Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

de thi thu thptqg nam 2017 megabook de so 5 file word co loi giai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.82 KB, 8 trang )

ĐỀ SỐ 5
Đề thi gồm 01 trang
★ ★★★★
Bộ ĐỂ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC
Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Những lá thơm hái lúc về già
Hái những lá có hương tư tưởng
Khi cây đã hóa trầm trong ruột
Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa?
(Nội dung và hình thức, Chế Lan Viên)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ chức năng và thể thơ của văn bản?
Câu 2. Tìm và nêu tác dụng của hai biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản?
Câu 3. Nêu nội dung tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong văn bản?
Câu 4. Anh/Chị ấn tượng với hình ảnh thơ nào nhất? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn khoảng 200 chữ, hãy bình luận thông điệp được tác giả gửi gắm vào văn
bản?
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của nhà
văn Tô Hoài khi xây dựng con người thức tỉnh. Phân tích đoạn trích Vợ chồng A Phủ để làm
sáng tỏ nhận định trên.


HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1:
-



Văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Bởi vì trong văn bản sử

dụng các biện pháp tu từ, hình ảnh truyền cảm,và hình thức
thơ ca.
-

Thể thơ bảy tiếng/thất ngôn.

Câu 2 - Biện pháp tu từ:
+ Ẩn dụ: “lá thơm hái lúc về già”, “lá có hương tư tưởng”, “cây hóa
trầm trong ruột”
+ Câu hỏi tu từ; “Lá đủ rồi.... ?”
+ Đối: lá - hoa
- Tác dụng:
+ Về hình thức: giúp lời thơ hình ảnh hơn, hàm súc và giàu sức gợi hơn,
triết lí được thuyết phục hơn.
+ Về nội dung: góp phần thể hiện quan điểm của nhà thơ về tầm quan
trọng của nội dung, của bản chất bên trong của mỗi sự vật, sự việc hay con
người.
Câu 3 - Về hình thức: trình bày theo đoạn 3-4 câu.
- Về nội dung: qua văn bản, nhà thơ Chế Lan Viên muốn nhắn nhủ đến
người đọc tầm quan trọng của nội dung, của bản chất bên trong của mỗi sự
vật, sự việc hay con người.
Câu 4 - Về hình thức: trình bày một đoạn văn khoảng 5-7 câu
- Về nội dung: có thể chọn một trong những hình ảnh:
+ “Những lá thơm hái lúc về già” => Hình thức không phải độ xanh tươi
nhất nhưng lại là thời điểm tỏa hương thơm.
+ “Hái chiếc lá có hương tư tưởng” => Trân trọng những vẻ đẹp bên trong.
+ “Cây hóa trầm trong ruột” => Trân trọng vẻ đẹp bên trong.

+ “Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa?” => Khẳng định nội dung bên trong quan
trọng hơn hình thức bên ngoài.
III.LÀM VĂN ( 7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)

-

Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:

Đảm bảo hình thức đầy đủ của đoạn văn: mở đoạn - thân đoạn - kết đoạn, dài khoảng

200 chữ. Câu mở đoạn cần dẫn dắt và nêu được vấn đề nghị luận. Thân đoạn bố cục rõ ràng,


đi đúng trọng tâm, làm sáng rõ được yêu cầu của đề, vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, rút ra bài học nhận thức và hành động.
-

Trình bày sáng sủa, diễn đạt rõ ràng, chữ viết dễ nhìn, không sai chính tả.

-

Dùng từ chuẩn ngữ nghĩa, đặt câu chuẩn ngữ pháp.

-

Có những suy nghĩ, đánh giá của cá nhân mới mẻ nhưng cần thuyết phục và hợp lí.

-


Viết đúng chính tả, trình bày sáng rõ, mạch lạc.

-

Lời văn sáng tạo, lôi cuốn.


Yêu cầu chung về nội dung:

Có thể bàn luận theo nhiều hướng khác nhau, nhưng sau đây là một gợi ý.
-

Giải thích: giải thích các hình ảnh ẩn dụ “Những lá thơm lúc về già”, “Hái những lá

có hương tư tưởng”; “cây hóa trầm trong ruột”. ..=> Khái quát ý nghĩa của bài thơ: đề cao
nội dung bên trong hơn hình thức bắt mắt, thu hút bên ngoài.
-

Lí giải: vì sao nhà thơ lại cho rằng: cây và lá nếu đã hóa trầm trong ruột thì không

cần đợi hoa
+ Vì bản chất hoa thu hút người ta bởi thị giác và khứu giác.
+ Cây hóa trầm, lá có hương thì sự thu hút bằng màu mè không còn quan trọng nữa.
-

