và thuận lợi cho các
doanh nhân. Các doanh nghiệp tư nhân đã ngày càng được hưởng sự đối xử
bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác. Điều này đã khẳng
định thêm thực chất của sự chuyển động của sở hữu tư nhân.
Thứ ba, tiếp tục thúc đẩy sự phát triển sở hữu của các nhà đầu tư nước
ngồi. Vốn đầu tư, cơng nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các
nhà đầu tư nước ngoài được coi là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế. Sự
kiểm soát sở hữu đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã được giảm bớt và các
nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu 100% vốn của doanh nghiệp. Đồng thời,
các nhà đầu tư nước ngoài cịn có quyền tham gia vào các dự án đầu tư quy mơ
lớn có khả năng chi phối đến thị trường của cả nước chỉ trừ những dự án thuộc
danh mục cấm đầu tư. Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngồi có quyền tham gia
lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp. Cho đến nay vốn đầu tư nước ngoài đã
chiếm gần 1/3 tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội. Các chính sách bảo hộ và


21
khuyến khích đầu tư nước ngồi đã được sửa đổi theo hướng tạo thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Ngoài quyền sở hữu về vốn và tài sản
hợp pháp không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính hoặc
quốc hữu hố, nhà đầu tư nước ngồi cịn được bảo hộ cả quyền sở hữu cơng
nghiệp. Các nhà đầu tư nước ngồi đang dần dần được đối xử bình đẳng như
các nhà đầu tư trong nước. Đồng thời, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi có thể kết hợp đan xen các hình thức sở hữu (tư nhân, tập thể, cơng
cộng). Các doanh nghiệp này được chuyển đổi hình thức đầu tư mà thực chất là
chuyển đổi sở hữu. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể chuyển
thành hình thức doanh nghiệp liên doanh. Hình thức doanh nghiệp liên doanh
có thể chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi và từ hình thức

này có thể chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư trong nước.v.v…
Đây là yếu tố bảo đảm cho quan hệ sở hữu vận động theo đúng bản chất của nó.
Thứ tư, phát triển hình thức sở hữu tập thể đặc biệt là sở hữu của các hợp
tác xã theo Luật Hợp tác xã và hình thức sở hữu theo nhóm khác. Đây là hình
thức sở hữu mềm dẻo và phù hợp với kiểu tổ chức các hoạt động kinh doanh
theo nhóm, theo vùng, theo địa phương và theo cộng đồng ở Việt Nam cũng
như xu hướng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc lựa chọn quy mơ sở
hữu này là thích hợp với trình độ phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay. Đồng thời, hình thức kinh tế trang trại cũng đã được phát triển ở một
số vùng trung du và miền núi. Chính sách giao đất, giao rừng hàng chục năm,
phù hợp với mục tiêu khai thác các nguồn lực phát triển kinh tế vùng và nguyện
vọng của đơng đảo quần chúng nhân dân, đã góp phần khai thác có hiệu quả
các nguồn tài nguyên tại chỗ, tạo lợi ích cho dân cư và phúc lợi cho cộng đồng.
Thứ năm, các điều kiện hỗ trợ cho việc điều chỉnh quan hệ sở hữu tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện như việc điều chỉnh các chính sách theo các nguyên tắc
và thơng lệ quốc tế, tham gia q trình tự do hố thương mại khu vực và thúc
đẩy q trình tham gia tiến trình tự do hố thương mại tồn cầu.
Thứ sáu, để giữ vững nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tính khơng hoàn hảo của thị trường, bảo đảm sự ổn định về
kinh tế – xã hội, hạn chế rủi ro do thiên tai, chiến tranh, sự biến động của thị
trường thế giới gây ra, chúng ta tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau:
- Nâng cao hiệu quả sở hữu nhà nước, vai trò của kinh tế nhà nước trong
hệ thống các loại hình sở hữu đa dạng, hỗn hợp, đan xen trong các thành phần
kinh tế. Kinh tế nhà nước phải có khả năng giữ vai trị chủ đạo, dẫn dắt (đi đầu


