Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

de minh hoa thptqg nam 2017 mon van de so 54 file word co loi giai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.07 KB, 9 trang )

ĐỀ SỐ 54
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Bác bỏ một ý kiến nào đó không giản đơn là tuyên bố ý kiến đó sai, mà phải lập
luận đầy đủ để chứng minh là nó sai thì mới thuyết phục được người nghe, người đọc.
Muốn bác bỏ một ý kiến sai, trước hết hãy trích dẫn ý kiến đó một cách đầy đủ, khách
quan, trung thực. Sau đó, người viết phải làm sáng tỏ hai phương diện: ý kiến ấy sai ở chỗ
nào và vì sao như thế là sai. Để trả lời câu hỏi thứ nhất, cần đọc kỹ và xem xét ý kiến ấy ở
cả ba yếu tố: luận điểm, luận cứ và lập luận. Phân tích để người đọc thấy ý kiến đó sai ở
luận điểm, luận cứ hay ở cách lập luận rồi tiến hành bác bỏ. Để trả lời câu hỏi thứ hai,
cần dùng lý lẽ và dân chứng để phân tích, lí giải vì sao như thế là sai. Chẳng hạn, để
chứng minh một luận cứ sai, có thể bác bỏ bằng cách chỉ ra trong luận cứ đó, người viết
đã trích dẫn sai, cổ V cắt xén ý tứ, câu chữ của người khác, hoặc trích dân đúng nhưng
giải thích lại sai...
(Thao tác lập luận bác bỏ, Ngữ Văn 11 nâng cao, tập 2, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2014, tr. 14)
Câu 1: Văn bản trên đề cập đến vấn đề gì? Trong đời sống và khoa học, vấn đề đó có ý
nghĩa như thế nào?
Câu 2: Tại sao khi muốn bác bỏ một ý kiến sai, trước hết hãy trích dẫn ý kiến đó một
cách đầy đủ, khách quan, trung thực?
Câu 3: Phương thức biểu đạt của văn bản trên là gì?
Câu 4: Anh/chị rút ra bài học gì sau khi đọc văn bản trên? Hãy trình bày ngắn gọn
trong khoảng 5-7 dòng.
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Diễn giả nổi tiếng Nick Vujicic - chàng trai khuyết tật kỳ diệu nhất thế giới đã từng nói:
“Nếu tôi thất bại tôi sẽ thử làm lại, làm lại và làm lại nữa. Nếu bạn thất bại, bạn sẽ cố làm
lại chứ? Tinh thần con người có thể chịu dựng được những điều tệ hơn là chúng ta tưởng.
Điều quan trọng là cách bạn đến đích. Bạn sẽ cản đích một cách mạnh mẽ chứ?”
Anh (chị) sẽ đối thoại với Nick như thế nào? Hãy trình bày quan điểm của mình bằng
đoạn văn khoảng 200 từ.


Câu 2 (5 điểm):
Có ý kiến cho rằng: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử
dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ.
Từ việc cảm nhận về đoạn thơ Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng -


Nguyễn Khoa Điềm), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý LÀM BÀI (Kèm audio CD)
Phần I. Đọc - hiểu (3 điểm)
Câu 1: Văn bản nêu yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ. Trong đời sống cũng như
trong khoa học, luôn tồn tại những vấn đề đúng và những vấn đề sai. Những gì đúng cần
được khẳng định, những gì sai cần được bác bỏ. Bác bỏ một vấn đề sai cũng là một phương
thức để hiểu sâu vấn đề ấy. Thao tác bác bỏ có giá trị rèn luyện tư duy, nâng cao khả năng
nhận thức.
Câu 2: Muốn bác bỏ một ý kiến sai, trước hết phải trích dẫn ý kiến đó một cách đầy đủ,
khách quan, trung thực. Vì có như vậy, mới hiểu thực chất ý kiến ấy là gì và từ đó bác bỏ
mới đúng trọng tâm. Nếu không trích dẫn ý kiến chính xác và đầy đủ, sự bác bỏ sẽ chệch
hướng, ý kiến cần bác bỏ xem như không được để ý đến. Trích dẫn ý kiến đầy đủ, chính
xác, người bác bỏ mới đảm bảo thái độ trung thực và khoa học.
Câu 3: Phương thức biểu đạt của đoạn văn trên là nghị luận.
Câu 4: Học sinh trình bày trong khoảng từ 5 — 7 dòng về bài học được rút ra từ văn
bản trên, có thể tham khảo các ý sau:
-

Phải có thái độ trung thực, cẩn trọng khi bác bỏ một vấn đề, một ý kiến.

