Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

de minh hoa thptqg nam 2017 mon van de so 3 file word co loi giai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.78 KB, 8 trang )

ĐỀ SỐ 3
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thục hiện các yêu cầu:
... Đối với ông già, bà già, thanh niên phái có thái độ kính nhường và hết lòng giúp đỡ, bởi vì
một lẽ dễ hiểu là có ông già, bà già thì mới có chúng ta...
Khi đi tàu, đi xe, thanh niên không được chen lấn phụ nữ. Trong trường hợp phụ nữ, nhất là
phụ nữ có thai, chưa có chỗ ngồi, thanh niên phải nhường chỗ của mình cho họ...
Trong xã hội ta, nhiều thanh niên biết tỏ lòng thương yêu quý mến nhân dân bằng hành động
dũng cảm và hào hiệp; lúc chiến tranh xông pha lửa đạn để bảo vệ tính mạng và tài sản của
đồng bào; lúc bình thường cứu giúp trẻ em bị tai nạn, đỡ đần người đi đường bị ốm đau,...
Thanh niên phải luôn có tinh thần xung phong, gương mẫu; bất cứ việc gì tập thế cần thì
thanh niên phải làm với tinh thần trách nhiệm cao nhất; song phải luôn luôn khiêm tốn, thật thà,
không phô trương, dối trá...
Thanh niên cũng phải dành thì giờ nhất định để giúp đỡ cha mẹ, săn sóc các em, chăm lo một
phần công việc gia đình...
(Con đường tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của thanh niên,
Ngữ văn 12, tập một, NXBGD 2013, trang 37)
Câu 1: Nội dung chính của văn bản là gì?
Câu 2: Anh (chị) hãy chỉ ra những biện pháp tu từ được sử dụng đề làm nổi bật lên nội dung
của văn bản?
Câu 3: Qua văn bản trên, em thấy phẩm chất cần có nhất của thanh niên là gì?
Câu 4: Ngoài những phẩm chất cần có trên, theo em thanh niên thời đại hiện nay cần có thêm
những phẩm chất gì? Vì sao?
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Bằng đoạn văn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ của anh/chị về việc làm của người mù trong
câu chuyện sau:
Có một người mù đi trên một con đường tối, trên tay lại cầm theo một chiếc đèn lồng. Một
người thấy thế liền hỏi:
- Ông có thấy đường đâu mà cần phải cầm theo chiếc đèn lồng làm gì?
Người mù liền mỉm cười trả lời:


- Tôi cầm theo chiếc đèn này là để người khác không đâm sầm vào tôi. Làm vậy có thể giữ an
toàn cho bàn thân mình.
(Trích Bài học lớn từ những câu chuyện nhỏ)
Câu 2 (5 điểm)
Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:
Rải rác biên cương mổ viên xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Ao bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành


(Tây Tiến - Quang Dũng)
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó vấ san sẻ
Phải biết hỏa thân cho dáng hình xử sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
GỢI Ý LÀM BÀI (Kèm theo audio CD)
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm)
Câu 1. Nội dung chính của văn bản trên là: nêu những nghĩa cử cao đẹp trong cuộc sống mà
thanh niên cần phải làm.
Câu 2. Những biện pháp tu từ được sử dụng để làm nổi bật lên nội dung của văn bản là: lặp
từ vựng (thanh niên, phải), liệt kê (thanh niên phải có thái độ kính nhường vờ hết lòng giúp đỡ;
thanh niên cũng phải dành thì giờ nhất định để giúp đỡ cha mẹ; thanh niên phải luôn có tình
thần xung phong, gương mẫu; thanh niên không được chen lấn phụ nữ...).
Câu 3. Phẩm chất cần có nhất của thanh niên là: Có tinh thần xung phong, gương mẫu; việc
gì tập thể cần phải làm với tinh thần trách nhiệm cao.
Câu 4. Học sinh trả lời theo ý hiểu, có thể tham khảo những ý sau:
- Thanh niên ngày nay cần phải có sức khỏe tốt để xây dựng sự nghiệp cho bản thân và cống
hiến được nhiều hơn cho nhân dân, đất nước.

