Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thức đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.78 KB, 24 trang )

Header Page 1 of 27.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------------

Dương Thị Nhung

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ
VÀ PHÁT TRIỂN BẮC GIANG

Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số:
60 34 05

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH ĐÀO

Hà Nội – Năm 2009

Footer Page 1 of 27.


Header Page 2 of 27.

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện nền kinh tế
chuyển đổi, các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền


kinh tế của đất nước. Thùc tÕ cho thấy, các DNVVN chiếm hơn 90% số lượng các
doanh nghiệp, đóng góp hơn 40% tổng sản lượng GDP và tạo ra khoảng 12 triệu
việc làm cho xã hội. Các DNVVN không những góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp sản phẩm dịch vụ cho thị trường
và tạo phần lớn công ăn việc làm cho xã hội, mà còn là bộ phận trọng yếu đóng
góp vào việc giữ cho nền kinh tế ổn định, đứng vững trong thời kỳ khủng hoảng
kinh tế. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của DNVVN còn hạn chế. Nguyên nhân dẫn đến
hạn chế sức cạnh tranh của các DNVVN chủ yếu là do chưa được đầu tư đổi mới
máy móc, trang thiết bị và quy trình công nghệ một cách thích đáng vì thiếu vốn.
Một trong những trở ngại cho các DNVVN là khả năng tiếp cận thu hút các nguồn
vốn bên ngoài gặp khó khăn, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng kinh tế của Mỹ đã làm cho nền kinh tế thế
giới rơi vào tình trạng khủng hoảng trong khi các DNVVN với số lượng ít ỏi ban
đầu không thể đủ để đổi mới máy móc, trang thiết bị, đầu tư chiều sâu, tạo ra sản
phẩm có giá trị cao với chi phí thấp. Họ lâm vào tình trạng thiếu vốn một cách
trầm trọng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn. Vì vậy, sự hỗ trợ từ phía các
ngân hàng thương mại là rất cần thiết và là nguồn sống cho các DNVVN vì hiện
nay thị trường vốn nước ta chưa phát triển, việc huy động vốn từ thị trường này là
hết sức khó khăn.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc, có vị trí địa lý thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế,

Footer Page 2 of 27.


Header Page 3 of 27.

với môi trường đầu tư thông thoáng, Bắc Giang ngày càng thu hút nhiều doanh
nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã
có 1.885 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là

DNVVN mới thành lập, nhu cầu vốn tín dụng là rất lớn đặc biệt là vốn tín dụng
trung và dài hạn. Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang là ngân hàng thương mại
hàng đầu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, có bề dày kinh nghiệm trong việc cho vay
các doanh nghiệp. Việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNVVN là nhiệm vụ hàng
đầu và cũng là tiêu chí đặt ra của ngân hàng vì hoạt động chính đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc
thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài : “Thúc đẩy tín dụng trung và
dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Bắc Giang” để nghiên cứu viết luận văn tốt nghiệp.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong những năm trở lại đây, trước nhu cầu CNH – HĐH công nghiệp,
phát triển kinh tế toàn xã hội và trước xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đã có
nhiều chỉ thị, chính sách, giải pháp mà Đảng và nhà nước ban hành tạo cơ chế
cho sự phát triển và phù hợp với yêu cầu hội nhập. Trong đó xác định DNVVN
là một nhân tố quan trọng cần được đầu tư và quan tâm đúng đắn trong thời kỳ
quá độ và phát triển của đất nước.
Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khoa học bàn về vấn đề mở
rộng tín dụng đối với DNVVN và vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng đối với các thành phần kinh tế. Cụ thể là năm 2007, học viên Nguyễn Bá
Minh đã nghiên cứu đề tài: “ Tín dụng ngân hàng với phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa tỉnh Ninh Bình” để làm luận văn thạc sỹ. Trên Tạp chí cộng sản số
16 năm 2008 có bài viết: “Để phát triển mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng
với doanh nghiệp vừa và nhỏ” của tác giả Đỗ Minh Thành, cũng trên các trang
Footer Page 3 of 27.


