Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

de minh hoa thptqg nam 2017 mon van de so 8 file word co loi giai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.34 KB, 10 trang )

ĐỀ SỐ 8
Phần I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Một tư tưởng chuẩn bị cho một tương lai vững bền là phải bắt đầu làm điều gì đó trước,
để đón nhận nó và sống vì chân lí đó. Trồng cây xanh là một lẽ sống không chỉ một công việc mà
là một triết lí nảy sinh từ sự phát triển cho sự nghiệp và dân tộc. Bác thể hiện tư tưởng của mình
một cách giản dị khi phát động “Tết trồng cây” rằng, chúng ta sẽ có những cây vừa ăn quả, vừa
có hoa, vừa có cả cây làm cột nhà. Thêm nữa, Người còn tô đậm cho một tương lai của môi
trường sống; khi ấy phong cảnh nước ta sẽ ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hòa hơn, cây
gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của dân tộc ta. [...]
Tư tưởng của Bác Hồ ngày càng sâu sắc và là ngọn đuốc chỉ đường cho một tương lai
của dân tộc ta trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác. Nếu điểm lại những vụ cháy rừng, hay những
trận lũ lụt liên tiếp xảy ra trên vùng cao, mới thấy triết lí của Bác trong “Tết trồng cây” thấu
tình đạt lí làm sao. Sự hối hận đã trở nên muộn màng khi con người triệt phá rừng cây. Bọn lâm
tặc là những kẻ tội đồ cần phải trừng phạt. Nhưng con người nếu không có trách nhiệm với mỗi
cây xanh, mỗi cánh rừng cũng sẽ trở nên đồng phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của
chính mình. Mỗi cây xanh bị đốn chặt là một tội ác. Hạ sát thiên nhiên bao giờ cũng đế lại hậu
quả lâu dài. Và máu người lại đổ xuống. Mạng người lại bị vùi lấp trong những cơn lũ tràn về
bất ngờ hay những trận lở núi ập xuống đem lại tai họa khó lường.
(Chung Tử, 55 mùa xuân và “Tết trồng cây”, số
Xuân Ất Mùi tạp chí Tri thức và Thời đại, 1+2/ 2015)
Câu 1: Đoạn trích nhắc đến hoạt động đẹp nào của dân tộc ta được Bác Hồ phát động?
Câu 2: Đoạn trích được triển khai thành hai luận điểm cơ bản. Hãy chỉ ra hai luận điểm đó.
Câu 3: Đoạn thứ hai nhắc nhở con người bài học gì?
Câu 4: Chỉ ra mối quan hệ giữa hai câu văn sau: Bọn lâm tặc là những kẻ tội đồ cần phải
trừng phạt. Nhưng con người nếu không có trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cánh rừng cũng
sẽ trở nên đồng phạm phủ hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chỉnh mình.
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Cuộc sống là nguyên liệu thô, chúng ta là những nghệ nhân. Nhào nặn nên một tác phẩm



tuyệt đẹp hay một vật thế xấu xí tất cả đểu nằm trong tay chúng ta
Bằng đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
Câu 2 (5 điểm):
Nhân đạo là một trong hai cảm hứng xuyên suốt nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo
đó ở văn học từ 1930-1945 có gì giống và khác ở văn học từ 1945-1975?
Qua việc phân tích và chứng minh qua hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (Ngữ văn 11,
Tập 1) và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ văn 12, Tập 2).
GỢI Ý LÀM BÀI (Kèm audio CD)
Phần I. Đọc - hiểu
Câu 1: Hoạt động được Bác Hồ phát động được đề cập đến trong đoạn trích là “Tết trồng
cây”.
Câu 2: Hai luận điểm được đề cập đến trong đoạn trích là:
-