22
trong các ngành mũi nhọn, cơng nghệ cao, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao và cạnh tranh quốc tế có hiệu quả).
- Tiếp tục bảo đảm thể chế pháp lý quốc gia chặt chẽ, thống nhất và phù

hợp với thông lệ quốc tế để tăng hiệu quả của các hình thức sở hữu đã được đa
dạng hố. Bên cạnh sở hữu nhà nước là nền tảng, cần tiếp tục bảo vệ, khuyến
khích và đặc biệt khuyến khích phát triển sở hữu tập thể, sở hữu của các nhà
đầu tư nước ngoài và sở hữu tư nhân đồng thời với việc phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước. Cho phép tư nhân và các nhà đầu tư nước ngồi cùng
tham gia vào các dự án có quy mô lớn gắn với việc mở rộng lĩnh vực và hình
thức, phương thức thu hút đầu tư. Do vậy, hệ thống pháp luật cần được hoàn
thiện để bảo đảm khung khổ pháp lý chặt chẽ, ổn định cho sự vận động hợp quy
luật của quan hệ sở hữu.
- Coi trọng việc phát triển mạnh cơ sở hạ tầng của nền kinh tế để tạo điều
kiện vật chất cho các hoạt động kinh tế diễn ra thông suốt cả trong nước và với
nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả các quan hệ sở hữu. Các điều kiện cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và xã hội cần được phát triển theo hướng hiện đại hố đặc biệt là
hệ thống đường giao thơng, cảng biển, sân bay, hệ thống thông tin liên lạc…
Đơn giản hố các loại thủ tục hành chính ở các đầu mối quan trọng đặc biệt là
các cửa ngõ và trung tâm giao dịch kinh tế quốc tế. Phát triển mạnh cả về số
lượng và chất lượng các loại hình dịch vụ phục vụ hoạt động kinh doanh của
các chủ sở hữu như dịch vụ thông tin liên lạc, tư vấn, tài chính-ngân hàng, bảo
hiểm, nghiên cứu – triển khai…
- Tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị và an ninh, tạo lòng tin cho các
nhà đầu tư trong nước và nước ngồi vào tính nhất qn của chính sách đổi mới
và khả năng bảo vệ cao các quyền sở hữu hợp pháp của họ. Đây là điều kiện để
các chủ sở hữu yên tâm di chuyển các đối tượng sở hữu có khả năng sinh lợi
cao (vốn đầu tư lớn, công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý tiên tiến) của họ vào
kinh doanh lâu dài tại Việt Nam. Đồng thời, cần có biện pháp và cơ chế làm
thất bại mọi âm mưu phá hoại công cuộc đổi mới nền kinh tế của các thế lực
thù địch trong và ngoài nước đặc biệt là âm mưu lợi dụng những điều chỉnh về
sở hữu và mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài để làm biến dạng bản chất xã hội,
gây bất ổn định tình hình chính trị, an ninh và tiến hành “diễn biến hồ bình”.
- Chú trọng lớn đến việc phát triển nguồn nhân lực cả về bản lĩnh chính trị

và chun mơn, có khả năng thực hiện có hiệu quả các quan hệ sở hữu đa dạng
hố. Từng bước hình thành thế hệ tài năng Việt Nam biết phát huy những lợi


23
thế về sở hữu và sử dụng tốt các nguồn lực phát triển quốc gia trong quá trình
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

KẾT LUẬN
Vấn đề sở hữu đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra
rằng: mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ xã hội cũ thiết lập chế độ
xã hội mới bao giờ cũng phải đưa vấn đề sở hữu “lên hàng đầu” và coi đó là
“vấn đề cơ bản của phong trào”. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và nhận thức
đúng đắn khoa học về chế độ sở hữu và kinh tế nhiều thành phần có vai trò rất
quan trọng trong việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế – xã hội, xây
dựng thành công CNXH ở nước ta. Những thành tựu mà nước ta đã đạt được
trong công cuộc đổi mới sau hơn 26 năm qua đã minh chứng một chân lý rằng:
Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam đã có sự vận dụng một cách linh hoạt, trí
tuệ và đầy sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có lý
luận về chế độ sở hữu vào điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Việc nghiên cứu
lý luận chế độ sở hữu không chỉ trang bị cho chúng ta những nhận thức sâu sắc
hơn về những nguyên lý, quy luật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin, bổ sung và phát
triển học thuyết Mác trong điều kiện hoàn cảnh, lịch sử mới, đấu tranh chống
chủ nghĩa cơ hội xét lại hoặc bảo thủ, giáo điều, quan liêu, tham nhũng mà còn
là cơ sở để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta quyết tâm xây dựng một nước
Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hồn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.




×