Header Page 4 of 27.

báo và tạp chí các bài viết về đề tài này như: trên trang chungkhoan247.vn bài

viết: “Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ” tác giả Lê Minh ngày
1/12/2006, trên trang hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Bắc Giang, bài viết:
“Nâng cao vai trò ngân hàng Phục vụ phát triển kinh tế xã hội” ngày 23/9/2008,
trên trang VCInews (2007) bài viết; Mở rộng cửa cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
tiếp cận vốn”, trên trang Vietnamnet (2008) bài viết: “Doanh nghiệp nhỏ vẫn khó
tiếp cận với vốn ngân hàng” của tác giả Đặng Vỹ … Tuy nhiên, hoạt động tín
dụng trung và dài hạn đối với DNVVN còn rất nhiều hạn chế cần được khai
thác và nghiên cứu nhằm thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN.
Đặc biệt là với hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN của Chi
nhánh NHĐT&PT Bắc Giang hiện nay đang còn nhiều bất cập cần có giải pháp
thích hợp để thúc đẩy tín dụng đến với doanh nghiệp.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
* Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu phân tích thực trạng tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN
của Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang.
- §ưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với
DNVVN của Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các lý luận cơ bản về đối với DNVVN và vai trò của tín dụng
trung và dài hạn đối DNVVN ở Việt Nam.
- Nghiên cứu bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối
với DNVVN.
- Đánh giá một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng tín dụng trung và dài
hạn đối với DNVVN của Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang.

Footer Page 4 of 27.


Header Page 5 of 27.


- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối
với DNVVN của Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: vấn đề thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với
DNVVNcủa Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang .
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN của Chi nhánh
NHĐT&PT Bắc Giang.
+ Thời gian nghiên cứu các năm 2006, 2007 và 2008.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử làm cơ sở để luận giải thực tiễn và một số phương pháp
khác như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp xử lý thông tin.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, …
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về DNVVN và tín
dụng trung và dài hạn của ngân hàng đối với DNVVN.
- §ánh giá, phân tích thực trạng tín dụng trung và dài hạn vµ các nhân tố
ảnh hưởng tới việc thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN tại một
ngân hàng thương mại cụ thể, Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang.

Footer Page 5 of 27.


Header Page 6 of 27.


- §ề xuất các giải pháp thiết thực nhất nhằm thúc đẩy tín dụng trung và dài
hạn đối với DNVVN tại Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang.
- Góp phần mở rộng tín dụng đối với DNVVN đặc biệt là tín dụng trung và
dài hạn, giúp các DNVVN có đủ vốn để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh
tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế, tạo việc làm và nâng cao đời
sống người lao động.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Chƣơng 2: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển
Bắc Giang.
Chƣơng 3: Giải pháp thúc đẩy tín dụng trung và dài hạn đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng Đầu tƣ và Phát
triển Bắc Giang.

CHƢƠNG I
TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
Footer Page 6 of 27.


Header Page 7 of 27.

1.1 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG
1.1.1 Khái niệm DNVVN
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp, tuỳ theo từng khía cạnh

