Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận cao học đảng bộ tỉnh hà giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.79 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng, trên cơ sở nhận
thức tình hình thế giới Đảng ta nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa
các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế-chính trị khác nhau, cũng là những điều
kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.Từ đó,
Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước
ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ngị quyết số 13 khóa VI của Bộ Chính trị về
nhiệm vụ chính sách đối ngoại trong tình hình mới, đã đánh dấu sự đổi mới về tư
duy trong công tác đối ngoại, đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế...............................15
Đại hội IX (tháng 4-2001), trong công tác đối ngoại Đảng chủ trương: "Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển"............................................................................15
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006): "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"......................................................................15
Đại hội XI: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh”.......................................................................................................................15

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong điều kiện giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào
tồn tại biệt lập lại có thể phát triển được. Việt Nam là một bộ phận của thế giới, gắn
với tiến trình phát triển của thế giới. Chính vì vậy, hiểu sâu sắc tình hình thế giới là
điều kiện không thể thiếu để góp phần xác định những nhiệm vụ đặt ra cho đất nước.


Nắm bắt những động thái mới cũng như xu thế vận động của thế giới và khu vực thì
Đảng mới có thể hoạch định những chiến lược, chủ trương chính sách phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của ta. Với việc đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về thế giới
và khu vực, phân tích mặt mạnh, mặt yếu của tất cả các nước, phân tích các vấn đề tồn
tại, dự báo vấn đề phát sinh trên nhiều lĩnh vực, từ đó đặt ra môi trường tồn tại và phát


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
triển cho đất nước. Trong quá trình đổi mới Đảng ta sớm nhận định: toàn cầu hóa là
một xu thế khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực, đang bị một số nước phát triển
và tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiếu mâu thuẫn, vừa
có hợp tác, vừa có đấu tranh. Nhưng Việt Nam không thể không tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa về kinh tế được. Từ đó, Đảng ta đã chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, đường lối đối ngoại của Đảng đã từng bước tạo đà cho Việt Nam
phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội trong nước, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hà Giang là một tỉnh nằm ở địa đầu tổ quốc, được coi là nơi “đầu sóng, ngọn
gió” có đường biên giới dài tiếp giáp với đất nước Trung Quốc. Trong những năm
qua, trên cơ sở đường lối đối ngoại chung của Đảng, Hà Giang đã từng bước vận dụng
sáng tạo vào điều kiện địa phương để từng bước tháo gỡ những khó khăn, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong tỉnh. Cùng với sự giúp đỡ của Trung
ương, phát huy nội lực của tỉnh đang có, công tác đối ngoại đã góp phần giải quyết,
thúc đẩy phát triển về kinh tế, đảm bảo tốt trật tự an ninh quốc phòng, đảm bảo chủ
quyền biên giới quốc gia trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, trong công tác đối ngoại của tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề cần giải
quyết, quá trình lãnh đạo công tác đối ngoại trên địa bàn tỉnh cần có những điều chỉnh
để phù hợp với xu thế chung, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập để góp phần hoàn
thành mục tiêu chung của cả nước, đem lại lợi ích cho quốc gia, cho dân tộc, trong đó
có nhân dân các dân tộc Hà Giang. Tiểu luận với đề tài: “Đảng bộ tỉnh Hà Giang
lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay” góp phần làm sáng tỏ những

mặt mạnh, những vấn đề tồn tại để cùng phát huy những ưu điểm và tháo gỡ những
vướng mắc trong công tác đối ngoại ở Hà Giang.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về một số vấn đề đối ngoại
Mác và Ăngghen là những người phát minh ra chủ nghĩa xã hội khoa học, mặc
dù không đề cập trực tiếp đến vấn đề đối ngoại, nhưng các ông đã nêu ra một số quan
điểm cơ bản về vấn đề quốc tế, những vấn đề đó ngày nay các quốc gia đang thực
hiện trong chiến lược đối ngoại của mình.
Thứ nhất, vấn đề toàn cầu hóa

2


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” Mác và Ăngghen đã nói đến quốc tế hóa
và toàn cầu hóa: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thay cho tình trạng
cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển
những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc” và “nhờ cải
biến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho phương tiện giao thông trở lên vô cùng
tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn
minh…”. Mác và Ăngghen đã chỉ ra toàn cầu hóa là xu thế khách quan, xu thế đó gắn
liền với quá trình phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và dẫn đến sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, các khu vực trên thế giới.
Thứ hai, vấn đề hợp tác quốc tế
Trong hoàn cảnh lịch sử của thời đại của Mác và Ăngghen đang sống, giai cấp
vô sản chưa giành được chính quyền, vì vậy hai ông luôn nhấn mạnh đến sự đoàn kết
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Mác và Ăngghen đã kêu gọi công
nhân toàn thế giới: “Mặc cho giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc cách mạng

cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết,
ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới. Vô sản tất cả các
nước, đoàn kết lại”. Hai ông cũng đã chứng minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, đưa xã hội loài người đến một
xã hội cao hơn, đó là xã hội cộng sản, đây là nhiệm vụ của công nhân toàn thế giới.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” Mác đã phê phán Đảng công nhân Đức
chỉ nói đến sự hoạt động riêng biệt của giai cấp vô sản trong phạm vi dân tộc, mà
không nêu lên mối quan hệ đoàn kết, tương trợ giữa giai cấp công nhân các nước với
nhau; không hề nói đến những nhiệm vụ quốc tế của giai cấp công nhân Đức.

1.1.2. Lênin với những cống hiến lý luận về đối ngoại
Trước Cách mạng Tháng Mười, Lênin nghiên cứu nguyên nhân của chiến tranh
giữa các nước đế quốc, từ đó vạch ra tính chất cướp đoạt trong chính sách đối ngoại
của các nước đế quốc và nhấn mạnh vai trò quan trọng của sự đoàn kết giữa giai cấp
công nhân và lực lượng tiến bộ trong đấu tranh chống đế quốc. Đồng thời Lênin cũng
chỉ ra chính sách đối ngoại của nhà nước vô sản mới thành lập phải đối lập với chính
sách ngoại giao có tính chất cướp đoạt của giai cấp tư sản. Chính sách đó phải thúc
đẩy sự nghiệp giải phóng các nước thuộc địa, và quyền tự quyết của các dân tộc, phải

3


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
liên minh với các lực lượng cách mạng và các dân tộc bị áp bức, phải bảo vệ hòa bình
trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhân dân các nước.
Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin tiếp tục phát triển những quan điểm của mình
về các vấn đề quốc tế, đó là:
Một là, mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách đối nội và chính sách đối ngoại.
Lênin chỉ ra rằng, nếu đem chính sách đối ngoại tách khỏi chính sách nói chung, thậm
chí đem đối lập chính sách đối ngoại với chính sách đối nội, thì đó là một sai lầm