Nguyên nhân Bác phát động “Tết trồng cây” với những lợi ích của việc trồng cây xanh đối

với sự phát triển của sự nghiệp và dân tộc ta.
-

Chỉ ra thực trạng của rừng hiện nay và hậu quả của việc chặt phá rừng, từ đó lên tiếng cảnh

tỉnh con người phải bảo vệ rừng.
Câu 3: Đoạn trích thứ hai có mục đích nhắc nhở con người cần phải bảo vệ rừng vì khi thiếu
rừng, con người sẽ phải gánh chịu nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đó là việc “tàn phá chính sự
sống của chính mình”, hơn nữa hậu quả không chỉ diễn ra thời hiện tại mà còn ảnh hưởng lâu dài
đến mai sau (“những cơn lũ tràn về bất ngờ hay những trận lở núi ập xuống”).
Câu 4: Hai câu văn sử dụng từ “nhưng” để kết nối quan hệ. Thông thường, từ “nhưng” biểu
thị quan hệ tương phản, tuy nhiên trong trường hợp này “nhưng” chỉ biểu thị ý bổ sung, bổ trợ ý
của câu thứ nhất (Bọn lâm tặc là những kẻ tội đồ cần phải trừng phạt) cho câu thứ hai (Nhưng

con người nếu không có trách nhiệm với mỗi cây xanh, mỗi cánh rừng cũng sẽ trở nên đồng
phạm phá hoại màu xanh và tàn phá sự sống của chính mình).
Phần II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Yêu cầu về hình thức:
-

Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.

-

Trinh bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...


Yêu cầu về nội dung:
-

Giải thích

+ Cuộc sống là nguyên liệu thô: Cách nói hình ảnh để chỉ những bộn bề phức tạp của cuộc
sống: thuận lợi và khó khăn, tốt đẹp và ác xấu, bình lặng và bão giông.
+ Nghệ nhân: con người tài năng, tâm huyết đạt đến độ tinh tuý trong công việc của mình.
+ Nhào nặn nên một tác phẩm tuyệt đẹp hay một vật thể xấu xí tất cả đều nằm trong tay
chúng ta: Từ nguyên liệu cuộc sống mỗi người sẽ tạo nên tác phẩm cuộc đời của mình.
Ý cả câu: Câu nói đã khẳng định và đề cao vai trò quyết định của mỗi cá nhân đối với cuộc
sống của chính mình. Chính thái độ sống, năng lực sống của bản thân sẽ làm nên giá trị, ý nghĩa
cuộc sống của mỗi người.
Phân tích, bình luận ý kiến
+ Khẳng định: Đây là một quan điểm sống tích cực, mạnh mẽ và sâu sắc.
+ Cuộc sống luôn mang trong mình những bộn bề, phức tạp, nếu chúng ta sống một cách chủ

động và tích cực, biết gạn lọc những cái xấu, tận dụng và phát huy những điều tốt đẹp, biến khó
khăn, thử thách thành cơ hội thì ta sẽ có một tác phẩm cuộc đời mình thật tuyệt đẹp.
+ Nếu buông xuôi và phó mặc, bị động và đế cuộc sống trôi đi, khi ấy tác phẩm cuộc đời của
mỗi chúng ta chi là những vật thể xấu xí.
Bài học nhận thức và hành động
+ Nhận thức rõ việc “chỉ có bản thân chúng ta mới tạo ra số phận cho mình”, cá nhân con
người là nhân tố quyết định đến cuộc sống của chúng ta chính vì thế, bản thân mỗi người phải
không ngừng nỗ lực phấn đấu hoàn thiện bản thân mình.
+ Mỗi người phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có lí tưởng, có
ước mơ. Hãy cố gắng trở thành những nghệ nhân chuyên tâm và tài hoa nhất để làm nên tác
phẩm tuyệt đẹp cho cuộc đời mình
+ Lên tiếng phê phán thái dộ sống hưởng thụ, ỷ nại, chờ đợi người khác ban phát cho mình.
Câu 2 (5 điểm):
1. Mở bài
-