- Thanh niên cần phải có tri thức, có văn hóa để làm chủ các phương tiện công nghệ thông tin
góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như sự phát
triển của nền kinh tế tri thức đã và đang dược đặt ra trong thời đại ngày nay.
- Thanh niên phải sống có lý tưởng cao đẹp, biết giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc.
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức:
- Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Yêu cầu về nội dung:
- Giải thích, nêu ý nghĩa câu chuyện: Câu chuyện về người mù gửi đến chúng ta một bài học
nhẹ nhàng mà thấm thìa về sự chủ động trong cuộc sống. Không để đến khi sự việc xảy ra mới
hành động, để tránh được những rủi ro không đáng có, con người cần có những hành động chuẩn
bị cần thiết. Đó là yếu tố quan trọng để con người có thể sống tốt trong mọi điều kiện, mọi hoàn
cảnh.
- Phân tích, lí giải
+ Tại sao cần phải chủ động chuẩn bị trước trong mọi hoàn cảnh?


++ Cuộc sống luôn tiềm tàng nhiều tình huống bất ngờ xảy đến với con người. Những tình
huống đó nếu không có sự chuẩn bị trước, con người khó có thể đối phó, giải quyết. Bên cạnh
đó, không phải ai cũng có đủ khả năng để giải quyết mọi tình huống. Ngược lại, con người luôn
có những hạn chế, thậm chí những điểm yếu. Để giảm thiểu và khắc phục những rủi ro do những
điểm yếu của con người mang lại, con người cần phải luyện tập, phải tự trang bị cho mình nhiều
kĩ năng cần thiết.
++ Có sự chuẩn bị, lường trước những tình huống xấu xảy ra, con người sẽ luôn ở trong tư
thế chủ động, có thể xử lý tình huống một cách nhanh chóng, dễ dàng. Sự chuẩn bị còn giúp cho
con người tự tin hơn, mạnh dạn hơn khi hành động. Như câu chuyện ngụ ngôn về một vị vua nọ,
thay vì sửa chữa mọi con đường cho dễ đi hơn, ông đã trang bị cho mình một đôi giày thật tốt để

có thể đi lại trên mọi địa hình, con người cũng cần luôn tự thay đồi bản thân, tự chuẩn bị cho
mình những yếu tố cần thiết để thích nghi với hoàn cảnh, xử lý các tình huống bất ngờ xảy ra. Có
như vậy, con người mới có thể tồn tại được trong một thế giới vốn tiềm tàng nhiều bất trắc, hiểm
nguy.
+ Làm thế nào để có được một sự chuẩn bị tốt?
Để có được sự chuẩn bị tốt, con người cần phải có những nhận thức đúng đắn về những gì
mình đang có, về điểm mạnh, điểm yếu. Từ sự hiểu biết đúng đắn về bản thân, mỗi người cần
phải lường trước được những tình huống xấu có thể xảy ra bằng cách quan sát những người xung
quanh, rút kinh nghiệm từ những sai lầm đã mắc phải, tự điều chỉnh và trang bị cho mình nhiều
yếu tố để có thể đối phó với mọi tình huống xấu xảy ra. Khi có được những sự chuẩn bị đó, mọi
tình huống sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, thuận lợi.
+ Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm về giá trị của sự chuẩn bị, chủ động trước
mọi tình huống như "Mất bò mới lo làm chuồng”, "phòng còn hơn chống”... Trong cuộc sống
ngày hôm nay, với nhiều thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, con người càng trở nên
mạnh mẽ thì sự chủ động chuẩn bị trước mọi tình huống vẫn luôn cần thiết.
+ Dẫn chứng: câu chuyện phòng chống bão lũ, sự chuẩn bị chu đáo của con người trước
những thảm họa của thiên nhiên luôn là điều cần thiết. Thiết bị hiện đại tới đâu, cơ sở hạ tầng
vững chắc đến mức nào cũng không thể đối chọi lại với sức tàn phá của thiên nhiên nếu
không có sự chuẩn bị trước. Mọi việc trong cuộc sống, nếu có sự chuẩn bị từ trước, con người
đều có thể giải quyết nhanh chóng, dễ dàng.
+ Phê phán: Trong cuộc sống, không phải ai cũng được như người mù trong câu chuyện,
chủ động chuẩn bị để tránh những rủi ro. Căn bệnh "nước đến chân mói nhảy” không còn là điều
xa lạ, đặc biệt trong giới trẻ hiện nay. Nhiều người lại chủ quan, đợi đến khi sự việc xảy ra mới
tìm cách sửa chữa, khắc phục. Không phải lúc nào con người cũng có thế dự đoán hết và chính
xác mọi tình huống xảy ra, tuy nhiên, nếu không có sự chuẩn bị trước, con người cũng khó có thể
đạt được những mục tiêu, giải quyết công việc một cách suôn sẻ.
- Bình luận: Bài học mà câu chuyện để lại luôn đúng đắn trong mọi thời đại. Để hạn chế
những việc bất lợi xảy đến với mình, mỗi con người luôn phải ở trong tư thế chủ động, chuẩn bị
trước những tình huống cổ thể xảy ra, thay đổi bản thân cho phù hợp với hoàn cảnh, thích nghi
với diều kiện. Chỉ có như thế, cuộc sống của con người mới trở nên dễ dàng hơn, tránh được