Chứng minh:

+ Nhà văn trẻ thường cố trau chuốt từ ngữ, nhà văn có tuổi nghề thường hướng tới nội
dung và sự sáng tạo nhiều hơn.
+ Người trẻ để ý váy áo, người có tri thức và chín chắn để ý đến suy nghĩ, lời nói, hành

động, tri thức nhiều hơn.
-

Bàn luận: tuy vậy, hình thức và nội dung hòa hợp, cả hai phương diện đều đẹp đẽ và

cao quý vẫn là mục đích con người hướng tới.
-

Bài học: rút ra bài học, nhận thức, hành động cho bản thân.

+ Trau dồi nội dung, chỉn chu hình thức.
+ Lấy nội dung bù đắp cho khiếm khuyết về hình thức.
Câu 2 (5 điểm)


Yêu cầu chung:

-

Đảm bảo cấu trúc đề nghị luận: mở bài -thân bài - kết bài.

-

Xác định đúng vấn đề cần nghị luận.

-

Triển khai vấn đề thành các luận điểm, vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp

chát chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.

-

Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.


Yêu cầu về nội dung:


Nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một thành công của nhà văn Tô Hoài;
-

Phân tích hình tượng nhân vật Việt và Chiến để thấy được đặc điểm và tính cách riêng

biệt của hai chị em, đồng thời cũng là những nét đặc trưng, tiêu biểu cho hình tượng tuổi trẻ
Việt Nam những năm tháng chống Mỹ cứu nước.
-

Nghệ thuật xây dựng nhàn vật điển hình của Nguyễn Thi.

-

Bàn luận, đánh giá các ý kiến.
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM

o

Kiến

Hệ thống


thức

ý chính

Phân tích chi tiết
- Tiểu sử:
- Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một gia đình
thợ dệt thủ công ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (quê
ngoại), nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của
ông ở Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ).
- Năm 1943, Tô Hoài tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng

Vài nét về chiến chống thực dân Pháp, ông viết báo và hoạt động văn nghệ ở Việt
tác giả

Bắc. Do có trình độ hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong
tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất
nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời

Kiến

thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể

thức

chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường.

chung

- Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh

về văn học và nghệ thuật.
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn
viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và
nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954).
Vài nét về
tác phẩm

Tập truyện được tặng giải Nhất - giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam
1954 - 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà
văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phẩm thể hiện
chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân
tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến

Kiến

Giải thích

cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời.
“Con người thức tỉnh” chỉ một dạng nhân vật văn học vốn có số phận

thức

bất hạnh nhưng biết vươn lên đấu tranh để thay đổi cuộc đời, giành lại

trọng

cho mình những niềm hạnh phúc đáng được có. Mị là nhân vật từng


tâm


nếm trải nhiều cay đắng, tủi nhục và đau khổ trải qua những năm dài bị
áp bức bóc lột bị chà đạp, giày xéo mà trở thành con người gần như vô
cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận
mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý thức về
quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất công
giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng
với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh” giàu
ý nghĩa nhân văn.
Phân tích * Cuộc đời Mị đầy bi kịch
- Mị là cô con dâu bị bắt gạt nợ
+ Mị là một cỏ con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món
nợ truyền đời - truyền kiếp là hai mươi đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay
bố Pá Tra hồi cưới nhau.
+ Quãng đời của Mị ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối
nhất của một người đàn bà ở giữa chốn địa ngục trần gian.
+ Tuy là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại phải làm việc
quần quật như “con trâu, con ngựa”. Sống vô cảm vô hồn, không có ý
thức về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu, cam chịu, nhẫn nhục...
- Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn
bà Mèo ấy, nhưng đằng sau cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp
thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ của khát vọng sống. Và chỉ cần một
cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên thành lửa ngọn - ngọn lửa của sự khát
khao mãnh liệt được sống - chứ không chấp nhận tổn tại với thân phận
nô lệ như vậy.
- Mị muốn chết mà không chết được.
+ Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố Mị yếu quá rồi. Ai có thể làm
nương ngô giả được nợ thống lí! Mị chỉ còn khóc.
+ Mị phải ném nắm lá ngón xuống đất. “Mị không đành lòng chết...
còn phải trở lại nhà thống lí”. Mị cam chịu kiếp nô lệ con dâu gạt nợ vì