nghiêm trọng, bởi vì không chỉ chính sách đối nội làm ảnh hưởng đến chính sách đối
ngoại, mà chính sách đối ngoại cũng có tác động trở lại với chính sách đối nội:
“không có tư tưởng nào sai lầm hơn và có hại hơn là tư tưởng tách rời chính sách đối
ngoại khỏi chính sách đối nội”
Hai là, Phải biết kết hợp tính kiên định, tính nguyên tắc với tính linh hoạt trong
chính sách đối ngoại của nhà nước vô sản. Lênin nêu lên quan điểm phải biết cách
thỏa hiệp vì lợi ích nhà nước Xôviết và lực lượng cách mạng trên thế giới. Nhưng
trong lĩnh vực hệ tư tưởng thì Lênin cho rằng không thể có sự thỏa hiệp nào.
Ba là, chỉ có dựa vào những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội do chủ
nghĩa Mác vạch ra mới có thể giải thích về quan hệ quốc tế một cách khoa học, dự
báo được những xu thế phát triển của quan hệ quốc tế. Lênin đặc biệt nhấn mạnh yêu
cầu của chính sách nói chung và chính sách đối ngoại là phải đặc biệt quan tâm đến
những nhiệm vụ chủ yếu mà lịch sử đặt ra, quan tâm đến tương quan lực lượng giai
cấp và nguyện vọng của dân chúng trong nước cũng như trên phạm vi quốc tế..
Bốn là, cần đề ra nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản trong chính
sách đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa quốc tế vô sản đã được
Mác-Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản . Đến Lênin tiếp tục kế thừa
và phát triển. Lênin đã phân tích cho thấy tư bản là một lực lượng quốc tế, để chiến
thắng được chủ nghĩa tư bản cần phải có sự liên minh và đoàn kết quốc tế của giai cấp
công nhân. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân đã trở thành cơ sở cho
chính sách đối ngoại của nhà nước Xôviết.
Năm là, đảm bảo nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ khác
nhau. Vào khoảng năm 1915-1916, Lênin đã đưa ra kết luận là chủ nghĩa xã hội sẽ
thay thế chủ nghĩa tư bản, nhưng quá trình đó diễn ra trong một quá trình lâu dài và
đó là một thời kỳ lịch sử. Do đó mà có vấn đề quan hệ giữa các nước có chế độ khác
nhau. Lênin nhấn mạnh rằng, có một lực lượng to lớn hơn ý chí, nguyện vọng và nghị
quyết của bất cứ chính phủ hay giai cấp nào, đó là sức mạnh quan hệ kinh tế chung
4



Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
trên toàn thế giới. Quan hệ đó thúc đẩy các chính phủ đối địch, các giai cấp đối địch
đi vào con đường làm với chúng ta, tư tưởng trên thể hiện trong pháp lệnh đầu tiên
của nhà nước Xôviết. Tháng 6 năm 1920, ủy viên Bộ Dân ủy ngoại giao Xôviết đã
tuyên bố: “khẩu hiệu của chúng ta: trước đây và bây giờ là chung sống hòa bình với
các chính phủ khác, bất luận họ là một chính phủ như thế nào. Bản thân cuộc sống
đã khiến chúng ta và các nước khác phải xây dựng mối quan hệ lâu dài giữa chính
phủ công nông với chính phủ của giai cấp tư sản”.
1.1.3. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, nền tảng của đường lối, chính sách
đối ngoại
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là sự kết hợp truyền thống ngoại giao Việt Nam
với kinh nghiệm thời đại, tri thức uyên bác, bản lĩnh và phong cách tuyệt vời của chủ
tịch Hồ Chí Minh, trở thành nền tảng cho công tác đối ngoại của Việt Nam, tư tưởng
ngoại giao bao gồm những nội dung:
Thứ nhất, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Đây là tư duy nổi bật
nhất trong toàn bộ hoạt động chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là quan
điểm xuyên suốt của Người: "Muốn người ta giúp cho, thì trước hết tự mình phải
giúp lấy mình đã" và "Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm". Độc lập
tự chủ thể hiện trước hết ở tư duy nhận thức và hành động tự chủ, sáng tạo. Độc lập tự
chủ là đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam. Bản chất của chủ nghĩa Mác Lênin là khoa học, cách mạng và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã vận dụng các giá trị ấy để
xây dựng đường lối đối nội và đối ngoại phù hợp điều kiện lịch sử cụ thể của Việt
Nam và bối cảnh quốc tế. Trong quan hệ quốc tế và đối ngoai của Việt Nam, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Độc lập có nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của
chúng tôi, không có sự can thiệp từ bên ngoài vào", điều đó có nghĩa là dựa vào sức
của mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự
mình phải suy nghĩ tìm tòi, định ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm
giải quyết lấy những công việc của đất nước mình, không nhận bất cứ một sức ép nào
từ bên ngoài không để biến thành con bài trong tay người khác.
Thứ hai, kết hợp dân tộc với quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Độc lập, tự chủ không có nghĩa là tự cô lập, tách rời dân tộc với thời đại. Độc lập tự

chủ nhằm bảo đảm lợi ích dân tộc chính đáng, thực hiện các quyền dân tộc cơ bản
trong điều kiện lợi ích dân tộc đan xen, chồng chéo. Nhưng độc lập tự chủ và tự lực tự
cường xa lạ với tự biệt lập và chủ nghĩa biệt phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh
hơn mình gấp nhiều lần trong bối cảnh thời đại mới, Hồ Chí Minh luôn luôn chủ
5


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
trương tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự hợp tác quốc tế và coi đây là một vấn đề có
tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết
và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự lực tự cường, tạo điều kiện làm chuyển
biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, độc lập, tự chủ phải kết hợp dân
tộc và quốc tế, đồng thời kết hợp đấu tranh kiên quyết và khôn khéo để thực hiện mục
tiêu cách mạng và bảo vệ quyền lợi của quốc gia. Hồ Chí Minh luôn luôn coi sức
mạnh bên trong là nhân tố quyết định, đồng thời Người cũng khẳng định: cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, muốn giành được thắng lợi phải
tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của cách mạnh thế giới. Đó là quan điểm cơ bản của
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chỉ đạo toàn bộ
hoạt động đối ngoại và ngoại giao Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đoàn
kết giữa các lực lượng tiến bộ trên thế giới: “đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng
lợi” người nhấn mạnh các lực lượng ấy “đoàn kết chặt chẽ với nhau thành một mặt
trận thống nhất mạnh mẽ” tạo thành sức mạnh để thực hiện cách mạng của thời đại.
Sức mạnh thời đại luôn mang nội dung mới, phản ánh sự phát triển của lịch sử dân tộc
và quá trình vận động chính trị quốc tế. Do đó, kết hợp hài hòa sự nghiệp của nhân
dân Việt Nam với sự nghiệp của nhân dân thế giới, tranh thủ mở rộng đoàn kết và hợp
tác quốc tế trong tình hình các phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ, sẽ
nâng sức mạnh của Việt Nam lên gấp bội. Mặt khác, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế
cho dân tộc mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời không quên nhắc nhở phải hoàn
thành tốt nghĩa vụ quốc tế, “giúp bạn là giúp mình” nhất là với cách mạng Lào và

cách mạng Campuchia. Trong hai cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo hình
thành mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương, phối hợp và giúp đỡ bạn cùng chiến
đấu, góp vào thắng lợi chung.
Thứ ba, phát huy truyền thống hoà hiếu của dân tộc, giương cao ngọn cờ độc lập
và hoà bình, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ. Phát huy truyền thống hoà
hiếu của cha ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi giành độc lập, đã nhiều lần tuyên bố
“chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả
các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hoà bình". Đầu năm 1947, Người nói:
“Chúng tôi muốn hoà bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng
máu đỏ chúng tôi đều quý như nhau”; “thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á
Châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”. Ngay đối với nước
pháp, nước đang tiến hành cuộc chiến tranh thù địch chống Việt Nam, Chủ tịch Hồ
6


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Chí Minh đã tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện vơi nhân dân pháp.
Những người pháp tư bản hay công dân, thương gia hay trí thức; nếu họ muốn thật
thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh
em bầu bạn”.
Năm1949, trả lời một nhà báo Mỹ hỏi sau khi đã độc lập Việt Nam có hoan
nghênh tư bản ngoại quốc không? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời:"bất kì nước nào
(gồm cả nước pháp) thật thà muốn đem tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam với mục
đích làm lợi cho cho cả hai bên, thì Việt Nam hoan nghênh”, còn nếu “mong tư bản
đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt”
Có thể xem tuyên bố trên đây là tư tưởng đặt nền móng phương châm đa
phương hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại của đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Thứ tư, phối hợp mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự và mặt trận chính
trị; hoạt động quốc tế của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân, tạo nên sức
mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ngoại giao

