Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế đối NGOẠI NHỮNG vấn đề ôn LUYÊN THI KINH tế đối NGOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.7 KB, 52 trang )

1
CÁC VẤN ĐỀ ÔN LUYỆN KTĐN

VĐ 1: Phân tích thành tựu, hạn chế của khu CNC. So sánh khu công nghiệp,
khu chế suất. Đề xuất giải pháp phát triển khu CNC trong thời gian tới
Trả lời:
Khu CNC là khu có có ranh giới xác định; nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
công nghệ cao, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao; sản xuất – kinh doanh công
nghệ cao.
Khu công nghệ cao có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo môi trường thuận lợi
thu hút FDI trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là thu hút các tập đoàn đa quốc
gia. Khu công nghệ cao còn là nơi thu hút, tập hợp lực lượng trí thức KH&CN trong
cả nước, trí thức Việt kiều và các nhà KH&CN nước ngoài trong nghiên cứu, sáng tạo
và chuyển giao công nghệ trực tiếp cho sản xuất và ươm tạo doanh nghiệp công nghệ
cao.
* Các khu CNC ở nước ta hiện nay
Đến nay, nước ta đã thành lập được 3 khu CNC, bao gồm khu CNC Hòa Lạc,
khu CNC Thành phố Hồ Chí Minh và khu CNC Đà Nẵng.
* Đánh giá thành tựu của các khu CNC
- khu CNC Hòa Lạc: được khởi công xây dựng vào 6/1996, đây được coi là
một cột mốc quan trọng của Khu CNC Hòa Lạc, với nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển
và ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp và đào tạo nhân lực CNC, sản
xuất kinh doanh sản phẩm CNC. Tính đến 5/2015, có trên 10.000 người đang học tập
và làm việc tại đây, hiện nay có 33/67 dự án đang hoạt động, 10 dự án trong quá trình
xây dựng, 22 dự án đang hoàn thiện thủ tục để triển khai.
- Khu CNC Thành phố HCM
KCNC TP. Hồ Chí Minh với tổng diện tích 913 ha, cách trung tâm thành phố,
cảng Sài Gòn và sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chỉ 15-17km. Nằm ở giữa 43 khu
công nghiệp và khu chế xuất - hạt nhân của vùng kinh tế động lực phía Nam, đặc biệt



2

là sát cạnh Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. KCNC TP. Hồ Chí Minh là địa điểm
lý tưởng cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao.
KCNC TP. Hồ Chí Minh phát triển theo mô hình là một khu kinh tế kỹ thuật,
thu hút đầu tư nước ngoài và huy động các nguồn lực khoa học công nghệ cao trong
nước. Đây là nơi tập trung lực lượng sản xuất hiện đại, kết hợp sản xuất kinh doanh –
nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao, phát triển công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân
lực cho nghiên cứu và sản xuất công nghệ cao.
Hiện nay, KCNC TP. Hồ Chí Minh tập trung thu hút đầu tư các ngành công
nghệ cao thuộc 4 lĩnh vực: Công nghệ vi mạch bán dẫn, công nghệ thông tin và viễn
thông; Công nghệ tự động hóa, cơ khí chính xác; Công nghệ sinh học áp dụng cho y
tế, dược phẩm và môi trường; Công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano và năng
lượng.
- Triển vọng thu hút đầu tư công nghệ cao vào KCNC là rất rõ ràng và sáng sủa
- nhất là sau khi tập đoàn Intel quyết định đầu tư vào KCNC. Hiện nay, có 39 dự án
đăng ký đầu tư với tổng vốn khoảng 850 triệu USD và 85 ha đất. Ngoài việc thu hút
các dự án sản xuất công nghiệp CNC, một số tập đoàn, công ty lớn cũng có ý định
đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ cao cấp mà trong nước chưa có vào KCNC TP.
Hồ Chí Minh.
- Khả năng tiếp cận công nghệ cao thế giới là hiện thực - qua những kết quả
ban đầu của Trung tâm R&D Khu CNC. Việc kết hợp – nhà doanh nghiệp, nhà khoa
học, nhà nước trong một qui trình ”thị trường – nghiên cứu, chuyển giao, ươm tạo, áp
dụng công nghệ - thị trường” là có cơ sở thực hiện trong KCNC TP. Hồ Chí Minh.
Khu công nghệ cao Đà Nẵng
Được thành lập từ tháng 10/2010 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Đây là Khu công nghệ cao đa chức năng thứ ba của cả nước sau khu công nghệ cao
Hòa Lạc-Hà Nội và khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 10/2012, Khu công nghệ cao đã thu hút được nhà đầu tư đầu tiên Tokyo
Keiki với dự án Tokyo Keiki Precision-Technology, tổng vốn đầu tư 40 triệu USD,

tương đương 840 tỷ đồng. Tháng 6/2013, Ban Quản lý Khu công nghệ cao Đà Nẵng


3

tiếp tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho dự án Niwa Foundry Việt Nam, tổng vôn
đầu tư 21,87 triệu USD, tương đương 461 tỳ đồng và quy mô tổng diện tích gần 3ha.
Hạn chế của các khu CNC hiện nay
Bên cạnh một số kết quả nêu trên, nhìn chung, tiến độ xây dựng và triển khai
ba Khu CNC còn chậm, đặc biệt trong việc giải phóng mặt bằng và thu hút đầu tư.
Các dự án sản xuất sản phẩm CNC đầu tư vào ba khu nhìn chung có quy mô chưa
lớn. Cả ba khu còn lúng túng trong việc điều chỉnh quy hoạch chung khu CNC, trong
việc xây dựng khu chức năng về nghiên cứu trong khu CNC, một trong những khu
chức năng quan trọng nhất cho sự phát triển khu CNC.
Một số bất cập đã được bộc lộ trong việc xây dựng và phát triển ba Khu CNC ở
nước ta thời gian qua là: còn lúng túng trong định hướng phát triển lĩnh vực, CNC được
ưu tiên tập trung đầu tư, trong việc xác định mô hình hoạt động của từng khu chức năng
và sự liên kết giữa các khu chức năng trong khu CNC. Các Ban quản lý cũng chưa xác
định được mô hình phù hợp cho quản lý, vận hành khu CNC. Sự chậm trễ về giải phóng
mặt bằng do sự phân công trách nhiệm chưa rõ ràng giữa Ban quản lý khu CNC và
chính quyền địa phương và do chưa có kế hoạch cụ thể cho việc tái định cư. Thủ tục
hành chính rườm rà, không kịp thay đổi với các biến động giá cả, thị trường làm chậm
trễ việc xét duyệt và triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Sự thiếu hụt
trầm trọng và chưa sẵn sàng về nguồn nhân lực CNC ở các vị trí công việc khác nhau là
nguyên nhân chủ yếu chưa thu hút được các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC cũng
như các dự án đầu tư cho NC&PT vào hai Khu CNC ở nước ta.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do: cơ chế chính sách chưa đồng bộ, quy
định thiếu rõ ràng, chồng chéo, hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách chưa phù hợp
với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; công tác quy hoạch xây dựng khu CNC kéo dài,
chưa gắn với thực tiễn và mục tiêu đặt ra, vẫn còn chủ quan và thiếu căn cứ khoa học,

