Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

de minh hoa thptqg nam 2017 mon van de so 18 file word co loi giai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.88 KB, 8 trang )

ĐỀ SỐ 18
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
(1) Điều gì phải, thì cố làm cho kì được, dù là một việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức
tránh, dù là một điều trái nhỏ.
(2) Trước hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và
tinh thần quốc tế đúng đắn. Phải yêu và trọng lao động. Phải giữ gìn kỉ luật. Phải bảo vệ của
công. Phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải chú ý đến tình hình thế giới, vì ta là một
bộ phận quan trọng của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì
trong nước ta cũng quan hệ với thế giới...
(3) Thanh niên cần phải có tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái
và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng, cần phải trung
thành, thật thà, chính trực.
(Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, in trong Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương
đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia).
Câu 1: Đối tượng hướng đến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đoạn trích trên là gì? .
Câu 2: Chỉ ra phong cách ngôn ngữ của đoạn văn trên và các phép liên kết mà tác giả sử
dụng.
Câu 3: Người gửi gắm lời dạy nào thông qua đoạn trích trên? .
Câu 4: Trong khoảng 5-7 dòng, trình bày những suy nghĩ của anh (chị) về việc thế nào là nếp
sống có đạo đức? .
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Nghịch cảnh không chỉ là một phép thử của tình cảm mà còn là thước đo của trí tuệ và bản
lĩnh con người
(Danh ngôn Pháp).
Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên
Câu 2 (5 điểm):
Vẻ đẹp con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ qua hai tác phẩm Những đứa con
trong gia đình của Nguyễn Thi và Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
GỢI Ý LÀM BÀI (Kèm audio CD)


Phần I. Đọc - hiểu (3 điểm)
Câu 1. Trong đoạn trích trên, đối tượng Bác hướng đến là thanh niên. Điều này được thể hiện
trong câu cuối: Thanh niên cần phải có...
Học sinh lưu ý: Đây là lời Bác dặn thanh niên, nó có thể đúng với việc hướng đến cả các đối


tượng khác, tuy nhiên cần phải nắm được đúng đối tượng mà Bác muốn hướng đến chứ không
chỉ dựa vào nội dung câu nói mà kết luận. .
Câu 2:
- Phong cách ngôn ngữ được sử dụng trong đoạn trích là chính luận. .
- Các phép liên kết được sử dụng là:
+ Phép lặp: lặp cấu trúc “điều gì...thì phải... dù là một điều nhỏ”, lặp từ ngữ như “phải...phải,
cần... cần...”
+ Phép liên tưởng: Nhà văn sử dụng trường từ vựng về đạo đức (chẳng hạn như các từ sau:
yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, trung thành, thật thà, chính trực...) .
Câu 3: Lời dạy của Bác ở đoạn trích trên là:
- Thanh niên cần phải tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức đúng đắn của người làm cách
mạng, phải tránh những điều xấu, phải thực hiện những điều tốt”.
- Cụ thể phẩm chất đạo đức mà Bác dạy gồm có những điều sau: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu và trọng lao động, giữ gìn kỉ luật, bảo vệ của công, quan tâm đến đời sống của nhân
dân, chú ý đến tình hình thế giới. Ngoài ra cần có tinh thần và gan dạ sáng tạo, có chí khí hăng
hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng, phải trung
thành, thật thà, chính trực. .
Câu 4: Học sinh trình bày theo suy nghĩ của mình, có thể tham khảo những ý sau đây:
- Một nếp sống có đạo đức là nếp sống theo những chuẩn mực mà xã hội thừa nhận, đó là lối
sống lành mạnh, tích cực.
- Để có lối sống đạo đức, mỗi người cần ý thức về thái độ sống của bản thân, cách cư xử đối
với những người xung quanh hoặc cách tham gia vào công việc chung của tập thể...
- Liên hệ tới lối sống có đạo đức của lứa tuổi thanh niên (chính là lứa tuổi của học sinh) có
những biểu hiện như thế nào. .

Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Yêu cầu về hình thức:
- Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Yêu cầu về nội dung:
- Giải thích ý kiến: Khẳng định ý nghĩa của nghịch cảnh trong quá trình nhận thức và tự nhận
thức của con người.
- Phân tích, bình luận ý kiến
+ Nghịch cảnh là một phần tất yếu của cuộc sống và ai cũng phải trải qua ít nhất một lần
trong đời.
+ Qua nghịch cảnh, ta hiểu thêm về trái tim mình và trái tim người, thấy được tình cảm của


tập thể và cả dân tộc.
+ Đối diện và vượt qua nghịch cảnh, mỗi người và cả dân tộc sẽ chứng tỏ được tầm vóc của
trí tuệ và bản lĩnh của mình.
+ Phê phán quan niệm và hành động sai lầm: chạy trốn hay đầu hàng nghịch cảnh, thiếu tỉnh
táo, sáng suốt khi gặp hoàn cảnh éo le, ngang trái, dễ thất bại trong công việc, thậm chí bị kẻ thù
lợi dụng.
- Bài học nhận thức và hành động
+ Tự làm giàu cho tâm hồn và trí tuệ để có đủ sức mạnh vượt qua nghịch cảnh. Nhưng không
chỉ trong nghịch cảnh mới giúp ta nhận thức được nhiều điều mà ngay trong những hoàn cảnh
bình thường của cuộc sống thường ngày thì mỗi người cần luôn có ý thức học hỏi, cầu tiến để rút
ra kinh nghiệm cho mình, trau dồi kiến thức cho bản thân.
+ Sống yêu thương, đoàn kết, tỉnh táo để cùng nhau chiến thắng nghịch cảnh với cả cộng
đồng.
Câu 2 (5 điểm):
1. Mở bài:
- Hình ảnh những con người Việt Nam đã đi vào thơ ca với những phẩm chất cao đẹp: cần cù

trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thư thời kì kháng chiến chống Mĩ đã dựng lại cả
một thời kì máu lửa, đi sâu tìm tòi, khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người. Tôi nhớ mãi một
Tnú, cụ Mết trong rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; chú Năm, chị Chiến, anh bộ đội tên Việt
trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.
- Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình đều là hai tác phẩm xuất sắc viết về đề tài
chiến tranh cách mạng ở miền Nam vào những năm 60 của Thế kỉ trước. Qua hai tác phẩm, ta
thấy được vẻ đẹp của con người Việt Nam được thể hiện rất rõ nét. Họ là hiện thân của vẻ đẹp
con người Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới
nhưng những con người ấy vẫn sáng ngời lên, nhắc nhở ta về một quảng đường đầy gian khổ,
đau thương, lại rất đỗi anh hùng mà đất nước mình đã đi qua.
2. Thân bài:
- Giới thiệu chung:
+ Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên.
Ông đã có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con
người bất khuất, kiên cường nơi núi rừng Tây Nguyên. Một trong những tác phẩm nồi bật nhất
trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn Rừng xà nu. Truyện ngắn rừng xà nu
được nhà văn Nguyễn Trung Thành viết năm 1965, in trong tập Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc. Tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.
+ Nguyễn Thi là cây bút tiêu biểu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mĩ. Ông
được mệnh danh là Nhà văn của nông dân Nam Bộ. Văn Nguyễn Thi vừa giàu chất hiện thực


quyết liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa đằm thắm, trữ tình với một ngôn ngữ phong phú, góc
cạnh, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ. Nhân vật trong tác phẩm của ông là những
người nông dân Nam Bộ có lòng căm thù giặc sâu sắc, vô cùng gan góc, kiên cường, thủy chung
son sắt với quê hương và cách mạng. Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện
ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông
công tác ở tạp chí Văn nghệ quân giải phóng.
- Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong Rừng xà nu:
+ Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn xúc động, hào hùng về cuộc đấu