những điều không may.


Câu 2 (5 điểm)
1. Mở bài:
- Hình ảnh trung tâm của thời đại, niềm tự hào của dân tộc và cũng là hình ảnh trung tâm của
văn học kháng chiến chống Mĩ đó là hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam - thế hệ đóng góp lớn công sức
và xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tirơng lai
Bởi vậy văn học giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều tác phẩm thơ ca cũng
như văn xuôi của các tác giả đã khắc họa sinh động hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng
chiến: Họ là những người lính lái xe Trường Sơn; những cô gái thanh niên xung phong trên chiến
trường; những con người ngày đêm miệt mài lao động công hiến cho đất nước... Họ sẵn sàng hy
sinh, sẵn sàng công hiến tuổi xuân và tình yêu cho đất nước.
- Hai đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điểm cùng thi hiện rất rõ nguồn cảm hứng đó.
2. Thân bài:
- Giới thiệu chung:
+ Quang Dũng lả nhà thơ đa tài: viết văn, lảm thơ, vẽ tranh và soạn nhạc... nhưng thành
công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như
Mây đầu ô, Mùa hoa gạo... Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây
Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập Mây đầu ô lả bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca
kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến là bài hát của tình thương mến, lả khúc ca chiến trận của anh
Vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến "áo vải chân không đi lùng giặc
đánh” (Nhớ— Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề "Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy
thương yêu: "Sông Đáy chậm nguồn qua Phú Quốc — Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”
(Mắt người Sơn Tây — 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947 hoạt
động và chiến đấu ở thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa,

trên dải biên cương Việt — Lào. Quang Dũng là một đại đội trường trong đoàn binh Tây Tiến,
đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ Tây
Tiến nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị.
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu thời chống Mỹ, cứu nước.
Thơ ông giàu chất trí tuệ, cảm xúc được dồn nén và có nhiều liên tưởng phong phú. Trường ca
Mặt đường khát vọng (1971) khá điển hình cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm những năm
tháng ấy. Bài thơ Đất nước là một phần của trường ca Mặt đường khát vọng. Cả bản trường ca có
chung một nguồn cảm hứng to lớn là cảm hứng về đất nước được gợi lên từ những năm tháng
nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài thơ Đất nước là phần cảm
hứng ấy được thể hiện một cách tập trung nhất, cùng với những suy ngẫm của tác giả, một nhà
thơ trẻ khi đối diện với chiến tranh. Đoạn trích ở đề, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện suy
nghĩ của mình về mối quan hệ riêng - chung, quan hệ cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối của các
thế hệ trong một đất nước, một dân tộc. Dĩ nhiên, những suy ngẫm ấy được thể hiện bằng thơ,


tức không đơn thuần là tư tưởng, mà chứa đựng cảm xúc, tình cảm của tác giả.
- Cảm nhận về hai đoạn thơ:
+ Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
++ Nội dung:
+++ Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính: “biên
cương”, “viễn xứ” là nơi biên giới xa xôi, nơi heo hút hoang lạnh. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự
khốc liệt của chiến tranh, miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang
lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi
miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc
vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ
bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ
chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước tí tưởng quên mình vì Tổ quốc
của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
+++ Chiến trường là đạn bom ác liệt là hi sinh mất mát. Đời xanh là tuổi trẻ của mỗi người