Tư tưởng nhân đạo vốn là nguồn mạch xuyên suốt trong nền văn học Việt Nam. Tùy theo

mỗi giai đoạn văn học mà giá trị ấy có cách thể hiện khác nhau. Chí Phèo của Nam Cao và Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài là hai tác phẩm tiêu biểu cho những giá trị ấy.
Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là hai tác phẩm thấm đẫm tinh thần


nhân đạo. Nếu như Nam Cao luôn đau đáu về số phận bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của
Chí Phèo, về số phận hẩm hiu của những người nông dân bị đẩy vào con đưòng bần cùng tha hóa
thì Tô Hoài lại trăn trở khuôn nguôi về cuộc đời khổ đau của nhân vật Mị và A Phủ khi bị gia
đình thống lí Pá Tra áp bức, bóc lột và cướp đoạt quyền sống. Thông qua những mảnh đời đó,
nhà văn thể hiện tấm lòng xót thương, chia sẻ với những bi kịch của người nông dân đồng thời
lên tiếng tố cáo những thế lực phong kiến đă trà đạp, cướp đi quyền sống của con người. Nhưng
cao cả hơn thế là sự đề cao, trân trọng với những vẻ đẹp, phẩm chất tốt đẹp trong con người họ

và niềm tin vào sự đổi thay xã hội của mỗi nhà văn. Đó chính là cội rễ, mạch nguồn sâu xa của
giá tinh thần nhân đạo chân chính.
2. Thân bài
-

Giới thuyết về khái niệm: giá trị nhân đạo.

+ Chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩn bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt
Nam. Nó xuyên suốt quá trình lịch sử văn học, từ cội nguồn văn học dân gian đến văn học hiện
đại.
+ Theo Từ điển tiếng Việt thì giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân
chính, là tiếng nói tố cáo những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người, là niềm cảm
thông sâu sắc của nhà văn đối với nỗi đau của con người; sự khẳng định, đề cao con người về các
mặt: phẩm chất, tài năng, những khát vọng chân chính như quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền
tự do, quyền công lí, chính nghĩa và niềm tin vào khả năng vươn dậy của con người trong mọi
hoàn cảnh khốn cùng. Nói cách khác, bản chất của tinh thần nhân đạo chính là thái độ, cảm xúc
của nhà văn trước hiện thực.
+ Văn học Việt Nam từ xưa đến nay luôn coi trọng nội dung nhân đạo và xem đó là chuẩn
mực trong sáng tác văn học. Nhìn chung từ những năm 1930 cho đến năm 1975, văn học nước ta
đứng trước nhiều cơn bão táp lịch sử, những cuộc chiến tranh trường kì và những đổi thay của
chế độ xã hội nên mỗi giai đoạn, cảm hứng nhân đạo lại có những biểu hiện giống và khác nhau.
Và giá trị nhân đạo những năm 1930-1945 thể hiện rõ nét trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam
Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
-

Khái quát về giá trị nhân đạo trong hai tác phẩm:

+ Trong Chí Phèo của Nam Cao:
++ Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao thể hiện trong các tác phẩm đó là tấm lòng nhân hậu,
chan chứa yêu thương đối với những con người nghèo khổ bị áp bức, bị khinh miệt trong xã hội.