tranh anh dũng của dân làng Xô Man. Nhà văn đã đi sâu khám phá những con người Tây
Nguyên, những con người cả đời gắn bó với cây xà nu như gắn bó với Đảng, với cách mạng.
Con Người hiện lên trong trang văn của Nguyễn Trung Thành là hình ảnh của một tập thể anh
hùng nhiều thế hệ. Trang sử hào hùng của Tây Nguyên không chỉ một người viết mà là sự nối
tiếp, kế tục từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ đã cùng nhau dựng xây
làng bàn, dựng xây lịch sử của một đất nước đứng lên. Nói đến phong trào đấu tranh của dân
làng Xô Man, ta không quên hình ảnh những con người hiện lên với vẻ đẹp và phẩm chất đáng
quý:
++ Anh Quyết, anh là cán bộ của Đảng, là người đã nhen nhóm phong trào cách mạng cho
cộng đồng dân làng Xô Man. Tnú còn nhớ như in lời của anh: sau này, nếu Mĩ - Diệm giết anh,
Tnú phải làm cán bộ thay anh. Anh đã chính là người đã truyền sức mạnh, niềm tin cho Tnú, cho
Mai. Anh là một người chiến sĩ dũng cảm, anh hùng.
++ Nếu như anh Quyết là hiện thân của lớp trẻ, của Đảng thì hình ảnh cụ Mết lại sáng lên
trong truyện ngắn như một trụ cột của dân làng Xô Man. Ông như lịch sử bao trùm nhưng không
che lấp đi sự nối tiếp mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn. Mỗi lời nói
của cụ Mết như lời nói của sông núi, là lời nói của dân tộc. Ông cụ là cuội nguồn của dân làng
Xô Man, là Người đã lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc: Chúng nó đã cầm súng, mình phải
cầm giáo. Cụ hiện thân cho truyền thống, cho nét đẹp từ ngàn xưa của dân làng. Cụ rất ít khen
tốt giỏi mà chỉ nói “được”, cụ truyền lại sức mạnh, răn dạy con cháu : Nhớ lấy ghi lấy. Sau này
tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu. Hình ảnh của cụ Mết là hình ảnh của một
già làng suốt đời đã gắn bó với Tây Nguyên, chiến đấu bảo vệ buôn làng, tự hào về cây xà nu.
Đẹp thay hình ảnh của một ông cụ râu bây giờ đã dài tới ngực đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch
ngược hiến hiện giữa núi rừng Tây Nguyên. Và hình ảnh của cùng lớp thanh niên trong làng cầm
giáo mà cứu Tnú cho thấy cụ là hiện thân của sức sống dân tộc, tâm hồn dân tộc. Nguyễn Trung
Thành ngợi ca cụ Mết như ca ngợi cội nguồn, ngợi ca Tây Nguyên bởi vẻ đẹp tâm hồn cụ là vẻ
đẹp của ngày xua, trường tồn và mãnh liệt cho đến hôm nay.
++ Viết về Rừng xà nu viết về những con người anh hùng quả cảm, nhà văn đã khắc hoạ hình
tượng nhân vật trung tâm: Tnú. Tnú là một thanh niên trẻ, anh dũng, gan dạ với cuộc đầy bi kịch,