ai cũng quý cũng yêu. Vậy mà người lính lại "chẳng tiếc đời xanh" . Câu nói ấy vang lên chắc
nịch mang cái vẻ bất cần, mang cái vẻ ngạo nghễ rất lính. Họ đã ra đi không tiếc tuổi thanh xuân
là họ đã hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, đất nước. Bởi chết cho Tổ quốc chính là chết cho lí
tưởng. Còn quyết tâm nào cao quý và thiêng liêng hơn thế nữa chăng? Ta chợt nhớ tới tích Kinh
Kha sang đất Tần hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng, bên bờ sông Dịch chàng dứt áo ra đi với
khẩu khí yêng hùng tráng sĩ: "Sông Dịch ù ù gió thổi/ Tráng sĩ một đi không trở về". Vậy là
người lính cụ Hồ không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ đẹp cồ kính đượm
màu hỉệp sĩ xa xưa. Thật rằng, họ cũng có những tiếc nuối nhưng trên hết là vì lý tưởng:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
(Thanh Thảo)
+++ Áo bào là áo vua ban cho những người làm nên công trạng. Ở đây, điều kiện thiếu thốn
đủ bề, người lính ra đi trong manh chiếu rách nhàu bọc lấy thân rồi vùi xuống đất. Nhưng qua
câu thơ của Quang Dũng, manh chiếu rách ấy đã trở thành áo bào. Bởi vậy, cuộc tiễn đưa trở nên
bi tráng. Nhà thơ vẫn gợi lên sự thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở
vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống
không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống
vẫn cử mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm
áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng
đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng sông
núi.
+++ Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người từ sĩ đã hòa
cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính
vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái
chết bi hùng của người lính - sự hi sinh làm lay động đất trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau,


thương tiếc. Sự ra đi của người lính được Quang Dũng dùng nghệ thuật nói giảm nói tránh “anh
về đất” làm dịu đi cái đau thương nhưng không tránh cho người đọc khỏi ngậm ngùi. “Anh về

đất” là về với đất mẹ. Đất mẹ giang rộng vòng tay đón các anh trở về sau khi đã hoàn thành
nhiệm vụ. Đặc biệt sự hi sinh ấy không chỉ làm cảm động đến con người mà còn làm cảm động
đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Con sông Mã xuất hiện ở đầu bài thơ trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà
thơ thì ở đoạn thơ này sông Mã lại xuất hiện trong tiếng gầm dữ dội. Đó là “khúc độc hành” của
thiên nhiên đang tấu lên khúc nhạc thiêng liêng, trầm hùng đưa người lính về nơi an nghỉ cuối
cùng.
+++ Cả bài thơ Tây Tiến không có một trận đánh nào được nói tới, không có một tiếng súng
nào vang lên mà cái chết vẫn hiện hình rõ nét, vẫn hiện lên một cách chân thực. Đó chính là cái
nhìn mới về sự khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh. Rất nhiều người lính đã hi sinh dọc đường
hành quân, trên đường ra mặt trận. Họ hi sinh vì điều kiện sống, chiến đấu quá gian khổ, thiếu
thốn: thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu thuốc, lại sáng ở những nơi rừng thiêng nước độc...
++ Nghệ thuật:
+++ Thành công của đoạn thơ là nhà thơ đã sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cồ kính,
trang nghiêm. Sử dụng nghệ thuật đối lập, nhân hóa, nói giảm nói tránh.
Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.
+++ Bút pháp lãng mạn và sử thi đã làm nên hình tượng người lính cụ Hồ trong chin năm
kháng chiến gian lao mà oai hùng lẫm liệt.
+++ Cảm xúc của nhà thơ rất chân thành; giọng điệu thơ có chút xót xa nhưng nổi bật là sự
dứt khoát, mạnh mẽ làm nên sự bi tráng trong cái chết của người Tây Tiến.
+ Đoạn thơ trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
++ Nội dung:
+++ Bốn câu thơ nhẹ nhàng, chân thành và tha thiết. Cách dùng đại từ “em” gợi cảm, gần
gũi, thân mật đủ để làm “mềm hóa” những điều mang tính chất rộng lớn bao quát: đó là những
suy niệm về Đất Nước. “Em ơi” trong câu thơ này không mênh mang dìu dặt đưa người về cõi xa
bên dòng sống Đuống, pha lẫn chút vị hư ảo trong câu thơ toàn vẫn bằng như: Em ơi buồn làm
chi” (Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm). “Em ơi” đở đây là lời nói và tâm niệm của chàng trai
với cô gái, người “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là lời tâm tình của người yêu với
người yêu. Chọn câu chuyện tình yêu nam nữ để nói lên tình yêu đất nước, phải chăng là nkd đã
“mạo hiểm”? Không, chính tình yêu đất nước hòa lẫn trong câu chuyện tình yêu nam nữ mới tại
nên nét độc đáo hơn cho tác phẩm của nhà thơ.