nghiên cứu khác nhau mà người ta có thể đưa ra các khái niệm doanh nghiệp khác
nhau. Trong nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh
tế có tư cách pháp nhân được tổ chức ra để thực hiện hoạt động kinh doanh trong
một lĩnh vực nhất định với mục đích công ích hoặc thu lợi.
Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và
phong phú, theo mỗi một tiêu chỉ khác nhau thì ta lại có cách thức phân loại phù
hợp. Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu quản lý, người ta thường phân chia doanh
nghiệp theo mô hình hoạt động. Doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh
nghiệp nhỏ. Trong thực tế để đơn giản hoá việc phân loại, nhiều nước gộp chung
doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ gọi là DNVVN. DNVVN là loại hình
chiếm tỷ trọng lớn trong số các doanh nghiệp ở hầu hết các quốc gia trên thế giới
và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Từng
quốc gia lại có tiêu chí riêng để phận loại các doanh nghiệp theo quy mô hoạt động
nhưng tựu chung lại họ thương căn cứ vào quy mô, trình độ kỹ thuật và mức độ
kinh doanh.
Qua thực tiễn một số nước trên thế giới sử dụng các tiêu thức khác nhau để
xác định DNVVN, ta thấy rằng để đánh giá quy mô, trình độ kỹ thuật của doanh
nghiệp, người ta thường căn cứ vào các yếu tố đầu vào (như số lượng vốn kinh
doanh và lao động thu hút, thế hệ máy móc và mức độ hiện tại, lao động thủ công
và lao động bằng máy) và các yếu tố đầu ra (như sản lượng sản xuất, doanh thu, lợi
nhuận). Để đơn giản cho việc xác định, họ thường dựa trên hai tiêu thức là: số
lượng lao động bình quân và tổng số vốn sản xuất kinh doanh hoặc doanh thu bình
quân hàng năm. Ví dụ:
Footer Page 7 of 27.


Header Page 8 of 27.

Ở Canada: đối với các doanh nghiệp có số lượng lao động nhỏ hơn 500
người và doanh thu nhỏ hơn 20 triệu CAD là được coi là DNVVN.

Ở Inđônêxia: các doanh nghiệp có tổng số vốn (hay giá trị tài sản) nhỏ hơn
600 triệu Rupi và doanh thu nhỏ hơn 2 tỷ Rupi đồng thời có số lao động thường
xuyên nhỏ hơn 100 người được voi là DNVVN.
Ở Myanma: Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có
số lao động thường xuyên nhỏ hơn 100 người họ không xét đến các tiêu chí về
doanh thu hay tổng giá trị tài sản.
Ở Philiphin: Các doanh nghiệp có số lao động thường xuyên nhỏ hơn 200
người và tổng giá trị tài sản nhỏ hơn 60 triệu Peso.
Ở Đài Loan: Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là doanh nghiệp có
tổng vốn không quá 3 triệu USD và số lao động thường xuyên không quá 300
người.
Ở Malaysia: Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là doanh nghiệp có
tổng số lao động từ 100 đến 200 người, còn doanh nghiệp có số lao động thường
xuyên nhỏ hơn 100 người là doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Ở Thái Lan: Các doanh nghiệp có số lao động nhỏ hơn 100 người và có tổng
số vốn nhỏ hơn 20 triệu Bạt là DNVVN.
Ở Singapore: Các DNVVN là doanh nghiệp có tổng số lao động nhỏ hơn
100 người và số vốn nhỏ hơn 499 triệu đô la Singapore.
Ở Hồng Kông: Trong ngành công nghiệp, các DNVVN có số lượng lao động
nhỏ hơn 100 người, còn trong ngành dịch vụ các doanh nghiệp có số lượng lao
động nhỏ hơn 50 người là DNVVN.
Ở Hàn Quốc: Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp
có dưới 300 lao động và tổng vốn đầu tư dưới 600 ngàn USD được coi là
DNVVN. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, DNVVN là doanh nghiệp có dưới

Footer Page 8 of 27.


Header Page 9 of 27.