-

Văn bản hướng dẫn cụ thể các bước tiến hành thao tác lập luận bác bỏ.


Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Yêu cầu về hình thức:
-

Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.

-

Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...

Yêu cầu về nội dung:
-

Giải thích

+ Giải thích từ ngữ: Thất bại là khi bản thân mỗi người không làm được điều mình
mong muốn, không đạt được mục đích mình đề ra...
+ Giải thích ý kiến: Ý kiến của Nick muốn đề cập đến sức mạnh của ý chí và nghị lực
con người. Thất bại là điều không thể tránh khỏi, nhưng sau mỗi lần thất bại con người
cần có nghị lực, ý chí, niềm tin và lòng lạc quan tích cực, không lùi bước trước khó
khăn, biết vượt lên chính mình.
-

Phân tích, bình luận ý kiến

+ Trong cuộc sống, mỗi người đều có ước muốn, mục đích để vươn tới. Trên con đường
vươn tới mục đích, bạn có thể bị thất bại do nhiều nguyên nhân... Có người thì thiếu tự tin,
có người thì tự mãn với bản thân, có người thỉ lại không hết mình đi đến thành công... Bạn



đừng nên bi quan, buông xuôi tất cả. Bởi vì chính trong những lúc nguy nan, những lúc
khó khăn nguy nan nhất, nếu ta vẫn binh tĩnh và có ý chí, ta có thể lật ngược lại vấn đề. Ta
cần phải tự tin, lạc quan, có nghị lực để vượt qua những trở ngại, khó khăn thử thách để đạt
đến thành công.
+ Điều quan trọng là đứng trước thất bại chúng ta không bỏ cuộc, dũng cảm đương đầu
với thử thách, biết đứng dậy làm lại từ đầu thì sẽ có động lực, niềm tin... Bạn nên nghĩ
rằng: Thất bại và sai lầm bao giờ cũng có hai mặt cả. Tuy nó đem lại cho ta không ít mất
mát và thương tổn nhưng nó cũng là những bài học vô cùng đắt giá, giúp ta tránh lặp lại
những sai lầm về sau.
+ Câu nói của Nick đã đánh thức dậy lòng dũng cảm, sự tự tin trong mỗi chúng ta để
mạnh dạn đối mặt với những thử thách của cuộc đời. Sức mạnh tinh thần lớn lao có thể
giúp con người vượt qua được những giới hạn của cuộc sống như một kỳ tích. "Nơi nào có
ý chí, nơi đó có con đường".
- Bài học nhận thức và hành động
+ Câu nói bao hàm một quan niệm sống tích cực và là lời khuyên đúng đắn: Hãy làm lại
sau mỗi làn thất bại, không bỏ cuộc, hãy dũng cảm, lạc quan, nỗ lực vươn lên, không đầu
hàng số phận... Bản lĩnh thép sẽ dẫn bước thành công.
+ Câu nói còn có ý nghĩa an ủi, động viên ta khi ta gặp thất bại trong cuộc sống, truyền
cho ta niềm tin để ta phấn đấu vươn tới thành công.
+ Phê phán những Người sống thiếu ý chí, nghị lực, tự thỏa mãn với những gì mình đạt
được...
Câu 2 (5 điểm)
1. Mở bài:
Đất nước ta đã đi qua 30 năm của hai cuộc chiến tranh trường kì gian khổ. Đó là những
năm tháng khó khăn nhưng thật huy hoàng:
Cha ông ta đâu bố trí những binh đoàn
Trên đình Trường Sơn dọc bờ Đông Hải
Tên Tổ Quốc vang vang ngoài bờ cõi
Ta đội triệu tấn bom để hái mặt trời hồng