kết quả là chậm triển khai dự án của các nhà đầu tư vào khu CNC; đầu tư cơ sở hạ tầng
của khu CNC còn phân tán và dàn trải, thời gian xây dựng kéo dài làm mất cơ hội kinh
doanh của các nhà đầu tư vào khu CNC; các biện pháp khuyến khích đầu tư không
nhất quán, thiếu rõ ràng nên chưa tạo lòng tin cho các nhà đầu tư vào khu CNC; quy


4

mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ, hệ thống kế toán, kiểm toán còn nhiều
khiếm khuyết và thông tin không minh bạch làm hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư
gián tiếp; khoảng cách giữa quỹ đầu tư và các doanh nghiệp cách biệt, dẫn đến tình
trạng tiếp cận nguồn vốn đầu tư bị hạn chế; cơ sở hạ tầng còn yếu kém, không hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài; đội ngũ cán bộ quản lý và lao động tay nghề cao vừa thiếu,
vừa yếu nên chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghiệp CNC.
Giải pháp phát triển khu CNC
Thứ nhất, cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thu hút vốn đầu tư phát triển khu CNC.
Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển khu
CNC: xây dựng cơ chế chỉ đạo điều hành thống nhất từ các cơ quan thành phố đến
khu CNC; xây dựng cơ chế quản lý tài chính rõ ràng, minh bạch nhằm thu hút vốn
đầu tư vào khu CNC; xây dựng mức ưu đãi về thuế để thu hút vốn đầu tư trong nước,
đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài; xây dựng quy trình đầu tư và thanh toán vốn
đầu tư theo hướng chú trọng đến việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát, tăng chi phí đầu tư
vào lĩnh vực CNC.
Thứ ba, đổi mới công tác quản lý, quy hoạch và nhập khẩu CNC, nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch khu CNC để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước;
hoạch định chiến lược và lựa chọn nhập khẩu CNC thông qua kênh thu hút vốn FDI.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, liên kết với các công ty FDI để
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu CNC.
Thứ năm, thành lập các tổ chức nhằm thúc đẩy việc hình thành doanh nghiệp

CNC, huy động vốn và đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án bằng việc thành lập quỹ đầu
tư mạo hiểm để thúc đẩy việc hình thành doanh nghiệp CNC; thành lập quỹ tiếp thu
và chuyển giao CNC.
Thứ sáu, thiết lập hệ thống quản lý và đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu
cầu phát triển khu CNC...
Phân biệt khu CNC với khu CN, khu chế xuất
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới


5

địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập, trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Trong khu công nghiệp có các loại hình doanh nghiệp sau: doanh nghiệp Việt
Nam thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các bên tham
gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt
động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Các quy định liên quan đến khu công nghiệp cũng được áp dụng đối với khu
chế xuất. Ngoài ra các Khu chế xuất được hưởng quy chế hải quan đặc biệt. Khu chế
xuất và doanh nghiệp chế xuất (doanh nghiệp mà toàn bộ sản phẩm và cung ứng dịch
vụ được xuất khẩu) được hưởng quy chế hải quan của Khu chế xuất. Sản phẩm nhập
vào Khu chế xuất được miễn thuế nhập khẩu.
Khu công nghệ cao là khu kinh tế - kỹ thuật đa chức năng, có ranh giới xác
định, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, nhằm nghiên cứu - phát triển và
ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực
công nghệ cao và sản xuất, kinh doanh sản phẩm công nghệ cao. Trong Khu công

nghệ cao có thể có khu chế xuất, kho ngoại quan, khu bảo thuế và khu nhà ở.
Khu Công nghệ cao khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ thông tin,
truyền thông, công nghệ phần mềm tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vi điện tử,
cơ khí chính xác, cơ-điện tử, công nghệ vật liệu mới...
Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các
Khu công nghệ cao trong phạm vi cả nước. Ban Quản lý Khu công nghệ cao do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Doanh nghiệp khu công nghệ cao có quyền lựa chọn hình thức đầu tư, được
giao đất, thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...


6

VĐ 2: Phân tích đánh giá đầu tư FDI ở VN. Đề xuất giải pháp tăng cường sử
dụng hiệu quả FDI trong điều kiện hội nhập KTQT?
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức
đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập
cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý
cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Vai trò của FDI
FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tao ra những doanh
nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những
nước này. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo
dài. Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát
triển tiếp cận với khoa học-kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp
tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển
trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập
vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nứơc bắt kịp phương thức
quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc

công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. FDI
giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với
nó là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng.
FDI giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công
ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy
động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và
ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư.
Tình hình FDI của Việt Nam
Việt Nam là một nước đang phát triển nên nhu cầu về vốn cho phát triển kinh
tế rất cao. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn đầu tư trực tiếp


7

nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong những năm qua đã tăng lên đáng kể và có đóng
góp nhất định cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Sau gần 30 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút ĐTNN với việc ban hành
Luật ĐTNN năm 1987, cho đến nay đã có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu
tư tại Việt Nam. Tổng số dự án FDI được cấp phép từ năm 1988 đến năm 2008 đã lên
tới 10.981 dự án, đạt tổng số vốn đăng ký là hơn 163,607 tỉ USD. Riêng năm 2007,
Việt Nam thu hút được 21,347 tỉ USD, trong đó giải ngân được 8,030 tỉ USD; trong
các năm 2008 và 2009 kết quả đạt được trong lĩnh vực này thứ tự là 64 tỉ USD (vốn
thực hiện gần 12 tỉ USD) và 21,482 tỉ USD (thực hiện được 10 tỉ USD); năm 2010 thu
hút được 5,92 tỉ USD (thực hiện được 3,4 tỉ USD), tăng 36% so với cùng kỳ năm 2009.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam vượt
qua đáy suy giảm, duy trì tốc độ tăng trưởng dương với mức tăng 5,32%.
Năm 2011, cả nước có 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 198 tỷ
USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%. Đáng chú ý là đầu tư vào lĩnh