20 lao động và doanh thu dưới 500 ngàn USD/năm (nếu là doanh nghiệp bán
buôn).
Ở Nhật Bản: Đối với doanh nghiệp bán buôn, DNVVN là doanh nghiệp có
số lượng lao động nhỏ hơn 100 người và số vốn dưới 30 triệu Yên. Doanh
nghiệp bán lẻ có số lao động nhỏ hơn 50 người và số vốn nhỏ hơn 10 triệu Yên
được coi là DNVVN. Còn các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp được coi là
DNVVN có vốn dưới 100 triệu Yên và số lao động nhỏ hơn 300 người.
Ở Mêhicô: DNVVN là doanh nghiệp có số lao động nhỏ hơn 250 người và
tổng số vốn đầu tư dưới bẩy triệu đôla.
Ở Mỹ: các doanh nghiệp có số lao động nhỏ hơn 500 và lợi nhuận hàng
năm nhỏ hơn 150 USD là DNVVN.
Ở các nước EU: Các doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động
thường xuyên từ 50 đến 200 người, doanh số năm dưới 16 triệu Ecu, mức vốn
dưới 8 triệu Ecu còn các doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới
50 người, doanh số năm nhỏ hơn 4 triệu Ecu và mức vốn dưới 2 triệu Ecu.
Đó là các tiêu thức để xác định DNVVN của các nước trên thế giới còn
đối với Việt Nam thì tiêu thức xác định DNVVN cũng thay đổi theo từng thời
kỳ tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của đất nước. Trước đây, DNVVN được xác
định là doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người. Tuy nhiên, những năm gần đây, để khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các DNVVN, ngày 23/11/2001, Chính
phủ đã ra nghị định 90/2001/NĐ-CP quy định: các doanh nghiệp có vốn điều lệ
dưới 10 tỷ VNĐ và số lao động bình quân hàng năm không vượt quá 300 người
là DNVVN. Theo tiêu chí này thì tỷ trọng các DNVVN trong khối doanh nghiệp
chiếm khoảng 70% còn trong khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng 50.000
doanh nghiệp gồm các công ty TNHH, CTCP, DNTN và hơn 2 triệu hộ kinh
doanh cá thể (không kể hộ sản xuất nông nghiệp). Theo tiêu chí vốn, các
Footer Page 9 of 27.



Header Page 10 of 27.

DNVVN chiếm khoảng 99,56% trong tổng số DNTN; 97,38% trong tổng số các
doanh nghiệp HTX; 96,12% trong các công ty TNHH và 43,27% đối với các
CTCP. Do đó, các DNVVN có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế
nước ta.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trƣờng
1.1.2.1 Đặc điểm của DNVVN
DNVVN là một loại hình của doanh nghiệp nên nó mang đầy đủ những
đặc trưng vốn có của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc trưng đó,
DNVVN còn mang những đặc điểm riêng như:
Thứ nhất, về sử dụng nguồn vốn, DNVVN có vốn đầu tư thấp, thời gian
thu hồi vốn nhanh, việc sử dụng vốn đạt kết quả cao. Đây là đặc điểm cơ bản và
quan trọng nhất của DNVVN. Do vốn đăng ký ban đầu thấp, không quá 10 tỷ và
chu kỳ kinh doanh ngắn đặc trưng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp này
mang lại nên doanh nghiệp này có thời gian hoàn vốn thấp hơn nhiều so với các
doanh nghiệp có quy mô lớn khác.
Thứ hai, DNVVN hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, trong mọi thành
phần kinh tế nên các DNVVN dễ dàng thâm nhập vào vào từng thị trường do đó
mà sức lan toả của DNVVN vào các lĩnh vực của đời sống xã hội là rất lớn. Hơn
nữa do quy mô nhỏ nên DNVVN hoạt động kinh doanh ở hầu hết các lĩnh vực
cả những lĩnh vực mà các doanh nghiệp có quy mô lớn khác không muốn tham
gia hoặc không thể tham gia vì quá nhỏ bé, đem lại lợi nhuận không lớn. Vì
vậy, DNVVN có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của mọi
tầng lớp xã hội. Ngay cả khi ở nước ta, theo số liệu thống kê cho biết DNVVN
chiếm 98% trong tổng số các doanh nghiệp và tồn tại dưới mọi hình thức như:
DNNN, DNTN, CTCP, Công ty TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và hộ kinh doanh cá thể.

Footer Page 10 of 27.



Header Page 11 of 27.