+++ Ông luôn trăn trở trước vấn đề nhân phẩm con người bị chà đạp, đau đớn trước tình
trạng xã hội đọa đày con người trong sự nghèo đói, vùi dập ước mơ, lẽ sống cao đẹp, làm chết
mòn đời sống tinh thần, thậm chí hủy hoại cả thân xác, nhân cách.
+++ Cả cuộc đời lao động nghệ thuật, Nam Cao phấn đấu không mệt mỏi vì lí tưởng nhân
đạo. Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng gọi là con người.
++ Tư tưởng nhân đạo sâu sắc được thể hiện trong truyện ngắn Chí Phèo chính là bi kịch của
người nông dân hiền lành, nhẫn nhục bị xã hội chà đạp tàn nhẫn, vùi dập vào cảnh nghèo đói, bị
xua đuôi, cự tuyệt, bị đẩy vào con đường bần cùng, tha hóa.
+++ Viết về đau khổ của nhân vật Chí, Nam Cao kết án đanh thép xã hội tàn bạo đã hủy diệt
nhân cách của con người, đẩy con người đến bước đường cùng và kết thúc cuộc đời trong bế tắc,
bi kịch.
+++ Điều mới mẻ trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao là tìm tòi, đi sâu vào đời sống nội
tâm nhân vật, phát hiện và khẳng định nhân phẩm, bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị
cướp mất hình hài, nhân phẩm.
+ Trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài:
++ Kể về tội ác của cha con thống lí Pá Tra đối với Mị và A Phủ, Tô Hoài tố cáo sự tàn bạo
của giai cấp thống trị ở miền núi đối với những con người nghèo khổ.
++ Kể về thân phận nô lệ, bị áp bức, chà đạp đến cùng cực của Mị và A Phủ, nhà văn bày tỏ
niềm thương cảm sâu sắc với những khổ đau và bất hạnh của họ.
++ Nhà văn đi sâu, tìm hiểu, khám phá, trân trọng những khát vọng và sức sống tiềm tàng
trong Mị và A Phủ. Đó là sự ngợi ca phẩm chất tốt đẹp trong con người lao động.
++ Nhà văn đồng tình với tinh thần đấu tranh của Mị và A Phủ và tin tưởng về một hướng đi
tốt đẹp dành cho nhân vật của mình.
- Điểm gặp gỡ giữa hai tác phẩm:
+ Cả Nam Cao và Tô Hoài đều có chung điểm nhìn. Đó là họ đã nhìn thấy nỗi đau của con
người bị áp bức, bị bóc lột, bị chà đạp, bị lăng nhục. Đó là những người nông dân nghèo khổ
dưới chế độ cũ.
++ Nam Cao là đại diện xuất sắc của trào lưu hiện thực phê phán. Ông luôn tâm niệm “đứng

trong lao khổ để nhìn về phía lao khổ” cho nên những nhân vật của ông hiện lên rõ nhất từ những
cảm thông, đồng cảm. Trước đây có nhiều ngộ nhận cho rằng, Nam Cao đã bôi nhọ danh dự
người nông dân khi xây dựng họ qua hình tượng Chí Phèo và Thị Nở. Bởi một người thì xấu đến