vực kinh doanh bất động sản chỉ chiếm 5,8% tổng vốn đăng ký, giảm mạnh so năm
2010 với tỉ lệ 34,3% tổng vốn đăng ký.Và vốn đăng ký năm 2011 tập trung 76,4%
vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, con số này năm 2010 là 54,1%.
Năm 2012, cả nước đã có 1.287 dự án FDI mới được cấp chứng nhận đầu tư,
với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD, bằng 71,2% so với năm 2011. Trong khi đó, có 550
lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư, với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,7 tỷ USD,
tăng gấp 2,3 lần so với năm 2011.
Nếu xét về, công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút được nhiều
sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài nhất, với 549 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng
số vốn cấp mới và tăng thêm là 11,7 tỷ USD, chiếm 71,6% tổng vốn đầu tư đăng ký
trong năm 2012.
Tính chung trong năm 2013, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,35
tỷ USD, tăng 35,9% so với cùng kỳ năm 2012. Con số này đã tăng đáng kể so với con
số được Cục Đầu tư nước ngoài công bố vào cuối năm 2013, là 21,6 tỷ USD. Lúc ấy,
con số được cập nhật đến ngày 15/12/2013.


8

Tính từ đầu năm đến ngày 20/7/2014, cả nước có 889 dự án mới được cấp giấy
chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 6,85 tỉ USD, bằng 99,1% so với cùng kỳ
năm ngoái. Ngoài ra cùng thời gian này, có 300 lượt doanh nghiệp FDI đang hoạt
động tăng vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 2,67 tỉ USD, bằng 53,7% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 7 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam đạt 9,53 tỉ USD, bằng 80,1% so với
cùng kỳ năm 2013.
Có thể nói, trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn cầu và cạnh tranh gay gắt
thì kết quả đạt được trong việc thu hút FDI là một cố gắng nỗ lực lớn của Việt Nam
trong vận động xúc tiến đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư Không chỉ đạt được kết

quả đáng ghi nhận về tốc độ giải ngân trong bối cảnh vốn thu hút mới và vốn tăng
thêm sụt giảm mà chúng ta còn tăng được số dự án, quy mô vốn của dự án.
Một số hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn FDI:
- Cơ cấu phân bổ vốn FDI vào Việt Nam hiện nay còn chưa hợp lý.
- Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp FDI còn thấp, chuyển giao công
nghệ chậm chạp, chuyển giá ra ngoài, khu vực FDI chưa tạo ra được tác động lan
tỏa tới các khu vực kinh tế khác như mong muốn.
Một vấn đề đã được nói đến từ lâu là thủ thuật “chuyển giá” của doanh nghiệp
FDI. Với lợi thế là nguyên phụ liệu được cung cấp bởi công ty mẹ ở chính quốc, phía
đối tác thực hiện “chuyển giá” bằng hình thức tăng giá đầu vào, giảm giá đầu ra,
gây thiệt hại không nhỏ cho Việt Nam.
Tình hình trì hoãn thực hiện dự án và rút vốn đầu tư gia tăng
Nguyên nhân những hạn chế của nguồn vốn FDI
Có thể khẳng định nguyên nhân chủ yếu là do những yếu kém trong nội tại nền
kinh tế của nước ta. Trước hết, quy mô nền kinh tế của Việt Nam còn nhỏ bé, sức hấp
thụ vốn hạn chế nên thực tế này là rào cản lớn cho việc giải ngân để chuyển số vốn
đăng ký thành vốn thực hiện như mong muốn của chúng ta.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư vẫn thiếu sự đồng bộ, nhất
quán. Chính sách đầu tư, cũng như các thủ tục đầu tư của chúng ta còn bị các nhà đầu


9

tư coi là rườm rà, chi phí cao, thiếu tính minh bạch, trong khi đó, hệ thống tòa án,
thực thi pháp luật cũng còn nhiều hạn chế.
Hạn chế về kết cấu hạ tầng là một trong những nguyên nhân chính làm chậm
các dự án đầu tư, nhất là sự yếu kém của hạ tầng giao thông làm các nhà đầu tư rất
quan ngại bởi sẽ gây ra nhiều khó khăn trong việc làm ăn và làm giảm lợi nhuận kỳ
vọng của họ khi đầu tư vào Việt Nam.
Giải pháp

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI:
Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên
quan đến đấu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI phát
triển theo đúng định hướng phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, cần đẩy nhanh việc thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới
chế độ một giá, áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài:
Trước mắt, phải thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng
biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Rà soát có hệ thống các
loại phí, lệ phí đang áp dụng liên quan đến quá trình hoạt động của DN đầu tư nước
ngoài, bãi bỏ các loại phí không cần thiết. Giảm các chi phí đầu vào như điện, viễn
thông, dịch vụ cảng... các chí phí đầu vào này cần giảm bằng hoặc thấp hơn các nước
trong khu vực để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
xuất khẩu. Kiến nghị sửa đổi những bất hợp lý về thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá
nhân liên quan đến đầu tư nước ngoài
Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ: Đổi mới và hoàn thiện chính
sách tiền tệ, phù hợp với yêu cầu kinh doanh của nhiều DN có vốn đầu tư nước ngoài,
các DN này có nhu cầu chuyển tiền ra nước ngoài, cũng như đưa vốn vào Việt Nam
để đầu tư và đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, sử dụng linh hoạt, có hiệu
quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo nguyên tắc thị trường có
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
Thứ tư, giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng
mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm, cho phép các DN tư nhân


10

trong nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài, được cho các nhà đầu tư FDI thuê
lại đất trong thời hạn cấp quyền sử dụng đất. Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu của
DN nước ngoài đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam, cần thế chấp giá trị quyền sử

dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn, để vay vốn của các tổ chức tín dụng
hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp các tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có
khả năng đáp ứng nhu cầu vốn.
Thứ năm, xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có
trình độ cao trong khu vực FDI: Vấn đề tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công
nhân lành nghề luôn là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý nhà nước. Trước hết,
trong liên doanh các cán bộ bên Việt Nam là người đại diện cho quyền lợi phía Việt
Nam nên họ phải là những người có đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Có
như vậy, họ mới đảm bảo được lợi ích cho DN Việt Nam, cho người lao động Việt
Nam khi cần, tránh tình trạng bị ‘lép vế’ trước bên nước ngoài.
Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, song nhân lực có trình độ quản lý
và tay nghề cao lại rất thiếu. Theo thống kê chỉ có gần 30% lực lượng lao động đã
qua đào tạo. Chất lượng lao động lao động không chỉ thấp mà còn chưa đồng đều
chính là những khó khăn khi nhà đầu tư muốn quan tâm tới các dự án công nghệ cao
tại Việt Nam.
Các thủ tục hành chính, hệ thống thuế, hải quan… còn bất cập, không đồng bộ
cũng là những yếu tố góp phần làm nản lòng nhà đầu tư khi hoạt động tại Việt Nam.