đã được đánh giá như một mặt trận. Nhưng lịch sử cũng chứng minh nếu chỉ riêng
hoạt động đối ngoại thôi thì không thể làm nên được thắng lợi mà phải có sức mạnh
tổng hợp, ngoại giao phối hợp vơi chính trị quân sự. Năm 1944, khi lực lượng còn
non yếu, một số đồng chí ta muốn tiến hành quan hệ ngoại giao với chính phủ Tưởng
Giới Thạch và Mỹ để cầu viện, Hồ Chí Minh đã nói tại Hội nghị Liễu Châu (Trung
Quốc) tháng 3 1944 rằng: “Nếu mình chưa có lực lượng làm cơ sở thì hãy khoan nói
đến ngoại giao”. Tại Tân Trào (8 - 1945), người cũng từng nói với đồng chí Trưởng
đoàn đại biểu Hà Nội dự Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, một ý
tương tự : “Cây có cao thì bóng mới dài” hay “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao
là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn" ý là thực lực có mạnh mới có thắng lợi trong
đấu tranh ngoại giao. Với tinh thần đó, tháng 5/1969, Bác nêu nhiệm vụ cho đoàn đàm
phán Việt Nam tại Hội nghị Paris: “Tiến công ngoại giao là một mặt trận tiến công
quan trọng có ý nghĩa chiến lược lúc này. Nó có nhiệm vụ phát huy thế thắng và thế
chủ động của ta, tiến công một kẻ địch đang thất bại, bị động về mọi mặt và phải
xuống thang; phát huy thắng lợi quân sự và chính trị trên chiến trường quốc tế; tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ lớn nhất của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân
Mỹ, nắm vững thời cơ, phối hợp với tiến công quân sự và tiến công chính trị, tiến
công liên tục và sắc bén, kiên trì nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên
quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng
yêu cầu cơ bản của ta”. Dưới sự chỉ đạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
7


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
quốc, trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng trên cơ sở kết hợp ba mặt trận: quân sự, chinh trị, ngoại giao; đã huy động được
sức mạnh, của ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân nhân và hoạt động quốc tế
của Đảng để giành thắng lợi.
Thứ năm, kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược, luôn giữ thế tiến công
nhưng biết nhân nhượng, thoả hiệp đúng nguyên tắc, giành thắng lợi từng bước để đi

tới thắng lợi hoàn toàn. Mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh là “phấn đấu xây dựng
một nướcViêt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ giàu mạnh và góp phần vào
sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đó là cái “bất biến”.Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển của cách mạng, phải biết “ứng vạn biến” nghĩa là, căn cứ vào tương quan lực
lượng và tình hình quốc tế, mục tiêu chung đó thường được cụ thể hoá thành những
mục tiêu cụ thể cho từng bước và có sự điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với diễn
biến của tình hình, điều quan trọng là mục tiêu từng bước phải tạo cơ sở vững chắc để
tiến đến mục tiêu cuối cùng. Trong hoạt động ngoại giao, cũng như trong đấu tranh
trên bàn đàm phán, Hồ Chí Minh luôn kiên quyết đấu tranh để giữ vững cho mục tiêu
độc lập và thống nhất Tổ quốc, nhưng Người cũng là nhà ngoại giao biết thương
lượng, có đầu óc thực tế, đôi khi phải biết nhân nhượng, biết tìm ra mẫu số chung cho
mỗi cuộc đối thoại, để đạt mục tiêu. Vì vậy, trong hoạt động ngoại giao, Người
thường nhắc nhở cán bộ ta: trong đấu tranh ngoại giao phải kiên trì, chớ có nôn nóng,
muốn đạt ngay mục tiêu cuối cùng. Kẻ thù dù thất bại, buộc phải xuống thang, nhưng
vì thể diện, nó sẽ xuống thang dần dần. Ta cũng phải biết thắng từng bước.
Thứ sáu, xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, ưu tiên cho mối quan
hệ láng giềng và khu vực.Trong quan hệ quốc tế là các siêu cường thường giữ vai trò
chi phối với các nước nhỏ. Việt Nam do vị trí địa lý - chính trị của mình, nên luôn là
mắt xích quan trọng trong tính toán chiến lược của các nước lớn. Tuy nhiên, nếu xử lý
đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, phù hợp với vị trí địa lý - kinh tế - chính trị
của mình, khai thác được các mối quan hệ tuỳ thuộc, ứng xử khôn khéo, linh hoạt và
kịp thời, biết kiên trì đấu tranh, thì có thể hạn chế được những thoả hiệp tính toán của
các nước lớn làm bất lợi cho mình. Đó là chính sách đối ngoại hết sức quan trọng của
Đảng và nhà nước ta. Nguyên tắc cơ bản là nắm vững lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập,
tự chủ, không chịu sức ép, tác động của bất cứ ai, cố gắng tìm mẫu số chung, thi hành
chính sách cân bằng, không ngả theo bên này chống lại bên kia. Thời kì 1945-1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý rất khéo léo mối quan hệ với các nước lớn có mặt ở
Việt Nam: Cố gắng tranh thủ, chí ít là trung lập hoá Mỹ, hoà hoãn với Tưởng…để tập
8



Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
trung đối phó với kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp. Trong giai đoạn
1947-1949, Đảng ta dự đoán Mỹ có thể can thiệp vào tình hình Việt Nam. Thông cáo
về công tác tuyên truyền và ngoại giao của Thường vụ trung ương Đảng gửi các Xứ
uỷ (ngày 12-10-1947) nêu rõ: "Tuy ta nhận rõ tham vọng của Mỹ và nguy cơ Mỹ
nhưng những cái đó chưa trực tiếp đối với ta nên ta vẫn phải lợi dụng triệt để những
mâu thuẫn dù nhỏ đến mấy, giữa Pháp và Mỹ. Về ngoại giao, vẫn tuyên bố thân thiện
với Mỹ và vẫn dùng hội Việt - Mỹ làm lợi khí tuyên truyền quốc tế một phần nào”.
Từ năm 1950, Việt Nam quan hệ mật thiết với Liên Xô, Trung Quốc tiến hành
kháng chiến chống xâm lược. Tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, các nước lớn
tìm cách áp đặt giải pháp bất lợi cho nhân dân ba nước Đông Dương. Trong kháng
chiến chống Mỹ - Liên Xô và Trung Quốc từ mâu thuẫn đi đến đối địch. Cả hai đều
giúp đỡ ta và đều muốn lợi dụng ta để hoà hoãn với Mỹ. Mỹ cũng khai thác mâu
thuẫn Liên Xô - Trung Quốc để ép ta, đòi thương lượng với ta trên thế mạnh.
Dưới sự chỉ đạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc ta đã xử lý khéo
léo, đúng đắn mối quan hệ với cả ba nước lớn, kết quả là giữ được đoàn kết, vẫn tranh
thủ được viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc cho Việt Nam.
Đối với Mỹ, Hồ Chí Minh tìm kiếm cơ hội hoà bình. Người nêu chủ trương
“trải thảm đỏ” hay "nhịp cầu vàng" để quân đội mỹ rút về nước, từng bước buộc Mỹ
phải xuống thang, ngồi vào bàn đàm phán thương lượng với ta, từng bước đấu tranh
thoả thuận đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giành
ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, trước hết là
với Lào và Campuchia cùng chiến đấu chống kẻ thù chung.
Với nước láng giềng Trung Quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm phát triển
quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc. Trong toàn bộ phát biểu của Hồ Chí
Minh về đất và nhân dân Trung Hoa toát nên sự hiểu biết sâu sắc và đánh giá đúng vị
trí của quốc gia này. Người từng nói “Trung Quốc là một nước vĩ đại hùng cường và
đẹp đẽ. Nền văn hoá lâu đời và ưu tú của Trung Quốc đã có ảnh hưởng sâu xa ở châu