+++ nkd đã khám phá ra một định luật mới “Đất nước là xương máu của mình”. Đối với mỗi
con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý
khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người:
Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ chao ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…
Ngoài ra, hình ảnh “máu xương” còn gợi lên trong lòng người đọc lịch sử đất nước với biết
bao con người anh hùng đã hi sinh đời mình cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc:


Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
(Giang Nam)
+++ Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là… nêu lên một tiền đề. Từ tiền
đề ấy, phải biết…/ phải biết… đề làm nên… Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà
trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn
bó, san sẻ, hóa thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây
nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp
người ta ví một điều gì đó máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất
nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có
rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự soogns
còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương,
quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm
vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy
không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Háo thân cũng có
nghĩa là dâng hiến sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của
mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân. Bóng dáng mỗi người đã
làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hóa thân kia làm sao đất nước
trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời! Những câu thơ in đậm chất duy lý cất lên như

tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người. Tinh thần này đã từng bắt gặp
trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Hay:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị tà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
Một khi ra đi chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng, người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ quên hết tình
riêng một lòng hướng về nhân dân và đất nước.
++ Nghệ thuật:
+++ Thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi nhịp nhàng, linh hoạt gợi về quá trình lịch sử
đầy gian khổ của Đất Nước, gọi về sự hi sinh vĩ đại của nhân dân ta.
+++ Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính alf sự vận dụng những yếu tố dân gian
kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới
mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu,
không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng
của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn dạt bằng hình thức
thơ tự do. có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc


điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
+++ Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu
trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ Đất Nước được lặp lại hai lần kết hợp cách viết
hoa đã tăng thêm sự tôn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của Nhân dân”.
- So sánh:
+ Giống nhau: Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến
tuổi trẻ mình cho đất nước non sông.

+ Khác nhau:
++ Tây Tiến với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ của người lính vùng cao về
những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về
đồng đội, bằng kí ức về một thời oanh liệt của người trong cuộc. Đoạn thơ được viết bằng cảm
xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả thực và lãng mạn. Đất Nước hoàn thành trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái
nhìn tổng quát đưa đen những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả
những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người. Bài thơ, đoạn thơ này nhằm thức tỉnh tuổi trẻ về
trách nhiệm đối với Đất Nước — cũng là một cách kêu gọi tinh thần đấu tranh của tuồi trẻ.
++ Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán
Việt trang trọng với giọng diệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực
khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. Đoạn thơ trong bài
thơ Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần
gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.
3. Kết bài:
Qua hai đoạn thơ trong hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm, các tác giả đã đem đến những nhận thức sâu sắc về vai trò của những người anh hùng vô
danh. Họ đã "hoá thân cho dáng hình xứ sở - Làm nên Đất Nước muôn đời”. Đó là những con
người thầm lặng, giản dị mà cao cà, đáng kính vô cùng. Hai bài thơ cùng viết về đề tài những
con người kháng chiến, nhưng ra đời trong hai hoàn cành lịch sử khác nhau nên đã có những nét
tương đồng và sự khác biệt rất sâu sắc. Hai đoạn thơ trên đã đem đến cho chúng ta những cảm
xúc sâu lắng về sự khốc liệt nghiệt ngã của chiến tranh, về lí tưởng cao đẹp của những người
chiến sĩ, về sự hi sinh thầm lặng của các thế hệ nhân dân để ta thêm yêu cuộc sống, yêu đất nước
của chúng ta ngày hôm nay



×