11

VĐ 3: Phân tích lợi thế trong phát triển ngoại thương ở VN và các chính sách để
phát huy tốt ngoại thương trong thời gian tới?
Ngoại thương là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ (hàng hóa hữu hình và vô hình)
giữa các quốc gia.
Hoạt động ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hữu hình
và vô hình, gia công tái xuất khẩu, xuất khẩu tại chỗ (bán hàng thu ngoại tệ trong
nước).
Hoạt động ngoại thương giữ một vai trò không nhỏ trong sự phát triển của một
quốc gia trong hoàn cảnh thế giới hiện nay. Ngoại thương nước ta trong thời gian qua

đã thực sự giúp cho nền kinh tế đất nước khai thác thế mạnh trong sản xuất hàng hóa
hướng về xuất khẩu. Ngoại thương đóng góp rất lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và
thay đổi bộ mặt ngành công nghiệp, dịch vụ và cả trong sản xuất nông nghiệp. Để có
thể hiểu rõ chính sách ngoại thương của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, chúng
ta sẽ cùng phân tích những điều kiện thuận lợi cũng như bất lợi cho sự phát triển
ngoại thương của đất nước.
* Lợi thế
1.1- Lợi thế về vị trí địa lý:
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Châu Á, là vùng có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao nhất thế giới, bình quân mỗi nước ở khu vực này mức tăng trưởng kinh tế
đạt 6-7%/năm. Việt Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế đi từ Bắc
Âu, TQ, HQ, NB đi sang các nước Nam Á, Trung Đông, Châu Phi; ven biển VN xây
dựng nhiều cảng nước sâu tiếp nhận tàu 50-60nghìn tấn, nhất là từ Phan Thiết trở
vào có nhiều cảng nước sâu tàu bè có thể cập bến an toàn quanh năm. Sân bay Tân
Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng, cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng
Đông Nam Á. Vị trí địa lý thuận lợi cho phép ta mở rộng quan hệ kinh tế ngoại
thương và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2. Về tài nguyên thiên nhiên
Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa
dạng để phát triển kinh tế.


12

Về đất đai: Diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363 Km2 trong đó có tới
50% là đất vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Khi hậu nhiệt đới mưa nắng điều hòa cho
phép chúng ta phát triển nông lâm sản xuất khẩu có hiệu quả cao như gạo, cao su và
các nông sản nhiệt đới. Chiều dài bờ biển 3.260km, diện tích sông ngòi và ao hồ hơn
1 triệu ha, cho phép phát triển ngành thủy sản xuất khẩu và phát triển thủy lợi, vận tải
biển và du lịch

Khoáng sản là tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho phát
triển kinh tế - xã hội, Vn có nhiều khoáng sản như boxit, vật liệu xây dựng, dầu khí...
3. Về nguồn nhân lực.
Hiện nay dân số Việt Nam khoảng hơn 90 triệu người, đứng thứ 14 trên thế
giới. Nguồn lao động (dân số từ 15 tuổi trẻ lên) đạt 69,256 triệu người (chiếm gần
77% tổng dân số cả nước); trong đó, lực lượng lao động đạt 53,69 triệu người. Qua số
liệu trên cho thấy nước ta có nguồn nhân lực rất dồi dào, được sử dụng trong tất cả
các lĩnh vực của nền kinh tế. Do đặc điểm về văn hoá, kinh tế xã hội, nên giá nhân
công ở Việt Nam thường thấp hơn so với các nước trong khu vực. Dân số đông, cơ
cấu dân số trẻ, thị hiếu tiêu dùng đa dạng, chính là thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năm gần đây Đảng, nhà nước đã
quan tâm đầu tư cho giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng cao,
thông qua chương trình đào tạo trong nước cũng như cử cán bộ, người lao động sang
nước ngoài học tập, tiếp thu công nghệ mới và kinh nghiệm của nước ngoài, đã tạo
nên bước chuyể biến vượt bậc về lượng và chất của nguồn nhân lực quốc gia. Đây
chính là những lợi thế của Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục
đầu tư ngày càng tăng cả về diện và lượng.
4. Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định,
Đây là lợi thế vượt trội so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong
các nội dung của quan hệ quốc tế, đặc biệt là đầu tư quốc tế, thì môi trường chính trị xã
hội ổn định là tiêu chí số một được các nhà đầu tư quan tâm. Việt Nam được đánh giá
là nước có môi trường chính trị và xã hội ổn định so với các nước khác trong khu vực.
Nước ta từ vị trí nhóm nước nghèo bước sang nhóm nước có mức thu nhập trung
bình. Sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô đang được duy trì, thể chế kinh tế thị trường


13

ngày càng được hoàn thiện, chính sách đầu tư thông thoáng. Việt nam được đánh giá là
nơi an toàn để đầu tư mang lại hiệu quả. Đảng cộng sản Việt nam đã lãnh đạo đất nước

trong nhiều thập kỷ qua đã củng cố được niềm tin của nhân dân, được nhân dân nhiệt
tình ủng hộ, lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành, hệ thống chính quyền vững
mạnh.Trong khung cảnh của những sự kiện quốc tế diễn ra trong vài năm qua liên quan
đến chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, cách mạng sắc màu, những bất ổn
của các nước trong khu vực. Việt nam được biết đến như là một trong những nước an
toàn nhất của các nhà đầu tư. Đây là lợi thế vượt trội của Việt Nam so với các nước trong
khu vực và trên thế giới trong quan hệ quốc tế.
Chính sách phát triển ngoại thương
“Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu
hàng hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có
lợi theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; khuyến khích các thành phần kinh tế
sản xuất hàng xuất khẩu theo quy định của pháp luật; có chính sách ưu đãi để đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch
vụ thương mại; hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và
có khả năng đáp ứng nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; ưu tiên nhập khẩu
vật tư, thiết bị, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về chủ trương chính sách cụ thể
Tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có
chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu, góp phần giải
quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm
nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, Cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh
theo hướng tăng các sản phẩm chế biến, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm
lượng công nghệ và chất xám cao; bên cạnh đó phải quan tâm khai thác các mặt hàng
chủ yếu sử dụng nguyên, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong,
cũng như ngoài nước có nhu cầu; đồng thời phải khai thác mọi nguồn hàng có khả
năng xuất khẩu.
Có chính sách đầu tư cho xuất khẩu:



14

Vai trò đẩy mạnh xuất khẩu đang là hướng trọng điểm nhằm cải thiện mức tổng
cung, tăng thu nhập cho nông dân, đạt mục tiêu kích cầu đã đề ra. Đầu tư cho sản xuất
nói chung và cho xuất khẩu nói riêng là một động lực cho sự phát triển, vì vậy, nhà nước
cần áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư nhằm hướng vào xuất khẩu.
Nhà nước thực hiện bảo hiểm đối với XK:
Để khuyến khích thương nhân mạnh dạn đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách bán
chịu, các quỹ bảo hiểm của xuất khẩu của nhà nước đứng ra đền bù nếu bị mất vốn.
Tỉ lệ đền bù có thể lên tới 100% vốn bị mất, nhưng thường tỉ lệ đền bù khoảng 5060% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu buộc phải quan tâm việc kiểm tra khả năng
thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm đến thu tiền của nhà nhập khẩu sau khi
hết thời hạn tín dụng.
Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu:
Ngân hàng xuất nhập khẩu có nhiệm vụ cung cấp các khoản cho vay ít nhiều
có tính chất trợ cấp để hỗ trợ cho xuất khẩu.
Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu:
Đây là sự ưu đãi về tài chính mà nhà nước dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu
khi họ bán được hàng ra thị trường bên ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp
cho các doanh nghiệp tăng thu nhập; tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường thế giới, tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu.
Chính sách về tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng trong quá trình thực hiện chiến lược đối
ngoại, cụ thể là đẩy mạnh xuất khẩu để thu nhiều ngoại tệ cho đất nước. Tỷ giá hối
đoái luôn bị tác động bởi tình hình lạm phát trên thị trường nội địa và thị trường thế
giới. Nhà nước phải tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo các quá trình lạm phát
có liên quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện cạnh tranh thành
công trên thị trường quốc tê.ú
Về chính sách nhập khẩu của Việt Nam

Chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của các ngành chế
biến nông, lâm, thủy hải sản và sản xuất hàng công nghiệp nhẹ; đồng thời phải gắn
với việc phát triển, sử dụng các công nghệ, giống cây con và vật liệu mới được sản
xuất trong nước.
Ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất, công nghệ và hàng tiêu dùng thiết yếu, hạn
chế nhập khẩu các mặt hàng xa x


15

VĐ 4: Đánh giá ngoại thương hiện nay. Đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả
hoạt động ngoại thương thời gian tới?
* Những thành tựu cơ bản
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu
được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Hoạt động XNK ngày càng được
mở rộng không còn phụ thuộc vào một số thị trường như trước đây.
Thành tựu đó được thể hiện rõ nét trong 7 tháng đầu năm 2015, theo số liệu
thống kê của Tổng cục hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt hơn 187,06 tỷ USD, tăng12,4% so với cùng kỳ
năm trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 91,77 tỷ USD, tăng 8,9% và nhập khẩu
đạt 95,29 tỷ USD, tăng 16% dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại hàng hóa trong 7
tháng đầu năm 2015 ở mức 3,52 tỷ USD.
Về hoạt động xuất khẩu chính của VN
Những mặt hàng xk chủ lực của VN: đó là Điện thoại và linh kiện trong 7
tháng đầu năm là 17,15 tỷ USD, tăng 28,6 % so với cùng kỳ năm ngoái. Máy vi tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện, tính hết tháng 7/2015 giá trị xk đạt 8,58 tỷ USD, tăng
55,4% . máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng 4,49 tỷ USD, hàng dệt may là 12,61 tỷ
USD tăng 10,4%, dày dép các loại 6,97 tỷ USD...

Thị trường XK của VN đã được mở rộng vào các thị trường Mỹ, EU, Trung
quốc, Nhật Bản, HK, các tiểu Vương quốc Arap thống nhất, Châu Phi
Về nhập khẩu: Các mặt hàng nhập khẩu chính của nước ta trong 7 tháng đầu
năm 2015 bao gồm: Máy móc, thiết bị, phụ tùng là 16,4 tỷ USD, Máy tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện là 13, 14 tỷ USD, Điện thoại và linh kiện các loại là 5,22 tỷ USD,
Sắt thép các loại 4,47 tỷ USD, xăng dầu các loại 3,42 tỷ USD, nguyên phụ liệu hàng
dệt may là 2,5 tỷ USD
* Những hạn chế cơ bản


16

Bên cạnh những kết quả đã đạt được còn có một số mặt tồn tại chủ yếu sau :
Kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng lên nhưng đang có chiều hướng chững lại vì
sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường và hiệu quả xuất khẩu còn
nhiều hạn chế. Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển dịch tích cực theo hướng
tăng dần tỉ trọng hàng chế biến và chế biến sâu nhưng cho tới nay xuất khẩu hàng thô
và sơ chế vẫn là chủ yếu, tỉ trọng vẫn chiếm 60% tổng kim ngạch.
Cơ cấu thị trường tuy bước đầu có sự chuyển biến tích cực, hàng xuất nhập
khẩu của Việt Nam đã vươn tới tất cả các châu lục trên thế giới, nhưng cơ cấu thị
trường còn chậm được hoàn thiện. Thị trường châu Á vẫn còn chiếm tỉ lệ rất cao
(75,5% giá trị xuất khẩu và trên 77% giá trị nhập khẩu) ; thị trường các châu lục khác
tỉ trọng còn nhỏ bé.
Điều bất lợi hiện nay trong cơ cấu thị trường còn thể hiện ở chỗ : hàng xuất
khẩu của Việt Nam vào các nước trung gian vẫn chiếm tỉ lệ cao, dẫn đến hiệu quả
xuất nhập khẩu thấp, hàng nhập khẩu từ các khu vực có nền công nghiệp nguồn chưa
nhiều do khả năng xâm nhập các thị trường đích bị hạn chế, thị trường xuất nhập
khẩu chưa phong phú, xúc tiến thương mại, quảng cáo sản phẩm chưa được thực hiện
đồng bộ, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ chế, ít hàng hóa thành phẩm do đó
hàng hóa phải qua các thị trường trung gian để chuyển thành thành phẩm tái xuất...