Á và trên thế giới".
Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng thiết lập mối quan hệ láng giềng tốt với
các nước trong khu vực có chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được giải phóng, sau
chuyến đi thăm cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Người đã dẫn đầu đoàn đại
biểu Đảng và Nhà nước ta đi thăm Ấn Độ, Miến Điện, Inđônêxia, hình thành trục hữu
nghị Hà Nội - Đêli - Giacácta, và có thể nói cho đến những năm 50 đầu 60, Hồ Chí
9


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Minh đã thành công trong việc xây dựng các mối quan hệ với các quốc gia trong khu
vực, thế giới bắt đầu nói đến quan hệ "tam hùng" ở khu vực là Hồ Chí Minh - Nêru Xucácnô.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình mới đòi hỏi Đảng phải tăng cường công tác đối ngoại
* Tình hình thế giới
Trên thế giới, hòa bình , hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng có diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn
giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng
bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công
nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính-tiền tệ, điện tử, viễn thông, sinh học, môi
trường… vẫn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ
quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn chi phối quan hệ quốc tế. Toàn cầu
hóa và cách mạng khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình
thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục
hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn có nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát
triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra
mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các
nước lớn có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn
tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng

cao… giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như: an ninh tài
chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao,
thiên tai, dịch bệnh… diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát
triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, là khu
vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp
lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và
đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ
vai trò quan trọng trong khu vực.
*Tình hình trong nước
Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới từ 1986 đến nay đã tạo ra
cho đất nước nhiều diện mạo mới, đất nước có thế, lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn so
10


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
với trước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Nền
kinh tế phát triển bền vững, kể cả giai đoạn kinh tế thế giới khủng hoảng, kinh tế Việt
Nam vẫn có những bước phát triển đáng kể. Nhiều hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương được thực hiện. Vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng lan rộng
chưa thể giải quyết ngay, nhất là những khu công nghiệp. Hiện tại, nước ta vẫn đứng
trước nhiều thách thực lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn tồn tại. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”,
gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng làm thay
đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Một vấn đề nữa mà ta cần thực hiện tốt trong công tác đối ngoại đó là hiện nay,
rất nhiều công dân Việt Nam đang sinh sống, lao động, học tập và định cư ở nước
ngoài. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp cũng như yêu cầu công dân Việt Nam thực hiện

nghĩa vụ theo đúng thông lệ, luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam là một nhiệm vụ
nhằm khẳng định năng lực, trí tuệ của người Việt Nam và vị thế của đất nước.
Trước tình hình quốc tế và trong nước, đòi hỏi Đảng phải tăng cường công tác lãnh
đạo và thực hiện nhiều hình thức ngoại giao để đáp ứng được xu thế phát triển của
thời đại, phù hợp với tình hình điều kiện cụ thể của Việt Nam. Công tác đối ngoại góp
phần giúp Việt Nam nhanh chóng đạt được những mục tiêu đề ra, nhất là vấn đề về
kinh tế và khoa học - công nghệ, tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế chúng ta
mới có thể đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, trên thế
giới.

1.1.2. Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại là một tất yếu
Đường lối đối ngoại, một bộ phận trong đường lối chính trị của Đảng nhằm góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Từ khi Đảng cộng
sản Việt Nam giành được chính quyền, trở thành một đảng cầm quyền, Đảng luôn đặt
ra nhiệm vụ cho mình lấy mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội làm
đường hướng cho mọi hoạt động của mình. Đảng đang lãnh đạo xây dựng đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội, một xã hội xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, cách thức, bước đi như thế nào thì
chưa có một mô hình nào cụ thể, vì vậy đòi hỏi Đảng ta phải lãnh đạo cách mạng Việt

11


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Nam trong từng giai đoạn cụ thể để con đường cách mạng không đi chệch khỏi định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có cả việc lãnh đạo công tác đối ngoại.
Mục tiêu trong lãnh đạo công tác đối ngoại là giữ vững nguyên tắc vì độc lập,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội, nhưng trong từng giai đoạn lịch sử, thế giới có sự biến
động đa chiều nên để công tác đối ngoại đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong từng
giai đoạn đó đòi hỏi Đảng phải có những nhận định sáng suốt, linh hoạt, kịp thời để

đưa ra chủ trương lãnh đạo phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước
ta, phù hợp với tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đối tượng của ta đặt quan
hệ.
Thực tế đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại chứng tỏ đường lối đối ngoại của chúng
ta đúng đắn, thể hiện sự trưởng thành vượt bậc về nhận thức, quan điểm, chiến lược,
chính sách đối ngoại; trước hết là sự đổi mới rất cơ bản trong tư duy đối ngoại. Từ
chỗ nhìn nhận thời cuộc với những luận cứ đã định sẵn của thời kỳ trước, ta đã
chuyển sang cách tiếp cận mới về tình hình thế giới và xử lý các vấn đề đối ngoại một
cách khác quan, khoa học, đa dạng, nhiều chiều và linh hoạt hơn. Đường lối đối ngoại
là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, dựa trên bối cảnh lịch sử, những mục tiêu chung đặt ra cho từng thời kỳ.
Môi trường đối ngoại của ta vận động và phát triển hết sức phong phú. Các mối quan
hệ luôn ở trạng thái động, biến đổi từng ngày, rất nhanh, muôn hình muôn vẻ, tác
động đến đời sống mọi mặt của quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với kết quả và thành công của hoạt động đối
ngoại.
Cùng đó, hoạt động đối nội là nền tảng và động lực của hoạt động đối ngoại.
Đối ngoại gắn bó mật thiết với đối nội, khi có một chủ trương chính sách đối nội, nó
có thể tác động rất mạnh tới dư luận quốc tế. Mặt khác một sự kiện dù diễn ra rất xã
trên thế giới cũng có thể ảnh hưởng tới nội bộ của Việt Nam. Đất nước ngày càng giàu
mạnh, chính trị-xã hội được ổn định, nhân dân ngày càn no ấm đoàn kết là cơ sở để
hội nhập quốc tế thành công. Trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp, muốn phát
triển bền vững và ổn định thì đất nước phải được đảm bảo có hòa bình, an ninh. Hòa
bình ngày nay gắn với phát triển, an ninh ngày nay là an ninh toàn diện trên các lĩnh
vực quân sự, chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội… Không chỉ những hành
động quân sự, tranh chấp từ bên ngoài mới ảnh hưởng đến an ninh của quốc gia, mà
hoạt động khủng bố, đói nghèo, sự tụt hậu về kinh tế, sự cách biệt về trình độ phát
triển và thu nhập, dịch bệnh lớn, thảm họa môi trường , tội phạm có tổ chức …đều là
12



Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
những mối đe dọa tới an ninh quốc gia. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh
tế của đất nước phải gắn liền với phục vụ bảo đảm an ninh quốc gia. Như vậy đòi hỏi
Đảng phải đưa ra những định hướng trước mắt cũng như lâu dài để đảm bảo phát triển
phù hợp giữa công tác đối ngoại với việc phát triển hài hòa các lĩnh vực của đời sống
xã hội trong nước.
Để thành công trong công tác đối ngoại thì công tác tổng kết, nghiên cứu lý
luận, thực tiễn tình hình thế giới và khu vực, về chiến lược, chính sách đối ngoại của
Việt Nam ngày càng có vai trò hết sức quan trọng. Có một số vấn đề lớn, quan trọng
về tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của ta còn có những ý kiến khác nhau.
Vì vậy, việc tổng kết lý luận, thực tiễn về chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế là
hết sức cần thiết. Công tác đó giúp ta trang bị tư duy mới để đánh giá tình hình thế
giới, khu vực rõ hơn, đúng hơn, có tầm nhìn xa rộng hơn. Từ đó có những dự báo
chính xác hơn, làm cơ sở để nghiên cứu bản chất, ý đồ, tiềm năng và hạn chế của đối
tác, đối tượng trên thế giới, đưa ra những sáng kiến có giá trị về đối ngoại của Việt
Nam trên trường quốc tế.
2. Nội dung lãnh đạo công tác đối ngoại
2.1. Đối ngoại để hợp tác cùng phát triển
Kết quả mong muốn đạt được trong công tác đối ngoại bao giờ cũng hướng tới
là để nâng tầm, đưa vị thế của quốc gia ngày càng cao trên trường quốc tế, các điều
kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, an ninh, quốc phòng… trong nước phát triển
tốt và ổn định. Chính vì vậy trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
đề ra nội dung lãnh đạo thực hiện quá trình hợp tác trong đối ngoại đó là: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác
đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh

thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”
Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trên, Đảng đưa ra một số nội dung cụ
thể: “Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc
tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu những tiêu cực của
13


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường,
khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguông lực về vốn, khoa học-công
nghệ, trình độ quản lý tiên tiến. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song
phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ
chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức
khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống,
và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu” và “củng cố và phát trieenrquan hệ hợp tác,
hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới. Chủ động, tích
cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng
cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ
hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Phát triển quan hệ với các đảng cộng
sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở
đảm bảo lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị hợp tác và
phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới.
Coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân. Tăng cường công tác
nghiên cứu, sự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện
đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; thường xuyên bồi dưỡng kiến thức đối ngoại
cho cán bộ chủ chốt các cấp”
2.2. Đấu tranh trong công tác đối ngoại

Hợp tác để cùng có lợi và phát triển là hướng đích cuối cùng của công tác đối
ngoại. Tuy nhiên, vẫn phải đấu tranh dưới mọi hình thức, mọi mức độ thích hợp để
mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc, đấu tranh để rồi đi đến hợp tác. Hiện nay, nhiều
thế lực thù địch đang can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam, chúng lợi
dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo tín ngưỡng để làm mất ổn định về
tình hình chính trị, an ninh trong nước. Tranh chấp lãnh thổ, xâm phạm chủ quyền
quốc gia luôn diễn ra thường xuyên và diễn biến phức tạp. Mặt khác, Việt Nam đang
thực hiện đối ngoại trên cơ sở các hình thức song phương và đa phương, dù ở hình
thức nào thì bao giờ đối tác và ta cũng muốn những điểm có lợi nhất về mình. Vì vậy,
trong nội dung Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại phải có đấu tranh đảm bảo hài hòa
các vấn đề nêu trên, đồng thời mang lại những lợi thế tối đa cho đất nước. Quan điểm
chỉ đạo là: “sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên
quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi
âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập chủ quyền,
14


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và
thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới,
xây dựng đường biên giới hòa bình, hợp tác cùng phát triển”.
2.3. Một số nội dung lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng, trên cơ sở nhận
thức tình hình thế giới Đảng ta nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa
các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế-chính trị khác nhau, cũng là những điều
kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.Từ đó,
Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ

thống xã hội chủ nghĩa. Ngị quyết số 13 khóa VI của Bộ Chính trị về nhiệm vụ chính
sách đối ngoại trong tình hình mới, đã đánh dấu sự đổi mới về tư duy trong công tác
đối ngoại, đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Đại hội VII (6-1991) Đảng khẳng định chủ trương “hợp tác, bình đẳng cùng có
lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau, trên cơ sở
các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996), chính thức khẳng định
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ:
"Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển".
Đại hội IX (tháng 4-2001), trong công tác đối ngoại Đảng chủ trương: "Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006): "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực".
Đại hội XI: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
15


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
hội nhập quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh”.
3. Nguyên tắc lãnh đạo

3.1. Đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc
Mọi sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đối ngoại đều phải hướng vào lợi ích
của quốc gia và dân tộc, đây vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất, nguyên tắc
được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vừa qua quán triệt sâu và đặt lên vị trí hàng
đầu. Một yêu cầu lớn đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại Đảng nói
riêng là khi triển khai các hoạt động cụ thể phải luôn luôn “vì lợi ích quốc gia, dân
tộc” và “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Khẳng định lợi ích
quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là đặt lợi ích quốc gia, dân tộc
là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Để đạt được mục tiêu nêu trên,
nhiệm vụ bao trùm của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi
cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
3.2. Đảm bảo sự thống nhất trong đối ngoại
Tất cả mọi hoạt động đối ngoại đều phải đảm bảo có sự định hướng của Đảng,
chính vì vậy cần sự thống nhất sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng,
ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại
giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng an ninh. Đây là
nguyên tắc nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng với các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hơn nữa nó tạo ra sự nhất quán trong công tác đối ngoại, đảm bảo thực hiện hiệu
quả nguyên tắc vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.
3.3. Đảm bảo giữ vững độc lập tự chủ, mở rộng quan hệ và đoàn kết quốc
tế
Độc lập, tự chủ là yêu cầu cần thiết trong đối ngoại, chỉ có độc lập tự chủ thì ta
mới có thể chủ động trong các mối quan hệ quốc tế, tránh những sức ép làm hại đến
thể diện, lợi ích quốc gia, dân tộc
Chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
đối ngoại là yêu cầu tất yếu, khách quan phù hợp với đặc điểm và xu thế chủ yếu
trong tình hình hiện nay của thế giới. Chủ trương đó cũng thể hiện nguyện vọng, bản

16


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
chất truyền thống hữu nghị yêu hoà bình, thêm bạn bớt thù của nhân dân ta; vừa hợp
tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập,
lệ thuộc; mặt khác, cũng biểu thị thái độ trách nhiệm cao trong quan hệ với các nước,
sẵn sàng là đối tác tin cậy, trách nhiệm của các nước, nghiêm chỉnh thực hiện mọi luật
lệ và cam kết chung khi thiết lập quan hệ đối tác. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta
cũng yêu cầu các đối tác phải thực hiện các hiệp định, cam kết đã thoả thuận với
chúng ta. Cơ sở chung để thiết lập quan hệ giữa nước ta với các nước là “phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”. Đây là điểm chung, dễ được chấp nhận đối với đại
đa số các nước trên thế giới, bất kể chế độ chính trị của các nước có khác nhau.
3.4. Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau
Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đối ngoại, phù hợp với những quy
định của luật pháp quốc tế, là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được
nhiều lần long trọng tuyên bố với thế giới. Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp, không dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực, bình
đẳng cùng có lợi trong quan hệ với các nước khác, đồng thời kiên quyết chống lại sự
áp đặt củ bên ngoài, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
chúng ta.
3.5. Vận dụng tối đa các lợi thế trong và ngoài nước
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước,
tranh thủ những thuận lợi từ bên ngoài, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước. Bảo
đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Sức mạnh dân tộc bao gồm
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sức mạnh văn hoá tinh thần và sức mạnh vật
chất của dân tộc. Sức mạnh của thời đại trước hết là sức mạnh của quy luật vận động
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của cách mạng khoa học và công nghệ, sức

mạnh của các lực lượng tiến bộ và cách mạng trên thế giới. Vì vậy, chính sách đối
ngoại đúng đắn sẽ khai thác được cả sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; ra sức
phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài, kết
hợp lại để tạo ra sức mạnh tổng hợp, góp phần tạo ra thế và lực mới cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước.
4. Phương thức lãnh đạo
Để triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, Đảng ta đã chủ trương
thực hiện phương thức đối ngoại trên các phương diện: Đối ngoại của Đảng, ngoại
17