đau thương nhưng anh đã vượt lên trên tất cả để sống, để chiến đấu và vẻ đẹp của Tnú là vẻ đẹp
của một con người chiến thắng, của một chiến sĩ anh hùng.
Phẩm chất anh hùng của Tnú được bộc lộ từ khi còn là một cậu bé cùng Mai đưa thư, tiếp tế
cho cán bộ. Tnú yêu cách mạng, yêu Đảng. Một lần bị giặc bắt, anh quyết không khai mặc dù bị
tra tấn dã man. Lòng căm thù giặc đã trở thành dòng máu chảy trong lòng anh từ lúc làng Xô
Man còn chưa biết vùng dậy đánh giặc. Tnú lớn lên trong sự yêu thương của dân làng, trong mối
hận của trả thù cho vợ, cho con và ao ước được làm cán bộ. Anh trở thành anh thanh niên xung
phong của dân làng Xô Man. Cuộc Tnú chỉ đau đáu một nỗi niềm với cách mạng, với Đảng. Và
khi mười đầu ngón tay của anh cháy như mười ngọn đuốc anh cũng không kêu van, anh thấy lửa
cháy trong bụng, thấy máu đã mặn chát nơi đầu lưỡi. Tnú hi sinh tất cả, quên mình vì đồng loại,
bàn tay của anh là bàn tay của người anh hùng, bàn tay ấy kể với ta về số phận một con người
đau thương mà không hề chùn bước.
++ Bé Heng, Dít, ... tất cả đều mang cái hồn của dân làng Xô Man. Nguyễn Trung Thành đã
ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước với bản chất anh hùng,
quả cảm của cả một cộng đồng vừa anh dũng lại vừa nhân ái trong công cuộc bảo vệ quê hương.
- Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong Những đứa con trong gia đình:
+ Nhân vật Việt và Chiến:
++ Cả hai chị em điều phải sống trong cảnh thiếu thốn tình thương khi ba và má đã bị giặc sát
hại. Việt và Chiến tranh nhau đi bộ đội, nỗi đau sự thiếu hụt tình cảm gia đình đã hun đúc cho cả
hai chị em lòng căm thù giặc sâu sắc. Việt là một anh bộ đội gan dạ, dũng cảm, tuy bị thương
nhưng vẫn cố tìm và quyết đi theo cùng đồng đội. Trên mặt trận chiến đấu, Việt là một anh lính
Cụ Hồ anh hùng quả cảm lập chiến công mà vẫn khiêm tốn không muốn báo cho chị biết. Chị
Chiến cũng là một người gan dạ, dũng cảm, chị mong mỏi, khát khao được đánh giặc để trả thù
cho ba má. Nguyễn Thi đã ca ngợi phẩm chất anh hùng của “những đứa con trong gia đình” tuy
nhỏ tuổi mà nặng lòng với cách mạng sẵn sàng hi sinh thân mình vì sự nghiệp cứu nước. Bản
chất anh hùng của con người Việt Nam có ở mọi thế hệ, mọi dân tộc tựa như đã trở thành dòng
máu chảy ngầm ở mỗi người con đất Việt. Chiến và Việt là hình ảnh của lớp trẻ hăng hái, dũng
cảm trên bước đường chiến đấu gian khổ, khốc liệt của quê hương. Họ tiêu biểu cho sức trẻ có
thể làm đổi thay sức lịch sử là ghi thêm trang mới.
++ Nguyễn Thi đã phát hiện vẻ đẹp anh dũng của con người Việt Nam nhưng chưa đủ, nhà

văn còn tìm thấy ẩn sâu bên trong những con người gan góc, quả cảm ấy là một tình yêu thương
lớn lao, tình yêu thương gia đình. Việt tuy đã là anh bộ đội song vẫn ngây thơ, trẻ con như cậu bé
thuở nào. Đoạn hai chị em Việt khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm gửi để đi bộ đội thật
cảm động, nó để lại trong lòng ta biết bao rung động, tình cảm ngọt ngào: Nào, đưa ba má sang
ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má. Câu văn như nghẹn ngào mà lại
chứa chan biết bao nhiêu sự quyết tâm của hai chị em Chiến và Việt. Con người Việt Nam trong