thương bố => Mị hiếu thảo và giàu hi sinh.
- Những năm dài đen tối, những tháng ngày tủi nhục đắng cay Mị đã
thức tỉnh, khao khát sống và hạnh phúc.
+ Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Tết đến,
mùa xuân làng Mèo làm cho hoa thuốc phiện “đỏ au” thêm rực rỡ,


những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ.
Những cuộc vui chơi của trai gái, trẻ con như đánh pao, đánh quay, thổi
sáo, thổi khèn và nhảy múa diễn ra náo nhiệt trên sân trước nhà. Và
tiếng sáo tiếng khèn “rủ bạn đi chơi” làm cho Mị “thiết tha bổi hồi”. Mị
nhẩm theo tiếng hát, tiếng sáo vọng lại:
“.. Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu...”
=> Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ
uống ừng ực từng bát”. Uống cho tan nỗi hận! Uống cho vơi đi bao đau
khổ chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”, Mị “sống về ngày trước”. Mị
nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo gọi bạn tình
đã nhập vào hồn Mị, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo. Mị đã thật sự hồi sinh
và hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm. Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy
“phơi phới”, trong lòng “đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày
trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết. Khao khát được sống trong tình
yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
* Mị thức tỉnh và đấu tranh cho cuộc đời mình
- Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ
+ Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị với A Sử
“không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”.
+ Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt. Tiếng sáo gọi bạn
yêu đang “lửng lơ bay ngoài đường”.
=> Đó là tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh.

Mị đang “vùng vẫy“ cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi nhục!
- Mị đã phản kháng, đã hành động
+ Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy hoa, rút thêm
cái áo, quấn lại tóc. Mị “sắp đi chơi”. Hành động Mị ngang nhiên diễn
ra trước mắt thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày
muốn đi chơi à?”.
+ Mị đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay.
Làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Mặc dù lúc mê
lúc tỉnh, lúc khắp người “bị dây trói thít lại, đau nhức”, nhưng Mị vẫn
“nồng nàn. tha thiết nhớ”, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi”.


=> Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu, về hạnh phúc,
khao khát của Mị rất mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi
bút phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tô Hoài
rất tinh tế, sâu sắc.
- Mị không ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục.
Mị và A Phủ “gặp nhau” tại nhà thống lí. Người con dâu gạt nợ. Người
vì tội đánh con quan mà trở thành người “vay nợ, ở nợ”. Cả hai đều là
con trâu, con ngựa của nhà thống lí.
=> Nhưng rồi cảnh ngộ, tình thương và lòng câm thù đã thức tỉnh ý
thức Mị, tâm hồn Mị.
+ Qua “ngọn lửa bập bùng”, Mị “lé mắt trông sang”, Mị xúc động nhìn
thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đã xám đen
lại” của A Phủ.
+ Mị nhớ lại đêm năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế Mị khẽ
thốt lên lời than: “Trời ơi!...”. Mị nguyền rủa cha con thống lí: chúng nó
thật độc ác”. Bao cảnh thương tâm đồng hiện trong tâm hồn Mị: bắt trói
đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói chết

người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”.
+ Mị tự thương cảnh ngộ mình; thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử
thẩn đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết”.
+ MỊ nghĩ về thân phận mình, tưởng như là cam chịu: “Ta là thân đàn
bà, nó đã bát ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn bỉếi đợi ngày rũ xương
ở đây thôi...”.
+ Mị ý thức được A Phủ không thể chết, “việc gì mà phải chết thế! Con
đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lúc ngập
ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cũng thế, Mị tưởng tượng A Phủ trốn
thoát, Mị sẽ bị trói trên cái cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa.
Hình như bóng tối cho Mị sức mạnh, “trong tình cảnh này, làm sao Mị
cũng không thấy sợ...”.
=> Hành động tự giải thoát, Mị cắt dây trói A Phủ cũng là tự cắt dây
trói để giải thoát mình.


Đánh giá
chung

- Ý kiến hoàn toàn chính xác và thuyết phục: Mị là con người thức
tỉnh, thức tỉnh từ nhận thức đến hành động, và điểu đó mang lại cho Mị
một cuộc đời mới, có ý nghĩa và được làm một con người thật sự.
- Bằng tài năng và một vốn từ phong phú, Tô Hoài đã phân tích tinh
tế, sâu sắc mọi diễn biến về tâm lí và hành động Mị trong quá trình thức
tỉnh với tất cả sự thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị là nhân vật thức
tỉnh có sức mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã
góp phần thể hiện giá trị nhân văn của truyện Vợ chồng A Phủ.




×