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Tùy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà
Đảng ta có những phương thức lãnh đạo trong công tác đối ngoại mềm dẻo, phù hợp,
của các hình thức trên theo phong cách quan điểm của Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng
vạn biến”.
4.1. Đối ngoại của Đảng
Trong xã hội đương đại, vị trí, vai trò của các chính đảng ngày càng tăng,
không chỉ có việc hoạch định và triển khai các chính sách đối nội, mà cả hoạch định
triển khai các chính sách đối ngoại. Trên lĩnh vực đối ngoại, các chính đảng không chỉ
đại biểu cho lợi ích của các giai tầng trong xã hội, mà còn là đại biểu cho lợi ích quốc
gia dân tộc. Nhận rõ vị trí vai trò của mình trong việc lãnh đạo công tác đối ngoại,
nhất là trong công cuộc đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam rất coi trọng việc củng cố,
mở rộng và tăng cường các mối quan hệ với các chính đảng ở các nước khác nhau
trên thế giới. Trong hoạt động đối ngoại, Đảng ta thể hiện đồng thời cả hai tư cách: là
một đảng cộng sản và là một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Do đó, Đảng đề
ra mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của mình, đồng thời đề ra đường lối, chủ trương cho
hoạt động đối ngoại của Nhà nước và của nhân dân, các nhiệm vụ chính trị trong công
tác đối ngoại đó dựa trên những nguyên tắc đã định.
4.2. Ngoại giao Nhà nước

Ngoại giao Nhà nước là lĩnh vực hoạt động thể hiện các mối quan hệ giữa Nhà
nước ta và các quốc gia, các tổ chức quốc tế trên cơ sở công nhận chính thức lẫn
nhau, các mối quan hệ song phương, đa phương. Đây là hình thức hoạt động ngoại
giao do các cơ quan và các đại diện có thẩm quyền của Chính phủ và Nhà nước tiến
hành. Hình thức này sẽ mang lại sự có lợi cho các bên tham gia trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, công nghệ,…
Đảng chủ trương công cuộc đổi mới đất nước, thông qua Nhà nước để mở cửa
tiếp xúc với thế giới qua con đường ngoại giao nhà nước. Trong điều kiện quốc tế
ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng nhanh thì ngoại giao đa phương ngày
càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước ta trên
thế giới. Với những chính sách, nguyên tắc, hoạt động đúng đắn, linh hoạt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Nhà nước đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, phát
triển quan hệ về cả chiều rộng lẫn chiều sâu, thúc đẩy hiệu quả các mối quan hệ.
4.3. Đối ngoại nhân dân
Đối ngoại nhân dân là công tác “dân vận quốc tế” hết sức rộng rãi của các
đoàn thể, tổ chức nhân dân và các cá nhân, nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau,
18


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
củng cố tình cảm hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc; gìn giữ và quảng bá văn hóa
dân tộc trong quá trình giao lưu quốc tế; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của
nhân dân các nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta;
tranh thủ tối đa sự hợp tác, giúp đỡ của bè bạn quốc tế về tri thức khoa học-công
nghệ, tranh thủ viện trợ phi chính phủ để phát triển kinh tế- xã hội; tích cực tham gia
các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội; góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực
và trên thế giới. Các hoạt động đối ngoại nhân dân có thể tiến hành không phụ thuộc
vào tình trạng quan hệ về mặt nhà nước, có thể đi trước một bước và mở đường cho
đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước. Đảng ta rất coi trọng công tác đối ngoại nhân

dân, chủ trương phát triển công tác đối ngoại nhân theo hướng chủ động,, linh động,
sáng tạo và có hiệu quả.
III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI Ở HÀ GIANG
1. Thực trạng
1.1. Những thành tựu trong công tác đối ngoại
Hà Giang là một tỉnh vùng cao, biên giới phía Đông Bắc Tổ quốc, có diện tích
tự nhiên 7831 km2 với nhiều địa điểm đẹp và di tích lịch sử; dân số trên 72 vạn dân
với 22 dân tộc, địa bàn có nhiều khoáng sản, trong đó có những khoáng sản quý như
antimon ở Mậu Duệ - huyện Yên Minh; nhiều động, thực vật quý hiếm như: vooc mũi
hếch, thông đỏ(trong danh sách đỏ của quốc gia và thế giới). Hà Giang là tỉnh có
đường biên giới dài nhất với Trung Quốc, chiều dài là 274km tiếp giáp với hai tỉnh
Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc, có cửa khẩu Quốc gia Thanh Thủy và nhiều
của khẩu phụ như: Xín Mần-huyện Xín Mần, Nghĩa Thuận-huyện Quản Bạ; Bạch
Đích-huyện Yên Minh, Phó Bảng-huyện Đồng Văn, Săm Pun-huyện Mèo Vạc. Hà
Giang là vị trí cầu nối tới các địa điểm du lịch nổi tiếng của Trung Quốc, đặc biệt là
thành phố du lịch Côn Minh.
Với những lợi thế đó, trong những năm qua, vận dụng linh hoạt, sáng tạo
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước vào điều kiện thực tế của địa phương,
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hà Giang đã thu được nhiều thành tựu to lớn,
góp phần xây dựng thành công một mô hình tỉnh miền núi, biên giới với quan hệ hợp
tác quốc tế mở rộng, nền kinh tế - xã hội phát triển và tình hình an ninh - chính trị ổn
định.Thực hiện chủ trương quan trọng của Đảng về công tác đối ngoại trong giai đoạn
hiện nay đó là: mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá
19


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
quan hệ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước;

góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới, tỉnh Hà Giang đã quan tâm chú trọng công tác đối ngoại. Đặc
biệt, đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc nội dung của Nghị quyết Đại hội
lần thứ XI của Đảng về “Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao
nhân dân. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối
ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Đảm bảo sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động
đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà
nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại
giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh”.
Về kinh tế, bám sát đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng trong tình
hình mới, Đảng bộ Hà Giang đã đưa ra nhiều định hướng để phát triển kinh tế phù
hợp với quy mô và loại hình khác nhau, đưa Hà Giang thoát khỏi tình trạng là một
tỉnh nghèo nhất nước. Kinh tế đối ngoại được coi trọng và mở rộng với nhiều nguồn
vốn tài trợ, hợp đồng, hợp tác kinh doanh với nhiều nhà đầu tư. Quan hệ hợp tác kinh
tế với hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc được duy trì, mở rộng theo
hướng tích cực và thiết thực hơn, doanh nghiệp và tư thương của Trung Quốc đã tham
gia đầu tư một số dự án và kinh doanh có hiệu quả. Công tác đối ngoại được thực
hiện tốt, góp phần xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác, phát triển giữa hai nước Việt
Nam và Trung Quốc, đặc biệt là các xã, huyện biên giới giữa tỉnh Hà Giang-Việt Nam
và tỉnh Vân Nam, Quảng Tây-Trung Quốc. Cửa khẩu Thanh Thủy là cửa khẩu quan
trọng nhất và là cửa khẩu quốc gia duy nhất tại Hà Giang, đây là của khẩu đang tạo
nên mũi nhọn kinh tế, được kỳ vọng đột phá trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy phát
triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Ngày 15 tháng 1 năm 2010, Hà Giang đã thành lập Khu
kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, bao trùm lên 6 xã của huyện Vị Xuyên bao gồm Thanh
Thủy, Phương Tiến, Thanh Đức, Xín Chải, Phong Chải, Phong Quang và xã Phương
Độ thuộc thành phố Hà Giang. Có thể trước mắt khu kinh tế cửa khẩu chưa có những
tác động lớn đến phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, nhưng về lâu dài, nó sẽ tác động
ngày một lớn lên dòng vốn đầu tư và phát triển của tỉnh Hà Giang. Ngoài cửa khẩu
Quốc gia Thanh Thủy, Hà Giang còn hàng chục cửa khẩu phụ, việc phát triển kinh tế

biên mậu qua các cửa khẩu này đang được quan tâm đầu tư. Một số dự án xây dựng
cửa khẩu để phát triển kinh tế biên mậu đang trong giai đoạn hoàn thành, như cửa
20