Do đó sự đổi mới công nghệ trong sản xuất hàng hóa nói chung va hàng xuất khẩu
nói riêng diễn ra còn chậm, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Những tồn tại yếu kém trên đây do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, chính sách thương mại của Việt Nam còn rất nhiều điểm bất cập.
Thứ hai, nhìn chung thuế suất còn cao và còn quá nhiều mức làm cho biểu thuế
phức tạp, gây khó khăn trong quản lý.
Thứ ba, về hàng rào phi thuế quan. Hiện nay để kiểm soát hoạt động ngoại
thương, bên cạnh hàng rào thuế quan, Việt Nam còn áp dụng các biện pháp phi thuế
quan như cấm nhập khẩu, hạn chế số lượng, cấp giấy phép... làm hạn chế ngoại
thương.
Thứ tư, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, trong từng lĩnh vực, ngành
hàng nói riêng, chưa bám sát tín hiệu thị trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm làm


17

ra không tiêu thụ được. Năng suất, giá thành nhiều sản phẩm không đủ sức cạnh
tranh, trong khi đó quy mô đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh của các
mặt hàng xuất khẩu chưa thỏa đáng
Thứ năm, sự hiểu biết về thị trường bên ngoài (tiềm năng, nhu cầu, luật lệ...)
còn hạn chế. Nhà nước, bao gồm các cơ quan quản lý trong nước lẫn cơ quan đại diện
ở nước ngoài, chưa cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp, ngược lại nhiều
doanh nghiệp còn ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, thụ động chờ khách hàng, không
chủ động tìm kiếm thị trường và khách hàng.
Thứ sáu, việc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng
túng, cho tới nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, các doanh nghiệp trông
chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, chưa có ý thức trong việc chuẩn bị tham gia quá
trình này. Tư duy của họ vẫn còn kinh doanh theo kiểu bao cấp, phụ thuộc vào quota,
trợ cấp xuất khẩu.
Thứ bảy, hệ thống quản lý và phương thức quản lý chậm được thay đổi nên

chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Để hoạt động ngoại thương Việt Nam phát triển tốt, vượt qua được những
thách thức và khó khăn, vẫn nằm trong danh sách các nước có tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu, nhập khẩu cao của khu vực và thế giới. Trong thời gian tới, Việt Nam cần
thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và luật lệ của
thương mại quốc tế, nhằm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết, tạo sự đồng thuận đối
với các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.
Đây là điều quan trọng giúp các doanh nghiệp hiểu được các quy định, luật lệ
của thương mại quốc tế, những lợi ích trong quá trình tham gia thương mại quốc tế
mang lại, nhận thức được những thách thức khi gia nhập WTO nhằm tìm phương
cách để khai thác cơ hội, vượt qua thách thức, ứng xử hợp lý và hiệu quả nhất để xây
dựng nền xuất khẩu Việt Nam mang tính cạnh tranh và đạt hiệu quả cao.
Hai là, phải tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.


18

Ba là, xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng bảo đảm cho sự phát
triển của hoạt động ngoại thương.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động thương mại.
Tập trung sửa đổi hệ thống luật pháp trong hoạt động thương mại, xoá bỏ các
thủ tục rườm rà, tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các hoạt động xuất
nhập khẩu theo hướng thị trường, phù hợp với các cam kết của thương mại quốc tế.
Bản thân các chính sách thông thoáng lại tạo nền tảng cho cải cách hành chính trong
xuất nhập khẩu. Kịp thời phát hiện khó khăn của doanh nghiệp để bổ sung, sửa đổi
nhanh các thủ tục hành chính đảm bảo đơn giản, gọn nhẹ, công khai, minh bạch. Thủ
tục hành chính cũng phải được thể chế hoá để nghiêm minh, tránh tuỳ tiện trong thực

hiện. Đặc biệt là các chính sách về thuế quan, tập trung sửa đổi các quy định trong
hệ thống chính sách thuế và trong từng sắc thuế theo quy định của thương mại quốc
tế là một đòi hỏi bắt buộc.
Năm là, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá Việt Nam phải giữ được chữ tín với
khách hàng, cần chú trọng tập trung các nguồn lực, đổi mới sản xuất kinh doanh, đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, xây dựng chiến
lược sản phẩm có khả năng cạnh tranh trong nước và thế giới, đẩy mạnh sản xuất, đặc
biệt là sản xuất các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu phù hợp tiêu chuẩn
quốc tế. Chú trọng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ sản xuất hàng xuất
khẩu. Cần phải đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, phương thức thanh toán, cách thức
xuất nhập khẩu hàng hoá theo hướng mang lại ích lợi nhất cho các doanh nghiệp.
Sáu là, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng giới thiệu hàng hoá
Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Đẩy mạnh các hoạt động quan hệ kinh
tế đối ngoại nhằm đưa thị trường hàng hóa trong nước hội nhập sâu hơn vào thị
trường thế giới. Đảng ta xác định “Tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế của đất nước đi
vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập..”1
1

Đảng công sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, tr 46


19

Tổ chức tốt công tác xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin thị
trường, giới thiệu cơ hội làm ăn, tư vấn pháp lý về các lĩnh vực liên quan tới thương
mại quốc tế.
Bảy là, phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động thương mại có hiệu quả

.Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động kinh tế đối ngoại có bản lĩnh chính trị,
vững vàng trong môi trường vừa hợp tác vừa đấu tranh. Trang bị tốt kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ, nắm vững luật lệ, pháp luật và có năng lực đàm
phán quốc tế. Có thể nói, phát triển nguồn nhân lực chính là chiếc “chìa khoá” của sự
thành công trong hội nhập, yếu tố quan trọng của sự phát triển nhanh và bền vững.

VĐ 5: Đánh giá thực trạng các KCN ở nước ta hiện nay. Đề xuất các giải pháp
để năng cao hiệu quả hoạt động các KCN đó trong thời gian tới?
Để trở thành một nước công nghiệp đòi hỏi phải có một nền công nghiệp phát


20

triển ở trình độ cao cả về năng lực sản xuất, trình độ kỹ thuật công nghệ, hình thức tổ
chức sản xuất... Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước và từ thực tiễn phát triển của
Việt Nam cho thấy, tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung tại các KCN đã thật sự
mang lại nhiều hiệu quả to lớn không chỉ riêng cho sự phát triển của ngành công
nghiệp, mà còn đổi mới cả nền kinh tế - xã hội ở một quốc gia, nhất là đối với các
nước đang phát triển. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
liền với sự hình thành và phát triển của các KCN.
Trải qua hơn 25 năm (từ năm 1991) xây dựng và phát triển các KCN ở Việt
Nam đã khẳng định được vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thành quả đó đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong
xây dựng mô hình KCN những năm đổi mới để thúc đẩy KT - XH phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Năm 1991, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập “khai sinh” ra mô hình các
KCN trong chiến lược xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Từ đó đến nay
với nhiều cơ chế, chính sách liên quan đến việc thành lập, hoạt động của các KCN
được ban hành, điều chỉnh đã tạo ra hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển các
KCN trên địa bàn cả nước