ma chê, quỷ hờn còn kẻ kia thì mang dáng hình của một con quỷ dữ. Có thể thấy, nhận xét đó là
vội vàng, chủ quan bởi ngọn nguồn của sự tha hóa này đã chỉ ra rằng, những người nông dân như
Chí Phèo vốn có bản tính hiền lành lương thiện chỉ vì hiện thực quá tủi cực, tối tăm, mà họ lại là
nạn nhân của xã hội, trở thành những con người tha hóa và tuyệt vọng như Chí. Trong câu
chuyện này, Nam Cao đã tái hiện trọn vẹn cuộc đời Chí Phèo để đồng cảm và thấu hiểu cho
những bi kịch mà Chí Phèo phải trải qua. Hắn bước vào tác phẩm từ cái lò gạch cũ với bản tính
hiền lành, lương thiện nhưng nhà tù thực dân và tầng lớp thống trị phong kiến đã cướp đi tất cả.
Xót xa nhất là chúng đã cướp đi giá trị con người hắn ở cả thân hình và nhân tính. Cuộc đời hắn
chỉ là số 0 tròn trĩnh. Từ một anh canh điền lương thiện, Chí biến thành một kẻ lưu manh, con
quỷ dữ của làng Vũ Đại. Không những thế, nhân tính của hắn cũng bị tha hóa, Chí trở thành quỷ
dữ: “đạp đổ biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương
thiện”. Và cứ thế, Chí Phèo dấn thân vào con đường tha hóa, từng bước một, hắn bị khước từ
quyền làm người với những vết sẹp dày lên theo năm tháng với nghề rạch mặt ăn vạ và trở thành
tay sai cho Bá Kiến - công cụ đòi nợ thuê.
++ Sự xuất thiện của Thị Nở và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn nhất là sau cái
đêm chung chạ với Thị đã khiến Chí thức tỉnh, khát khao hoàn lương, khát khao “làm hòa với
mọi người”. Nhưng trong xã hội còn đầy rẫy những bất công và định kiến thì ước mơ đó của Chí
mãi mãi bị vùi dập và lãng quên để rồi cuối cùng Chí Phèo phải chết tức tưởi trên ngưỡng cửa trờ
về của mình. Câu hỏi kết lại tác phẩm “Ai cho tao lương thiện” mãi là niềm day dứt của Chí, của
Nam Cao, của chúng ta về nỗi đau thân phận con người.
++ Miêu tả Thị Nở như sự trêu đùa của tạo hóa: xấu, nghèo, dở hơi và dòng giống mả hủi,
Nam Cao đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với những mảnh bất hạnh, thiếu nhan sắc và
chịu nhiều thiệt thòi. Nhưng đằng sau hình hài vốn dĩ xấu xí của Thị Nở là những ước mơ và bản
chất con người. Thị biết mơ hạnh phúc gia đình hay chính hạnh phúc đã làm thay đối Thị t ừ một
phụ nữ ngẩn ngơ để giờ đây Thị biết ngượng ngùng khi nghĩ về hai từ “chồng vợ”. Rõ ràng đây

là một con người hoàn chỉnh cho dù tạo hóa không cho Thị những tài sản mà đáng lẽ một người
phụ nữ đáng được hưởng nhưng bù lại vẻ đẹp tâm hồn đã trở thành cứu cánh cho Thị. Chúng ta
không chi đồng cảm mà còn rất trân trọng Thị Nở như một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa
nhân đạo trong ngòi bút của Nam Cao.
++ Ở Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài lại dành tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với số phận
những người lao động nghèo ở miền núi như Mị và A Phủ. Toàn bộ câu chuyện là cuộc đời của


Mị và A Phủ được gọi tên ở Hồng Ngài. Họ là những đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người
miền núi song cũng là nạn nhân tiêu biểu trong bàn tay thống trị dã man của bọn chúa đất.
++ Với Mị vốn là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, yêu đời và nhiều khát khao. Mị có ý thức về
mình, về lòng hiếu thảo nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà cô phải chấp nhận trở thành
con dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Và khi về làm dâu nhà thống lí một lần nữa cuộc đời cô bị đày
đọa trong nỗi cay cực đến khốn cùng. Mị phải lao động vất vả quanh năm suốt tháng đầy khổ
nhục “hơn trâu hơn ngựa”, phải chịu những trận đòn dã man của A Sử, thậm chí hắn còn vô tâm
trói đứng cô vào cột trong những đêm tình mùa xuân. Tất cả những điều đó cộng với sự thống trị
của thần quyền đã làm cho Mị tê liệt về ý thức sống, cô sống như một công cụ lao động biết nói,
dần dần Mị chấp nhận số phận nô lệ trong nhà Pá Tra “lầm lũi như một con rùa nuôi trong xó
cửa” và chỉ còn biết “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.
++ Nhà văn cũng đau đớn trước số phận của A Phủ bị đánh đập trong một buổi xử kiện bất
công mà cả người đi kiện lẫn người xử kiện đều là gia đình nhà thống lí. A Phủ cũng giống như
Mị, từ cuộc đời của một chàng trai tự do, bản lĩnh, anh không chốn khỏi vòng quay khắc nghiệt
của số phận. A Phủ phải làm người ở gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra và mang thân phận của kẻ
tôi đòi. Khi tái hiện những điều này, Tô Hoài thể hiện tấm lòng xót thương đến tột cùng với
những cảnh đời lầm lũi, khốn khổ của người nông dân ở vùng cao Hồng Ngài.
+ Thương xót trước số phận chịu nhiều bi kịch của người nông dân, Nam Cao và Tô Hoài đã
cùng nhau cất lên tiếng nói tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây dau khổ cho con người:
++ Không chỉ dừng lại ở những thấu hiểu, cảm thông mà ngòi bút nhân đạo của Nam Cao
còn bênh vực cho người nông dân, đấu tranh với tầng lóp thống trị phong kiến và các hủ tục xã
hội vì những người như Thị Nở, Chí Phèo là nạn nhân của xã hội đương thời mà Chí Phèo là tiêu