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
khẩu Xín Mần-Đô Long(trước đây là cửa khẩu Mốc 5) đã hoàn thành đầu tư giai đoạn
I, đang tiếp tục đầu tư giai đoạn 2010-2015 với quy mô lớn bao gồm: đường giao
thông, trạm hải quan, bến bãi, …Kinh tế biên mậu đã góp phần vào sự phát triển kinh
tế đáng kể ở Hà Giang.
Trong khuôn khổ hợp tác giữa các tỉnh Biên giới phía Bắc Việt Nam với tỉnh
Vân Nam - Trung Quốc, Hà Giang đã chủ động xây dựng các chương trình hoạt động
đối ngoại thiết thực, phù hợp với điều kiện phát triển của khu vực; đã ký thoả thuận
thành lập nhóm công tác liên hợp giữa 4 tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên
với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Năm 2010, với nỗ lực trong công tác đối ngoại, hợp
tác với các nhà khoa học, cao nguyên đá Đồng Văn đã được UNETSCO công nhận
trở thành công viên địa chất toàn cầu. Đây là điểm mới, mở ra tiềm năng hợp tác phát
triển du lịch cho Hà Giang, là điểm đến của du khách trong và ngoài nước. Một thành
công lớn trong công tác đối ngoại của tỉnh đó là hoàn thành sớm việc phân giới cắm
mốc trên đất liền thuộc đường biên giới tỉnh Hà Giang tiếp giáp với hai tỉnh Vân
Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Trong quá trình phân giới cắm mốc song phương
thuộc địa bàn tỉnh Hà Giang phụ trách, bằng nỗ lực trong công tác đối ngoại, vừa hợp
tác, vừa đấu tranh trên bàn đàm phán và trên thực tế thực hiện tại các điểm cắm mốc,
Tỉnh Hà Giang đã hoàn thành việc cắm mốc và bảo đảm toàn vẹn chủ quyền biên giới
Quốc gia, tổng số mốc đã hoàn thành là 442 cột mốc, trong đó có 358 mốc chính và
84 mốc phụ. Khu vực biên giới của tỉnh Hà Giang, có diện tích đất tự nhiên trên 1.165
km2 gồm 32 xã và 2 thị trấn thuộc 7 huyện biên giới. Trong những năm qua, tình
hình biên giới cơ bản ổn định, các sự việc xảy ra trên địa bàn biên giới đã được các
lực lượng chức năng kịp thời phát hiện và xử lý. Năm 2008, Nghị định thư phân giới
cắm mốc và các văn bản về quản lý, bảo vệ biên giới đã được 2 nhà nước Việt Nam Trung Quốc ký kết và triển khai thực hiện. Nghị định là hành lang pháp lý quan trọng

để các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện, quản lý bảo vệ biên giới quốc gia và duy
trì an ninh, trật tự ở khu vực biên giới. Thực hiện nghị định trên, tỉnh Hà Giang đã chỉ
đạo triển khai thực hiện tốt công tác đối ngoại biên phòng và đối ngoại nhân dân các
cấp. Hà Giang rất coi trọng đối ngoại nhân dân, đối với Hà Giang, một tỉnh có đường
biên giới chung với nước Trung Quốc, có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa
hai bên về mọi mặt. Nhân dân hai bên biên giới có nhiều qua hệ thân tộc, gần gũi, đối
ngoại nhân dân đã góp phần phát huy truyền thống quan hệ hữu nghị giữa hai bên
biên giới, bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, xây dựng đường biên giới hòa bình,
hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; đồng thời là tỉnh có nhiều tiềm năng về phát triển
21


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
kinh tế, xã hội, du lịch, đặc biệt khi Cao nguyên đá Đồng Văn đã trở thành thành viên
của mạng lưới công viên địa chất toàn cầu, lượng du khách nước ngoài đến Hà Giang
ngày càng tăng. Đối ngoại nhân dân đã góp phần giới thiệu tiềm năng đa dạng, phong
phú của tỉnh, nền văn hóa đặc sắc của các dân tộc Hà Giang với bạn bè quốc tế... làm
cho bạn bè quốc tế hiểu về đất nước, con người và nền văn hóa đa sắc tộc của ta hơn.
Nhìn lại công tác đối ngoại của tỉnh Hà Giang trong thời gian gần đây, nổi bật
nhất là: bước đầu đã thu hút được các thành phần kinh tế đầu tư vào một số lĩnh vực
thế mạnh của tỉnh là thủy điện, khoáng sản, dịch vụ, du lịch. Hoàn thành phân giới
cắm mốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, đảm bảo biên giới hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
1.2. Hạn chế cấn khắc phục
Những thành công trong công tác đối ngoại của Hà Giang so với giai đoạn
trước đã có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, xét về toàn diện so với xu thế phát triển trong
nước và quốc tế, so với những điều kiện thực tế của tỉnh thì còn có những hạn chế
nhất định. Công tác đối ngoại chưa thu hút được nhiều đầu tư, chưa bền vững và
tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh đang có. Toàn tỉnh chưa hình thành được
các vùng sản xuất hàng hóa lớn, hàng hóa xuất khẩu chưa mạnh, lợi thế về cửa khẩu

chưa được phát huy. Công tác dự báo để có chiến lược đối ngoại còn nhiều hạn chế
dẫn đến việc không đồng bộ, bền vững và phát triển trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội của tỉnh. Qua đối ngoại, tìm kiếm được các cơ hội hợp tác về kinh tế, nhưng
chưa phân tích hết các góc cạnh của dự án nên còn chịu thiệt thòi về kinh tế, làm ảnh
hưởng đến cảnh quang, môi trường.
Thông qua đối ngoại để phối hợp giải quyết những vấn đề an ninh dọc các vùng
biên giới còn chậm, chưa có nhiều hiệu quả. Tình trạng bắt cóc, buôn bán phụ nữ, trẻ
em sang bên kia biên giới vẫn xảy ra. Tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội ở vùng ven biên
giới chưa được phối hợp với các cơ quan chức năng của Trung Quốc để giải quyết
triệt để, nhiều khi còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp hơn.
Vấn đề tuyên truyền, vận động nhân dân, nhất là các dân tộc thiểu số định cư ở
dọc biên giới, nơi điểm đến của các địa chỉ du lịch trong tỉnh chưa được nhiều, chưa
đồng bộ và gặp rất nhiều khó khăn.
1.3. Nguyên nhân
1.3.1. Nguyên nhân của những thành công
*Nguyên nhân khách quan