(Chế Lan Viên)
Trong bối cảnh ấy, đất nước đã bước vào thơ ca nghệ thuật trở thành một điểm nhấn
quan trọng, một đề tài lớn. Để phản chiếu cả một diện mạo đất nước trong suốt 30 năm vào
trong thơ, thể loại trường ca xuất hiện. Nhắc đến trường ca trong giai đoạn này, ta không
thể không nhắc đến trường ca Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo, trường ca Chim
Chơ-rao của Thu Bồn, Những người đi tới biển của Thanh Thảo... Nhưng sẽ thật là thiếu


sót nếu ta không nhắc đến trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn
trích Đất nước, nằm ở chương 5 của trường ca đã để lại nhiều dấu ấn nhất với những chất
liệu nghệ thuật đặc biệt. Nói về các chất liệu nghệ thuật được sử dụng trong đoạn trích, có
ý kiến cho rằng: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng vừa
quen thuộc vừa mới lạ.
1. Thân bài:
-

Giới thiệu chung về tác giả tác phẩm:

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước trường kì gian khổ. Ông cùng thế hệ với những nhà thơ như Phạm Tiến Duật, Thanh
Thảo, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Quỳnh,...Trong
dàn đồng ca chung của thơ ca thời kì “Lửa cháy”, Nguyễn Khoa Điềm cũng viết về hào
khí của một dân tộc:
Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!
Trong giai đoạn này, Nguyễn Khoa Điềm viết rất sung sức, rất đều tay. Ông đã cho ra
đời nhiều tập thơ, nhiều trường ca có giá trị. Nhắc đến thơ của Nguyễn Khoa Điềm, mỗi
người yêu thơ không thể không nhắc đến tập thơ tiêu biểu đó là Đất ngoại ô còn nhắc đến
trường ca, sẽ thật là thiếu sót nếu ta bỏ qua trường ca Mặt đường khát vọng. Đọc trường ca
Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, có thể thấy, dư âm mạnh mẽ nhất của tác

phẩm nằm ở chương cuối, đó là chương 5 với nhan đề Đất nước. Chương thơ ấy đã được
tách ra khỏi trường ca Mặt đường khát vọng như một bài thơ độc lập và được xem như một
kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm nói riêng, của thơ ca thời kì “Lửa cháy” nói chung. Thành
công của Nguyễn Khoa Điềm trong chương thơ này là nhà thơ đã thể hiện được tư tưởng
đất nước của nhân dân:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Trong đó chất liệu văn hoá, văn học dân gian được sử dụng rất đa dạng và đày sáng tạo:
Có thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập
quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc như miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt
gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi... Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra
bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ
tích.
-

Giải thích nhận định: Câu nói trên khẳng định đặc điểm của những chất liệu văn hóa

dân gian được vận
dụng trong đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Những chất liệu này là những


chất liệu dân dã, thân thuộc với tâm thức của người Việt Nam biết bao đời. Tuy nhiên, tác
giả của trường ca Mặt đường khát vọng không sao chép y nguyên, cắt ghép đơn thuần
những câu hát, câu nói, câu chuyện cổ, dân gian vào tác phẩm mình. Ngược lại, bằng tài
năng sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách khéo léo
những chất liệu ấy vào tác phẩm của mình. Bởi vậy, những chất liệu ấy vừa quen thuộc
vừa mới lạ.
- Chất quen thuộc của những ngữ liệu dân gian:
Nếu làm phép hệ thống, ta sẽ thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất nhiều chất liệu của
ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ dân gian, các truyền thuyết và cổ tích, các phong tục, tập quán...