biểu nhất. Nhân vật này bị cướp đi phần người ở phần thân hình của mình vì nhà tù thực dân, bị
bàn tay thống trị phong kiến cuớp đi phần người trong nhân tính và cuối cùng là những định kiến
xã hội, hủ tục phong kiến đã chặn đứng con đường hoàn lương của Chí. Vì vậy, ngòi bút của
Nam Cao lên tiếng đấu tranh gay gắt với những thế lực hủy diệt quyền người cơ bản của con
người.
++ Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài lên án giai cấp thống trị, bọn chúa đất miền núi mà tiêu
biểu là cha con thống lí Pá Tra. Chúng bóc lột người lao động bằng cách cho vay nặng lãi và lợi
dụng sức lao động của con người. Mị làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí và A Phủ cũng chịu
chung số phận đó: người ở gạt nợ. Chính sự bạo tàn của thống trị, mà bọn chúa đất đã hủy diệt đi


ý thức về tự do của người nông dân. Mị từng là một cô gái khát khao yêu đời trờ thành lầm lũi,
mất mọi ý thức về thời gian. Còn A Phủ trước khi về nhà thống lí là một chàng trai tự do gan dạ
nhưng dưới sự thong trị bằng cường quyền và thần quyền, anh trở nên cam chịu và chấp nhận số
phận nô lệ trong nhà thống lí.
+ Bằng tấm lòng nhân đạo cao cả, bằng tình yêu thương dành cho những số phận nhỏ nhoi,
Tô Hoài và Nam Cao đã khám phá, trân trọng và nâng niu những vẻ đẹp và khát vọng thầm kín
của người nông dân. Đồng thời cả hai nhà văn cũng đồng tình với ước mơ, nguyện vọng chính
đáng của con người, khát khao đối thay số phận của họ.
++ Ở Chí Phèo, Nam Cao phát hiện bên trong sâu thẳm con quỷ dữ ấy là anh Chí hiền lành,
lương thiện. Hắn hiền như đất, có lòng tự trọng, biết “nhục hơn là thích” khi bị bà Ba bắt bóp
chân “mà cứ bóp lên trên”. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã làm đổi thay nhận thức và số phận của
Chí Phèo. Khi được yêu thương, chăm sóc, phần Người còn sót lại trong con người Chí đă được
đánh thức. Chí tĩnh táo để nhận ra đã sang đến dốc bên kia của cuộc đời mà hắn vẫn bơ vơ, hắn
nghĩ về tương lai già, đói, và cô độc của mình mà hắn sợ. Hắn nhận ra hương sắc và âm thanh
của cuộc sống “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng gõ mái thuyền đuổi cá, tiếng của mấy
bà đi chợ về” để rồi giấc mơ thời trai trẻ lại sống dậy, Chí đã từng có ước mơ về cuộc sống gia
đình “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải...”. Chí biết xúc động khi thấy Thị Nở chăm
sóc cho mình mà bát cháo hành kia như là hiện thân của một câu chuyện cổ tích. Nó mộc mạc,
bình dị nhưng cũng kì diệu biết bao, nó làm thức tỉnh phần Người bị khuất nấp bấy lâu trong