Đến hết năm 2012, cả nước có 283 KCN với tổng diện tích 76.000 ha được
thành lập trên 58 tỉnh, thành phố. Trong đó, có 62 KCN có diện tích nhỏ hơn 100 ha,
chiếm 21,9% KCN cả nước, 109 KCN có diện tích từ 100 - 200 ha, chiếm 38,5%, 54
KCN có diện tích từ 200 - 300 ha, chiếm 19%, 58 KCN có diện tích trên 300 ha,
chiếm 20,6%2. Đến hết năm 2013 cả nước có 289 KCN (không bao gồm khu chế
xuất, khu kinh tế) với tổng diện tích đất tự nhiên 81.000 ha. Trong đó, có 191 KCN
(chiếm 66,08%) đã đi vào hoạt động, 98 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng
mặt bằng và xây dựng cơ bản3.
- Về phân bố
Năm 2012 Trong 283 KCN Việt Nam, vùng Đông Nam Bộ có 88 KCN chiếm
31,1%, vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 24,7% và vùng duyên hải miền Trung chiếm
2
3

Phát triển bền vững KCN ở Việt Nam sau 20 năm đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 410 – tháng 7/2012 tr 45
Phát triển KCN Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Kinnh tế và dự baos số 15- 8/2014 tr 27


21

17,7%. Đồng Nai là địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng KCN với 30 KCN, Bình
Dương 25 KCN, Hồ Chí Minh 19 KCN, Hà Nội và Hưng Yên có 11 KCN 4.
- Thu hút đầu tư
Đến cuối quý I/2014 các KCN trong cả nước thu hút được 5.300 dự án FDI,
với tổng số vốn đăng ký 112 tỷ USD. Năm 2013 các KCN thu hút đc 472 dự án, với
tổng số vốn đăng ký 8,742 tỷ USD vốn FDI, chiếm 70% vốn FDI của cả nước.
- Tỷ lệ lấp đầy các KCN
Năm 2012 trong tổng số 283 KCN có 175 KCN đang hoạt dộng với diện tích
đất tự nhiên 45.778ha. tỷ lệ lấp đầy các KCN là 63,7%.
- Giá trị sản lượng và xuất khẩu của các KCN

Tỷ trọng GTSXCN của các DN trong KCN, KCX trong tổng tỷ trọng
GTSXCN của cả nước đã tăng lên đáng kể theo các năm: từ mức khoảng 8 % năm
1996 lên 14% năm 2000, 28% năm 2005 và 32% năm 2010.
Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các DN KCN, KCX của cả nước đã tăng lên từ
mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005 và 25% năm 2010. Các DN
KCN, KCX trong gđ 2006-2010 nộp ngân sách 5,9 tỷ USD.
Nếu tính bình quân 1ha đất công nghiệp cho thuê trong năm 2011, các KCN đã
tạo ra GTSXCN 2trieu USD/ha; giá trị xuất khẩu 1,27 triệu USD/ha; nộp ngân sách
khoảng 1,38 tỷ đồng/ha. Trung bình 1 ha đất công nghiệp cho thuê taooj việc làm cho
77 lao động trực tiếp
- Lao động trong các KCN
Đến hết năm 2013 KCN đã tọa trên 2 triệu việc làm. Góp phần đào tạo nguồn
nhân lực
- Bảo vệ môi trường.
Đến 12/2012 có 118 KCN có hệ thống xử lý nước khải tập trung
Những kết quả này cho thấy vai trò quan trọng của KCN góp phần cho phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ðó là thúc đẩy sản xuất công nghiệp, xuất nhập
khẩu; thu hút vốn đầu tư; nộp ngân sách Nhà nước; tạo công ăn việc làm cho người
lao động; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng trình độ công nghệ sản xuất;
4

Nhà ở cho người lao động tại các KCN ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 428- 01/2014, tr 61


22

tạo sản phẩm có sức cạnh tranh, v.v. Như vậy, các KCN thật sự là một động lực mạnh
mẽ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hạn chế
Sự phát triển mạnh mẽ và những đóng góp to lớn của các KCN là không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, quá trình phát triển các KCN Việt Nam trong thời gian qua còn tồn tại không ít
những thách thức, bất cập, như: vấn đề quy hoạch tổng thể còn yếu, dẫn đến phát triển KCN
mang tính "phong trào", không ít các KCN gặp khó khăn trong việc thu hút các doanh nghiệp
đến đầu tư; cơ chế quản lý và hoạt động hành chính đối với KCN chưa thật sự hiệu quả; nguồn
nhân lực cho KCN chưa đáp ứng kịp, nhất là lao động kỹ thuật; một số chính sách của Nhà
nước cũng có tác động nhất định đến các KCN; tình trạng ô nhiễm môi trường trong nhiều
KCN đang gây bức xúc trong dư luận; nhiều KCN gặp khó khăn trong xây dựng kết cấu hạ
tầng cơ sở do mức hỗ trợ vốn ngân sách từ Trung ương còn thấp; việc cấp các loại giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hóa trong các KCN còn nhiều vướng mắc; thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng ở
trong hàng rào và ngoài hàng rào KCN, v.v.
* Giải pháp
Những bất cập trên nếu không được tháo gỡ nhanh chóng sẽ làm cản trở đến
chiến lược phát triển KCN ở Việt Nam. Trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ
các giair pháp sau:
- Trước hết không để kéo dài tình trạng phát triển các KCN quá “nóng” mang
tính “phong trào”. Việc quy hoạch thành lập các KCN đòi hỏi phải bảo đảm những
điều kiện nhất định, như địa điểm, hạ tầng cơ sở, xu hướng phát triển kinh tế trong
vùng, khả năng cung lao động; Vị trí của các KCN phải gắn với thị trường tiêu thụ,
thị trường cung ứng nguyên vật liệu, đáp ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất và dịch vụ
đời sống.
- Về nguồn nhân lực, các địa phương phải có kế hoạch đào tạo phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao tay nghề cho người lao động. Nhà nước phải có cơ chế giúp đỡ
các địa phương, doanh nghiệp phát triển nguồn nhân lực, tránh không để tình trạng
các doanh nghiệp phải tự mình lo việc đào tạo nguồn lao động.
Bên cạnh đó, việc phân cấp, ủy quyền để các ban quản lý KCN có thể triển khai thủ
tục hành chính đầy đủ theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” cần tiếp tục được đẩy mạnh và có


23


những điều chỉnh cho thích hợp hơn; chính sách ưu đãi đầu tư và thuế thu nhập cho các
doanh nghiệp đầu tư vào KCN thuộc địa bàn khó khăn cần phải nhất quán, rõ ràng để thu
hút và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư; kết hợp tốt việc “lấp đầy” diện tích các KCN với
việc nâng cao chất lượng các dự án đầu tư vào KCN bằng cách khuyến khích, ưu đãi cho
các dự án tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh và phát triển bền vững; xây dựng đồng bộ hạ
tầng trong và ngoài KCN, đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động
làm việc tại các KCN,... sẽ còn không ít những khó khăn, song trên cơ sở những gì các
KCN đã đạt được, cùng việc thực hiện đồng bộ, quyết liệt một hệ thống các giải pháp tháo
gỡ những bất cập hiện nay, chắc chắn các KCN ở Việt Nam sẽ phát triển bền vững, thật sự
là nền tảng và động lực to lớn góp phần đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành
công và về đích đúng thời gian.