chiến tranh đâu không chỉ biết chiến đấu mà còn biết yêu thương. Họ đã vượt lên trên nỗi đau
của cá nhân để chiến đấu vì nỗi đau đồng loại. Hình ảnh của Chiến và Việt hiện lên trong trang
viết Nguyễn Thi thật xúc động, neo lại trong tâm hồn ta vừa ngạc nhiên vừa như ngỡ ngàng vì vẻ
đẹp của con người Việt Nam một thuở.
+ Nhân vật chú Năm:
++ Chú Năm là người nông dân Nam Bộ yêu lao động, sống gắn bó với quê hương, miệt
vườn, đồng ruộng. Lòng yêu quê hương xứ sở của chú Năm được thể hiện qua giọng hò đặc biệt
của chú. Chú Năm hò không hay bởi chú đã già, giọng chú dục và tức như gà gáy. Chú chỉ hò khi
kể lại sự tích gia đình, cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò mấy câu nói về cuộc đời cay cực của
chú. Đặc biệt những chiến công ở miền đất Nam Bộ, cuộc sống con người nơi đây theo tiếng hò
chú Năm hiện lên tha thiết: hình ảnh chiếc áo vá quàng, ngọn đèn biển gò công, hay nghĩa quân
Trương Định. Qua giọng hò, chú muốn nhắc Chiến và Việt về cội nguồn. Tình yêu quê hương
như thắm vào máu thịt, hơi thở của chú Năm qua những điệu hò.
++ Chú Năm là con người tình cảm, nhân hậu, luôn tự hào về truyền thống gia đình. Chú
Năm không chỉ ghi chép các thế hệ gia đình, mà cuốn sổ còn trở thành nơi ghi những chiến công
và nỗi đau của gia đình. Nó không chỉ có ý nghĩa một cuốn gia phả mà nó còn là tấm bia ghi món
nợ máu với bọn để quốc. Chú Năm ghi chép cuốn sổ với một sứ mệnh đặc biệt. Chú quý cuốn sổ
như báu vật, ghi chép tỉ mỉ những sự kiện gia đình với mục đích gìn giữ truyền thống để giáo dục
con cháu. Bởi vậy, khi Chiến và Việt lớn lên, chú yêu cầu hai chị em đọc hết cuốn sổ gia đình.
Mong ước của chú là muốn lấy truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước của gia đình để
giáo dục Chiến và Việt, từ đó có trách nhiệm đứng lên chiến đấu và sống đúng nghĩa. Lòng tự
hào về truyền thống gia đình còn được chú Năm nói với Chiến và Việt một thông điệp mang tính

triết lí: Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho moi
người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước
bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ
đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm,
chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta. Câu nói khẳng định
mỗi con người là một khúc sông, mỗi gia đình là một dòng sông để đổ vào biển lớn của nhân
dân, đất nước. Từ đó nhắc nhở mỗi người phải biết kế thừa, trân trọng, tôn vinh truyền thống cha
ông.
++ Về tình cảm gia đình: chú là người nhân hậu, yêu thương ba chị em như con đẻ. Sau khi
ba má Việt mất, chú thay vai trò của người cha người mẹ nuôi dưỡng, giáo dục chị em Việt. Chú
luôn đặt niềm tin vào thế hệ con cháu. Khi thấy Chiến thu xếp việc nhà ổn thỏa trước khi ra trận,
chú khen: Khôn. Việc nhà nó thu gọn được thì việc nước nó mở rộng được. Gọn bề gia thất,
đặng bề nước non. Con nít chúng bay đánh giặc kì này khôn hơn các chú kì trước.
++ Chú Năm luôn luôn tin tưởng vào cách mạng. Từng tham gia kháng chiến nhưng khi già