dáng hình của một con quỷ dữ, làm cho Chí có khát khao về cuộc sống. Chí muốn được yêu
thương, làm nũng với Thị Nở như với mẹ và điều quan trọng hơn là hắn nhận ra hắn có thể làm
hòa với mọi người và khát khao sống lương thiện. Như vậy, tình thương có giá trị thật thiêng
liêng, nó đã cứu rỗi và thức tỉnh Chí Phèo, đánh đổ bức bình phong vô hình của quyền lực và
chiến thắng mọi bạo tàn của nhà tù thực dân và bàn tay tàn độc của Bá Kiến.
++ Vợ chồng A Phù không chỉ là câu chuyện đơn thuần về số phận, cuộc đời người Mèo ở
Tây Bắc mà thông qua đó Tô Hoài còn lên tiếng ngợi ca, trân trọng những vẻ đẹp rất thiêng liêng
trong tâm hồn họ: Mị và A Phủ.
+++ Cuộc đời cô con dâu gạt nợ mang tên MỊ là chồng chất những bất hạnh, những cay cực
và khổ đau. Cô phải mang thân mình để đánh đổi món nợ truyền kiếp của cha mẹ, phải sống tủi
nhục như thân trâu ngựa trong nhà thống lí Pá Tra nhưng bên trong tâm hồn cô vẫn toát lên vẻ
đẹp rất đáng được đề cao. Đó là một tâm hồn trẻ trung, yêu đời và khao khát tự do. Mi xinh đẹp


lại thôi sáo hay, có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Trong tâm hồn ấy còn
là một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Đã bao mùa xuân trôi qua, bao lần Mị lên nương phá rẫy,
dù làm bất cứ việc gì cô cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Tưởng rằng, sức sống của cô sẽ cạn
kiệt đi theo năm tháng nhưng mùa xuân ở Hồng Ngài năm đó với những bông bí đỏ, những chiếc
váy hoa xòe và tiếng sáo gọi bạn đã làm thức tỉnh ý thức sống trong con người Mị. Quá khứ ùa
về, sức sống bùng lên mãnh liệt, Mị nhận thấy mình vẫn còn trẻ, cô muốn đi chơi và sống theo
tiếng gọi nơi con tim chứa chan tình yêu của mình. Chính từ giây phút ý thức trở lại đó, Mị đã
vượt qua mọi nỗi sợ hãi, đồng cảm với những số phận khốn cùng như mình, cởi trói cho A Phủ
để giải thoát cho anh ta và cũng là giải thoát cho chính Mị.
+++ Còn A Phủ lại là vẻ đẹp của sự bản lĩnh, gan dạ. Dù xuất phát là một đứa trẻ mồ côi
nhưng lớn lên A Phủ sống rất phóng khoáng, yêu đời, ham thích tự do và không chịu luồn cúi
trước quyền lực.
+++ Cho dù vòng quay số phận khác nhau nhưng cả trái tim Mị và A Phủ cùng chung nhịp
đập khi họ cùng có khát vọng được giải phóng. Những ngày tủi cực trong nhà thống lí, họ mang
thân phận nô lệ, sợ con ma nhà Pá Tra đã “nhận mặt mình”. Tưởng chừng họ đã đầu hàng trước
số phận nhưng khi ranh giới giữa sự sống và cái chết còn rất mong manh thì bản năng sống trong