trong đoạn trích Đất Nước. Trong đó đáng chú ý nhất:
+ Chất liệu văn hoá dân gian trong đoạn trích Đất Nước gắn với ca dao, tục ngữ, ngạn
ngữ của văn học dân gian. Có thể thấy ở rất nhiều những dòng thơ của Nguyễn Khoa
Điềm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ
đằm thắm, trữ tình, thiết tha của mình, không ngoài mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi
bản sắc văn hoá của người Việt Nam.
+ Chất liệu văn hoá dân gian trong Đất Nước còn gắn với những thần thoại, truyền
thuyết và truyện cổ tích...
Đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước là sự cảm nhận về đất nước
trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Vừa theo mạch cảm xúc thơ, tác
giả vừa huy động vào thơ cả một “kho tri thức” phong phú mang tính tổng thể các loại văn
học dân gian, đã làm nền tảng vững chắc để làm nổi bật tư tưởng của đoạn trích. Trong lời
mở đầu đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm có dòng thơ:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu thường thấy trong các truyện cổ dân gian,
nó mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Sự kì diệu của đất nước trong chống giặc ngoại xâm cũng được nhà thơ gợi lên từ tinh
thần nhổ tre đánh giặc Ân thuở nào của Thánh Gióng mà truyền thuyết đã kể lại. Và những
hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân,
Âu Cơ, bọc trăm trứng... ” cùng hội tụ trong trường liên tưởng của nhà thơ đã làm nổi bật ý
thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên”, cùng được sinh ra từ bọc trăm
trứng nở ra trăm con của cha là Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Vì vậy để gợi nhớ truyền
thuyết Con Rồng cháu Tiên, Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng ngay rằng: Đất là nơi Chim
về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng . Nếu
trong mỗi chúng ta, ai đó một khi chưa hiểu hết về đất nước với những khái niệm trừu
tượng như lãnh thổ, chủ quyền, thì chúng ta sẽ cảm nhận được đất nước là một cái gì đó rất


gần gũi, quen thuộc qua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mẹ
thường kể từ thuở còn nằm trong nôi.

+ Chất liệu văn hoá dân gian còn gắn với phong tục tập quán của người Việt Nam:
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu
nước, anh hùng, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa với phong tục ngàn
đời của cha ông ta đúc kết lại. Vì thế, khi Nguyễn Khoa Điềm tâm sự:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đó là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng nước.
Hay gợi nhớ câu chuyện “Trầu cau” đầy nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền thuyết lại vừa
đậm yếu tố đời thường cũng là gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt.
Hay khi nhà thơ miêu tả cái dáng dấp thấp thoáng của người mẹ hiện lên trong vẻ đẹp
đầy nữ tính của người phụ nữ Việt Nam, nhà thơ đã viết:
Tóc mẹ thì bói sau đầu
Tục búi tóc thành cuộn sau gáy của người dân Việt, đó là tập quán thể hiện quan niệm
“cái răng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ xưa mà đã một thời tô điểm vẻ đẹp
bên ngoài của người phụ nữ Việt Nam.
Nhà thơ đã đưa đến cho người đọc quan niệm hình thành đất nước, đất nước chúng ta
được hình thành từ trong cộng đồng của những người có chung kiểu ngôn ngữ nôm na dễ
hiểu như thói quen đặt tên con bằng tên các đồ vật cho dễ nuôi của người dân lao động
nước ta:
Cái kèo, cái cột thành tên
Với miếng trầu dung dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới
hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Tất cả những điều tưởng chừng
như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ
tục đậm đà bản sắc mang tính văn hoá Việt Nam.
- Chất mới lạ của những ngữ liệu dân gian:
Khi nhà thơ triết lý về cội nguồn sinh ra đất nước cũng là cội nguồn của mỗi gia đình
nên Đất Nước không chỉ tạo bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo bởi
từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ qua câu thơ:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Thì đây là ý thơ cho ta thấy tác giả gợi tả từ cái gốc của chất liệu dân gian, đó là từ
trong câu ngạn ngữ dân gian “Gừng cay muối mặn”, chỉ những cay đắng gian nan đã gắn

bó tình nghĩa vợ chồng. Và thói quen tâm lí, tình cảm này cũng làm cho ta gợi nhớ đến câu
ca dao hết sức trìu mến:
Tay bưng chén muối đãi gừng


Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Đất nước vốn là một đề tài lớn nhưng nó hiện lên trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không
hề lí luận khô khan, khó hiểu mà dễ đi sâu vào lòng Người như câu hát, điệu ru của bà của
mẹ. Người đọc có cảm giác Nguyễn Khoa Điềm không làm thơ mà như đang cất lên làn
điệu dân ca, những câu hò sông nước bởi mỗi người Việt Nam từ trong tiềm thức của mình
ai chẳng một lần vang lên câu hát vọng về từ xứ Lạng:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Câu ca này điệp vào thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở hình ảnh:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
Và khi Nguyễn Khoa Điềm nhằm giãi bày Đất Nước trải ra theo chiều dài, chiều rộng
của không gian nhưng không gian ấy thật gần gũi, là nơi con chim bay về, nơi con cá móng
nước:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông mong nước biển khơi ”
Thì đó là một ý thơ có thể nhận thấy, nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình Trị - Thiên quen thuộc, bởi vì nhà thơ được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá
trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa
dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi khái quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng
đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dân của quê hương, xứ sở mình:
Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phản tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh,
con chim nọ đổi đời về non xanh
Mỗi độ xuân về, người Việt Nam lại hành hương về đất tổ, lòng ta lại rạo rực, bồi hồi,
xúc động trước những câu ca dao mộc mạc chân thành mà đằm thắm:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng 3 mùng 10
Toàn bộ điều này được kết tinh trong câu thơ:
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết củi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Ta còn thấy ở đây có những câu ca dao như:
Khăn thương nhớ ai


Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Câu ca dao ấy bước vào “Đất nước” trở thành câu thơ:
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Những câu thơ, đằm thắm, trừ tình nhất tác phẩm cũng được mượn ý từ ca dao:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Là ý tứ từ câu ca dao đầy ngọt ngào, trìu mến,
bỉnh dị và hết sức thân quen, nó thường trục hằng ngày mà trong những đôi nam nữ, trai
gái yêu nhau không khó để nhận ra:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Có lúc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhằm nói đến sự quý trọng trong lối sống tình
nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ khó nhọc, gian nan:
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Thì dâu đó phản phất trong ca dao cũng đã đúc kết và nhắc nhở mọi người rằng:
Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Ngoài ra, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng nói đến một phẩm chất nữa của nhân
dân Việt Nam là bền bi kiên cường trong chiến đấu dụng và giữ nước, vì đất nước là của
nhân dân, do nhân dân làm nên, nên đất nước mãi mãi trường tồn, bất diệt:

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trà thù mà không sợ dài lâu
Điều này cũng có nghĩa là trong ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã luyến láy,
cảm hứng xuất phát từ cái gốc của câu ca dao đầy hùng hồn và đanh thép:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què
Có thể thấy ở tất cả những dòng thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận dụng
và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết
tha của mình, không ngoài mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc văn hoá của
người Việt Nam.
Như vậy, tất cả những chất liệu dân gian được sử dụng đều được tái chế, biến hóa trong
những câu thơ rất mực trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm. Phải hiểu và yêu kho tàng văn hóa
dân tộc này, tác giả mới có thể sáng tạo được những câu thơ như vậy.
- Đánh giá:
Có thể nói từ những hệ thống như trên, chúng ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng
chất liệu văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo. Không trích dẫn nguyên văn câu ca


dao, tục ngữ, dân ca, không kể dài dòng các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục
tập quán, mà nhà thơ chỉ bắt lấy rất tinh tế cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng,
gợi suy ngẫm cho người đọc. Cho nên khi tiếp xúc tạo cho người đọc cảm giác vừa quen
vừa lạ. Cảm giác “quen” vì từ thuở ấu thơ mỗi người trong chúng ta, ai cũng đã sống trong
không khí văn hoá dân gian, cho nên trong mỗi người Việt Nam hết sức nhạy cảm với ca
dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập quán...Chỉ cần một lay động nhỏ,
là tâm hồn người Việt Nam đã rung lên bao hồi ức. Còn cảm giác “lạ” là khi đọc những
dòng thơ này là do từ những chất liệu văn hoá, văn học dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã
thu nạp được nhiều ý tưởng rất thơ, rất êm dịu và cũng rất bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho
đoạn thơ.
2. Kết bài:
Đoạn trích Đất nước đã để lại một dấu ấn riêng, đặc sắc không chỉ bởi tư tương nhân

dân bình dị, thấm nhuần mà còn bởi những chất liệu nghệ thuật vừa gần gũi, vừa mới
mẻ, độc đáo mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng. Chính chất liệu ấy đã khiến
cho những câu thơ giàu suy tưởng trở nên ngọt ngào, thiết tha và neo đậu bền chặt trong
tâm thức Người đọc không chỉ hôm nay mà còn mai sau.



×