Thứ ba, DNVVN được tổ chức theo nhiều loại khác nhau nhưng chúng đều
có đặc điểm chung là có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý đơn giản, gọn nhẹ,
không cồng kềnh nhưng đạt hiệu quả cao. Đây là một lợi thế của loại hình
doanh nghiệp này hơn nữa nó lại rất phù hợp với điều kiện về nguồn vốn ít ỏi
và số lượng lao động hạn chế của doanh nghiệp. Chính vì nguồn vốn ít, quy mô
doanh nghiệp lại nhỏ nên số lượng nhân viên ít. Do đó bộ máy quản lý luôn có
xu hướng tinh giảm vì một nhân viên có thể đảm nhận nhiều công việc khác
nhau cùng một lúc. Đôi khi một nhân viên đảm nhận luôn nhà quản trị nên
DNVVN có thể tiết kiệm được chi phí nhân công để đầu tư cho việc nghiên
cứu thị trường và mở rộng sản phẩm.
Thứ tư, DNVVN có tính năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị
trường, dễ dàng thay đổi lĩnh vực kinh doanh khi thị trường có những biến động
đem lại cơ hội và thách thức mới cho doanh nghiệp. Chính vì quy mô nhỏ,
lượng vốn tự có ít, hoạt động lại không chuyên sâu vào bất cứ lĩnh vực nào nên
nó có thể dễ dàng thay đổi quy mô sản xuất, lĩnh vực kinh doanh mà không gây
xáo trộn lớn trong doanh nghiệp. Để thích ứng với thị trường, tồn tại và phát
triển trên thị trường bên cạnh các đối thủ cạnh tranh có quy mô lớn, có uy tín
thì DNVVN phải tích cực nghiên cứu thị trường, tập trung khai thác những
khoảng trống, những thị trường và mặt hàng mới. Chính vì sự thay đổi để thích
ứng với thị trường này mà tính ổn định của loại hình DNVVN không cao, chúng
dễ bị tổn thương trong cuộc khủng hoảng kinh tế thị trường có quy mô lớn bởi
năng lực tài chính kém, khả năng cạnh tranh bị hạn chế.
Thứ năm, với DNVVN, mối quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ doanh
nghiệp luôn gắn bó mật thiết. Đây là một đặc trưng mà chúng ta rất hiếm thấy
trong các doanh nghiệp có quy mô lớn. Do đặc thù của DNVVN là số lượng
nhân viên ít, một nhân viên hay người quản lý có thể đảm nhận nhiều công việc

cùng một lúc nên sự gặp gỡ, giao tiếp, trao đổi với nhau là thường xuyên xảy ra
Footer Page 11 of 27.


Header Page 12 of 27.

nên họ thường gần gũi nhau để chia sẻ, cảm thông với nhau cả trong công việc
và trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các hộ kinh
doanh cá thể (kinh tế hộ gia đình). Ở đó gia đình, họ hàng, bạn bè cùng nhau
làm việc tạo nên môi trường lao động ấm áp thoải mái tạo điều kiện cho nhân
viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đây cũng chính là lý do khiến cách thức
quản trị điều hành cũng như thực thi công việc luôn có sự khác biệt so với doanh
nghiệp lớn.
Trên đây là năm đặc điểm cơ bản nhất của DNVVN. Đó là năm diểm khác
biệt lớn nhất của DNVVN so với cácloại hình doanh nghiệp khác. Từ những
đặc điểm riêng có của mình mà DNVVN đóng vai trò không thể thiếu trong sự
phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
1.1.2.2 Vai trò của DNVVN
Thông thường, người ta quan niệm rằng các quốc gia phát triển có nền kinh
tế hiện đại thì sẽ là nơi phát triển của doanh nghiệp lớn, có khả năng cạnh tranh
cao còn DNVVN sẽ không thể tồn tại và phát triển được. Đó là một quan niệm
hoàn toàn sai lầm, thực tế đã chỉ ra rằng dù là trong nền kinh tế phát triển thì vai
trò của loại hình doanh nghiệp này càng được khẳng định hơn. Như chúng ta đã
biết, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm đầu thập niên 30 đã làm cho
nền kinh tế toàn cầu lâm vào tình trạng suy thoái, chính các DNVVN là nhân tố
cực kỳ quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế thế giới đi lên thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng đó. Chính vì vậy, DNVVN là xương sống của nhiều quốc
gia, là động lực thúc đẩy cạnh tranh, bảo đảm ổn định kinh tế, phòng chống
nguy cơ khủng hoảng, tình trạng độc quyền. Đặc biệt là khi cuộc cách mạng
khoa học công nghệ ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho loại hình doanh