họ trỗi dậy mạnh mẽ. Vượt qua nỗi sợ hãi, họ cùng nhau bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Đó là ước mơ
được giải phóng, để rồi xuống Phiềng Sa họ trở thành vợ chồng và tham gia cách mạng.
- Sự khác biệt:
+ Ở Chí Phèo, Nam Cao nhìn những người nông dân như Chí Phèo, Thị Nở là những nạn
nhân, sản phẩm của hoàn cảnh xã hội thực dân phong kiến. Mặc dù đồng cảm và khát khao thay
đổi số phận cho những người nông dân khốn cùng, những con người dưới đáy xã hội, bị bóc lột,
chịu nhiều bất công nhưng cuối cùng tác giả cũng đành bất lực. Kết thúc tác phẩm là sự chấm
dứt đột ngột của mối tình Chí - Thị, là cái chết đau đớn của Chí Phèo trong tuyệt vọng, là sự
quẩn quanh, bế tắc trong hành trình đổi thay số phận người nông dân của nhà văn.
+ Ở Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài nhìn người lao động miền núi Tây Bắc không phải là nạn nhân
của hoàn cảnh mà là những người có khả năng cải tạo hoàn cảnh. Đồng tình với khát vọng đổi
thay số phận của họ, quan trọng hơn, Tô Hoài đã chỉ ra con đường tất yếu họ cần phải đi và
khẳng định khả năng giác ngộ cách mạng của họ, tin vào khả năng tự giải phóng của họ. Mị và A
Phủ đã cùng giải thoát cho nhau, cùng tới Phiềng Sa trở thành du kích.
- Thông qua việc phân tích hai tác phẩm trên, ta thấy giá trị nhân đạo trước và sau năm 1945


vừa thống nhất vừa có những điểm riêng biệt.
+ Điểm chung:
++ Đồng cảm, chia sẻ với những số phận bất hạnh với những số phận chịu nhiều bất hạnh,
khố cực.
++ Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người.
++ Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, những ước mơ trong sáng giản dị của con người.
+ Điểm khác biệt:
++ Văn học 1930 -1945 coi con người là nạn nhân của hoàn cảnh, nhà văn khao khát đổi thay
số phận con người nhưng bất lực (Mở đầu và kết thúc Chí Phèo là hình ảnh cái lò gạch cũ: vòng
quẩn quanh, bế tắc).
++ Văn học 1945 - 1975: đề cao vai trò của con người, tin vào con người có khả năng cải tạo
hiện thực và thay đổi số phận của mình bàng con đường đấu tranh cách mạng.
+ Lí giải nguyên nhân của sự khác biệt:

++ Các nhà văn giai đoạn 1930- 1945 (chủ yếu là các nhà văn hiện thực phê phán) mang ý
thức hệ tư sản, tiểu tư sản, hầu hết chưa tham gia cách mạng nên mới chỉ nhìn thấy tác động một
chiều của hoàn cảnh đối với con người, nhìn con người và hiện thực khách quan có phần bi quan,
bế tắc.
++ Do hạn chế khách quan từ hoàn cảnh lịch sử.
++ Các nhà văn giai đoạn 1945-1975, họ đều là những người chiến sĩ cách mạng, họ trực tiếp
tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giác ngộ và thấm nhuần cao độ lí tưởng cộng sản nên
có tinh thần lạc quan, thấu suốt tương lai.
c. Kết luận
-

Cảm hứng nhân đạo là nguồn mạch xuyên suốt tiến trình văn học Việt Nam. Tuy có những

điểm gặp gỡ nhưng ờ mỗi thời kì do sự chi phối từ hoàn cảnh khách quan và các nhân tố chủ
quan khác nên tồn tại những đặc điểm riêng.
-

Nhưng chính sự giống nhau và khác nhau đó ở các giai đoạn văn học tạo nên sự phong phú,

đa dạng cho nền văn học Việt Nam cả trên bình diện nội dung và tư tưởng. Và Chí Phèo của
Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là minh chứng sinh động cho sự đa dạng đó. Với
mạch nguồn nhân đạo vững chắc, Nam Cao và Tô Hoài cùng với tác phẩm của hai ông sẽ có sức
sống lâu bền trong lòng bạn đọc.



×