không trực tiếp cầm súng đánh giặc, chú bày tỏ lòng nhiệt thành với cách mạng, tinh thần yêu
nước bằng cách khích lệ các cháu tòng quân nhập ngũ. Khi hai chị em Chiến, Việt tranh nhau đi
bộ đội, chú đồng ý cho cả hai ra trận. Chú Năm đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi gia
đình. Chú nhắc nhở Chiến và Việt phải giữ gìn truyền thống của cha mẹ, thù cha mẹ chưa trả mà
trốn về thì chú chặt đầu. Điều này cho thấy dũng khí yêu nước mãnh liệt phảng phất tinh thần
trượng nghĩa, bộc trực của người Nam Bộ nói riêng cũng như con người Việt Nam nói chung.
- Đánh giá: Cùng viết về vẻ đẹp của con người Việt Nam, cả hai tác phẩm đều là những bản
anh hùng ca hào hùng, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng của những người con của đất rừng miền Nam
trong lửa đạn sáng ngời. Những con người mang vẻ đẹp bất khuất, kiên cường cùng lòng căm thù
giặc sâu sắc ngùn ngụt, yêu quê hương tha thiết, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt với gia
đình, cách mạng. Hai tác phẩm đều là truyện ngắn rất thành công của mỗi tác giả, khi mà tài
năng của họ đã đạt đến đỉnh cao. Bằng tài năng nghệ thuật đặc sắc cùng những nét cảm nhận
riêng biệt về hai vùng đất Tây Nguyên và Nam Bộ. Cả hai nhà văn đã khắc họa thành công
những nhân vật điển hình, đại diện cho những mảnh đất và cũng là đại diện cho những con người

Việt Nam nói chung trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Tuy nhiên, ở mỗi tác phẩm cũng có
những nét riêng trong sự thể hiện vẻ đẹp của con người Việt Nam:
+ Ở Rừng xà nu: giàu không khí Tây Nguyên và giàu chất sử thi hùng tráng trang nghiêm;
không khí sử thi ấy đã chi phối nhà văn trong việc xây dựng những nhân vật điển hình mang màu
sắc được lý tưởng hóa phù hợp với nội dung và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Những nhân vật
mà Nguyễn Trung Thành xây dựng không chỉ mang tính cá nhân mà còn là đại diện cho cả một
dân tộc. Không chỉ ở hình tượng nhân vật mà ngay cả trong giọng điệu của câu chuyện cũng
mang tính chất sử thi hùng tráng.
+ Qua hệ thống hình tượng nhân vật của Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi nhằm
giải thích về những phẩm chất anh hùng của những đứa con trong gia đình. Cội nguồn truyền
thống của gia đình đã tạo nên những phẩm chất tuyệt vời cho những đứa con. Câu chuyện được
xây dựng qua một điểm nhìn rất độc đáo đó là sự hồi tưởng, nhớ lại của Việt. Khác với rừng xà
nu, khi mà cụ Mết là người nhớ lại thì đây lại là chính những người trong gia đình nhớ lại những
kỉ niệm gần gũi thân thương, mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân sinh sâu sắc. Đặc sắc trông cách
xây dựng hình tượng nhân vật của Nguyễn Thi là phân tích tâm lý nhân vật, nhưng chi tiết tưởng
như rất bé nhưng lại có những ý nghĩa to lớn, đi liền với nội tâm nhân vật. Đồng thời, nếu như
câu chuyện của cụ Mết là câu chuyện đại diện cho một tộc người thì trong tác phẩm không dừng
lại ở một chủ thể cụ thể nào. Nó không chỉ là câu chuyện của một gia đình mà Nguyễn Thi như
xây dựng một con sông và muốn mọi người góp sức mình để xây dựng nên hàng trăm con sông
khác.
3. Kết bài:
- Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi đều


là tác phẩm xuất sắc của văn học chống Mỹ ở miền Nam. Mỗi tác phẩm có vẻ đẹp riêng, không
khí riêng, cách nhìn riêng về hiện thực đấu tranh cách mạng và nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Vẻ đẹp con Người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác
phẩm còn sống mãi với thời gian. Văn học thời ki chống Mĩ cứu nước đã bắt được nhịp sống của
dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con người Việt Nam. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi
tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của

người con đất Việt.



×