22


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng là cơ sở cho những hoạch định và
đường hướng đối ngoại của tỉnh. Sự quan tâm thường xuyên của Đảng, Nhà nước đã
đầu tư vào một số công trình, triển khai nhiều dự án, chương trình quốc gia và một số
chương trình khác có tình thiết thực, phù hợp với yêu cầu phát triển của vùng miền,
dân tộc, biên giới, từ đó nâng vị thế của tỉnh làm cơ sở cho những đối thoại, hợp tác
thành công của tỉnh với các đối tác.
Trong đàm phán về những vấn đề lớn mang tính Quốc tế, Quốc gia, những vấn
đề liên quan đến tỉnh nằm trên địa bàn tỉnh, khi gặp khó khăn trong công tác đối
ngoại, đã nhận được những định hướng, chỉ đạo kịp thời của các ngành chức năng

trung ương.
* Nguyên nhân chủ quan
Sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của lãnh đạo, cán bộ, nhân dân trong tỉnh đối
với công tác đối ngoại, phù hợp với điều kiện, lợi thế của tỉnh. Đổi mới tăng cường sự
lãnh đạo của các tổ chức đảng; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; thực hiện phân
cấp, giao quyền cho cơ sở, đã phát huy tính chủ động, sáng tạo, vai trò tham mưu của
các cấp, cách ngành, từ đó có cơ chế chính sách phù hợp, tạo môi trường thuận lợi thu
hút đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
1.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
* Nguyên nhân khách quan
Địa hình rộng, bị chia cắt mạnh bởi những dãy núi đá cao, nhân dân thiểu số
sống thưa thớt và trình độ học vấn còn thấp nên công tác vận động tuyên truyền thực
hiện chính sách đối ngoại nhân dân gặp nhiều khó khăn
Xuất phát điểm là một tỉnh nghèo, nền kinh tế xã hội thấp, kết cấu hạ tầng chưa
phát triển nên đã chưa tạo được vị thế của tỉnh trong việc tìm đối tác và thu hút đầu
tư.
* Nguyên nhân chủ quan
Cơ chế chính sách thu hút của tỉnh tuy đã có nhưng chưa thực sự đúng tầm,
thiếu sự hấp dẫn; thủ tục hành chính chưa được cải cách nhiều; phân cấp quản lý thực
hiện chức năng đối ngoại chưa được đồng bộ.
Cán bộ thực hiện chính sách đối ngoại của tỉnh còn thiếu, trình độ về chuyên
môn nghiệp vụ kém, thiếu kinh nghiệm. Tiếp cận và tìm hiểu thông tin về đối tác còn
nhiều bất cập…
2. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Giang đối với
công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
23


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Cho đến nay, Hà Giang vẫn là một tỉnh nghèo, để phấn đấu thoát khỏi tỉnh kèm

phát triển, trong Đại hội Đảng bộ Hà Giang lần thứ XI, đã đề ra nhiều giải pháp, trong
đó có những giải pháp để tăng cường hiệu quả trong công tác đối ngoại của tỉnh giai
đoạn 2011-2015. Nằm ở vị trí địa đầu tổ quốc, có đường biên giới trên đất liền dài,
nên giải pháp trong công tác đối ngoại đưa ra phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ:
Bảo đảm giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia trên cơ sở hòa bình, hữu nghị,
hợp tác cùng phát triển.
Bảo đảm tình hình chính trị, xã hội ổn định, tạo môi trường tốt nhất cho việc
phát triển kinh tế-xã hội, thu hút đầu tư đối tác vào tỉnh.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, an ninhquốc phòng trên địa bàn tỉnh, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XI nhiệm kỳ
2010-2015 đã đề ra bốn đổi mới, tám đột phá, mười lăm chương trình trọng tâm, trong
đó có những nội dung liên quan đến công tác đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho
công tác đối ngoại hoạt động có hiệu quả.
Bốn đổi mới, trong đó có đổi mới về phong cách, lề lối làm việc của các cấp,
các ngành, các tổ chức chính trị-xã hội; của cán bộ đảng viên, công chức viên chức
trong thi hành công vụ theo hướng sâu sát, nhanh chóng, chính xác, kịp thời; chống
quan liêu, hành chính, tiêu cực, phiền hà, tham nhũng lãng phí. Đổi mới về cơ chế,
chính sách; về môi trường đầu tư và phát triển.
Tám đột phá, trong đó có đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông; đột
phá về sản xuất hàng hóa tập trung, gắn với chế biến; Đột phá về phát triển thị trường
và đẩy mạnh xây dựng hạ tầng cơ sở cho dịch vụ, du lịch.
Mười lăm chương trình trong đó có chương trình xây dựng và phát triển của
khẩu biên giới; kinh tế biên mậu và hội nhập kinh tế Quốc tế theo lộ trình của quốc
gia.
Đối với kinh tế của tỉnh, để đạt được giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu qua cửa
khẩu đạt 700 triệu USD, lượng vốn đầu tư phát triển đạt 20.000 tỷ đồng theo nghị
quyết của Đảng bộ tỉnh đề ra, tỉnh cần chú trọng tăng cường chỉ đạo công tác đối
ngoại của tỉnh, thay đổi chính sách phù hợp, mời gọi đầu tư vào các lĩnh vực được coi
là thế mạnh của tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động dịch vụ xuất nhập khẩu tại khu
kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, các chợ cửa khẩu và các cửa khẩu phụ. Thông qua hoạt
động đối ngoại, tìm hiểu thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam theo nhu cầu của

thị trường Trung Quốc, nhất là một số mặt hàng nông sản Trung Quốc không sản xuất
được hoặc sản xuất ít nhưng nhu cầu tiêu thụ cao.
24


Tiểu luận: Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay
Nâng cao chất lượng lãnh đạo, chất lượng cán bộ trong công tác ngoại giao,
phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao
nhân dân trên địa bàn tỉnh, thực hiện đối ngoại toàn diện trên các lĩnh vực, chủ động
hội nhập quốc tế, củng cố phát triển, hợp tác, hữu nghị với các tỉnh Vân Nam, Quảng
Tây của Trung Quốc theo phương châm mười sáu chữ vàng và bốn tốt. Phối hợp tốt
các loại hình ngoại giao để tăng cường giới thiệu, quảng bá các tiềm năng thế mạnh
của địa phương, đi đôi với việc xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại – du lịch, xây
dựng các chương trình dự án để kêu gọi thu hút vốn đầu tư, đó là các nguồn vốn
ODA, FDI…, nghiên cứu áp dụng các hình thức đầu tư BOT,BT,BTO…
Trong đối ngoại nhân dân, tiếp tục tuyên truyền, vận động nhân nhân thực hiện
tốt vai trò của mình. Trách nhiệm đó không chỉ những người làm công tác dân vận mà
cần mở rộng cho những cán bộ, viên chức, bộ đội biên phòng đang sống và làm việc
tại các địa điểm vùng cao, dọc biên giới nơi đồng bào các dân tộc thiểu số đang định
cư. Phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước tới nhân dân các dân tộc khu vực biên giới, tập trung vào các nội dung
của Hiệp định tạm thời, Hiệp ước biên giới trên bộ, Nghị định 34 của Chính phủ về
Quy chế biên giới đất liền. Các đồn biên phòng cần tích cực tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền và phối hợp với các tổ chức, đoàn thể các xã, thị trấn biên giới thường
xuyên bám địa bàn, bám dân để tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân; tập
trung tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và địa phương về phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, củng cố quốc phòng - an ninh. Công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về trách nhiệm của mỗi người
dân trong việc tham gia bảo vệ an ninh, trật tự đường biên, bảo vệ cột mốc biên giới

quốc gia.
IV. KẾT LUẬN
Những thành tựu công tác đối ngoại đạt được trong những năm qua của tỉnh Hà
Giang đã khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước, khẳng
định sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của lãnh đạo tỉnh vào điều kiện thực tế của địa
phương. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu thành công của công tác đối ngoại so với
chặng đường đã qua, phía trước Hà Giang vẫn còn nhiều việc phải làm để theo kịp
tiến trình, mục tiêu của tinh thần Đại hội Đảng XI. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
đã chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát của công tác đối ngoại, Đại hội Đảng bộ tỉnh
25


×