VĐ 6: Phân tích lợi ích của các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế. Đề
xuất giải pháp để nâng cau hiệu quả trong hoạt động thương mại quóc tế?
Thương mại Quốc tế (định nghĩa truyền thống): Sự mở rộng của thương mại ra
ngoài biên giới quốc gia được gọi là thương mại quốc tế (hay ngoại thương). Ngày


24

nay khi nền kinh tế thế giới phát triển ngoài sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ còn có sự
trao đổi về vốn, nhân lực...Khái niệm về thương mại quốc tế đã được mở rộng hơn,
bao gồm xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, vô hình, các nguồn vốn, lao động.. .
Lợi ích của thương mại quốc tế - sử dụng có hiệu quả hơn các lực lượng sản
xuất của của thế giới. Lợi thế so sánh là nguyên lý cơ bản của thương mại quốc tế.
Các tác động tích cực của thương mại quốc tế là:
Mỗi quốc gia có vị trí địa lí, trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau,
điều đó quy định tính tuyệt đối trong so sánh lợi thế kinh tế. Khi các nước trao đổi
hàng hóa và dịch vụ cho nhau, họ đều có lợi, kể cả khi một bên sản xuất tất cả mọi
sản phẩm có hiệu quả cao hơn bên kia. Bởi trong quá trình trao đổi buôn bán giữa hai

quốc gia, đã làm cho tổng sản phẩm tiêu dùng của cả hai nước được tăng lên, cao hơn
so với khi các quốc gia không trao đổi buôn bán với bên ngoài.
Khi chưa có hoạt động thương mại quốc tế, một nước sản xuất và tiêu dùng
sản phẩm hàng hóa dịch vụ của mình theo hướng sản xuất tự cung tự cấp, trao đổi
trong nước, không có mối liên hệ với các bạn hàng nước ngoài. Quốc gia đó chỉ có
thể tiêu dùng những sản phẩm mà quốc gia có đủ nguồn lực để sản xuất, còn những
hàng hóa mà quốc gia không có đủ nguồn lực để sản xuất thì những sản phẩm đó
quốc gia sẽ không có để tiêu dùng.
Khi quốc gia mở rộng thương mại quốc tế, quốc gia đó đã tăng phần giá trị sử
dụng của nước mình lên, do đã có thêm được một phần hàng hóa dịch vụ từ hoạt
động nhập khẩu tiêu thụ ở trong nước, mà phần lớn những sản phẩm này quốc gia
khó, hoặc không thể sản xuất được. Xét về mặt số lượng và chủng loại hàng hóa thì
rõ ràng, thương mại đã làm cho số lượng và chủng loại hàng hóa tăng lên trong nước,
người tiêu dùng có quyền được sử dụng những sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài
vào, có nghĩa là giá trị sử dụng đã được tăng lên.
Chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ cũng tăng lên, do các sản phẩm nhập
khẩu có chất lượng cũng như mẫu mã vô cùng phong phú. Các nhà sản xuất các sản
phẩm cùng loại trên thị trường nội địa cũng phải cải tiến công nghệ, để cạnh tranh với
sản phẩm ngoại nhập. Kết quả là hàng hóa dịch vụ ngày một cải tiến, chất lượng mẫu


25

mã phong phú, số lượng tăng lên mà giá thành lại hạ, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng
của dân chúng.
Như vậy, xét về phía người tiêu dùng, thương mại quốc tế đã đem lại cho họ
nhiều sự lựa chọn hơn trong việc mua sắm các hàng hóa dịch vụ, người tiêu dùng sẽ
được sử dụng những sản phẩm hàng hóa dịch vụ tốt nhất, với giá thành rẻ nhất.
Về phía các doanh nghiệp trong nước, họ phải cải tiến công nghệ, áp dụng các
tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, tổ chức quản lý một cách hiệu quả

v.v... để có thể sản xuất được những sản phẩm đảm bảo đủ chất lượng, mẫu mã đẹp,
phong phú, từ đó cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu, tạo sự vững mạnh trên thị
trường trong nước.
Hơn nữa, có đổi mới công nghệ không chỉ để giữ được thị phần trong nước
mà đổi mới công nghệ, tạo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp sẽ có
thể bán được hàng hóa của mình trên thị trường quốc tế, thu khoản lợi nhuận đáng kể,
đem lại nguồn ngoại tệ cho quốc gia.
Chính yêu cầu phải phát huy được những lợi thế của quốc gia như về nguồn
lực tự nhiên, nguồn lao động giá rẻ, hay khoa học kĩ thuật hiện đại đã làm cho một
quốc gia lựa chọn những ngành, lĩnh vực mà quốc gia đó có lợi thế so sánh hơn quốc
gia khác để tập trung phát triển những ngành, lĩnh vực này.
Thông qua hoạt động thương mại quốc tế sẽ hướng các nước đi vào chuyên
môn hóa sản xuất ở phạm vi hẹp hơn các mặt hàng, cho phép họ đạt được hiệu quả cao
khi sản xuất theo quy mô lớn, từ đó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân
công lao động xã hội phát triển. Sự chuyên môn hóa sản xuất đã làm cho cơ cấu nền
kinh tế dần thay đổi phù hợp với tiềm lực phát triển của quốc gia đó. Cơ cấu kinh tế
phù hợp lại tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Sự cạnh tranh trong hoạt động thương mại quốc tế giữa các doanh nghiệp
trong cùng một nước, giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước
ngoài, giữa các quốc gia với nhau thể hiện ở chính sản phẩm hàng hóa dịch vụ mà
doanh nghiệp, quốc gia đó cung ứng trên thị trường. Sự cạnh tranh này ngày càng gay
gắt quyết liệt nhưng lại rất lành mạnh đã làm cho năng suất lao động ngày một tăng
lên và giá thành sản phẩm hạ đến mức tối thiểu.


×