nghiệp này nhiều cơ hội tập trung kỹ thuật để sản xuất những sản phẩm có chất
lượng cao đáp ứng kịp thời và tốt nhất những nhu cầu đa dạng và phong phú của
thị trường.
Footer Page 12 of 27.


Header Page 13 of 27.

Trong nhiều năm qua, từ kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước có
nền kinh tế phát triển hay đang phát triển cho thấy vị trí, vai trò của DNVVN là
rất lớn. Điều này được thể hiện trên nhiều khía cạnh như: tạo ra số lượng của
cải vật chất tương đối lớn, chủng loại phong phú, đa dạng cả về số lượng và
mẫu mã, phân phối lưu thông hàng hoá, dịch vụ rộng rãi, giải quyết công ăn việc
làm cho số đông người lao động. Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, các
DNVVN đóng góp từ 30-60% GDP, sử dụng 40-70% lao động của mỗi quốc gia.
Vai trò của DNVVN được thể hiện qua những đóng góp chủ yếu sau:
Thứ nhất, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc
làm, khai thác tiềm năng lao động. Số lượng các DNVVN lớn nên cần rất nhiều
lao động. Hơn nữa, do kinh doanh đa dạng, đủ ngành nghề nên tạo ra số việc
làm cho số đông người lao động từ người có trình độ thấp đến trình độ
cao.Thực tế ở các nước cho thấy, trong giai đoạn từ năm 1991-1996, bình quân
mỗi năm DNVVN đã giải quyết khoảng 72.020 việc làm cho người lao
động.Trong các lĩnh vực cơ bản của ngành công nghiệp chế biến, các DNVVN
đã tuyển dụng 355.000 lao động chiếm 36% tổng số lao động của ngành. Trong
ngành xây dựng đã tạo ra việc làm cho 155.000 lao động chiếm 51% toàn ngành.
Trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn nhà hàng là 51.000 lao động chiếm 19%.
Không chỉ có vậy các DNVVN đã thu hút lao động rộng khắp trên phạm vi cả
nước. Do tỷ trọng lao động ở khu vực nhà nước giảm từ 9,7% (năm 1995)
xuống còn 5,2% (năm 1998) nên khu vực tư nhân đang có vai trò hết sức quan
trọng tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Từ thực tế trên cho thấy,

DNVVN là một trong những phương tiện hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề
thất nghiệp và tạo được cơ hội phát huy nội lực, huy động được các nguốn lao
động nhàn rỗi trong công chúng vào sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình
CNH-HĐH đất nước và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Footer Page 13 of 27.


Header Page 14 of 27.

Quá trình phát triển các DNVVN góp phần phân bố sản xuất đồng đều hơn
với nhiều ngành nghề phong phú, đa dạng phù hợp với nhiều lãnh thổ khác nhau.
Loại hình doanh nghiệp này cho phép phát huy lợi thế cả khu vực thành thị và
nông thôn đặc biệt là vùng nông thôn, DNVVN đã góp phần xoá dần tình trạng
thuần canh và độc canh. DNVVN luôn đi đầu trong lĩnh vực đổi mới công nghệ,
tiến hành CNH - HĐH sản xuất nông nghiệp từ khâu gieo trồng, thu hoạch đến
khâu chế biến và bao tiêu sản phẩm. Ở nước ta việc phát triển doanh nghiệp chế
biến nông lâm hải sản phân bố rộng khắp các vùng nông thôn đã tạo nên bộ mặt
mới cho nông thôn cả về kinh tế - văn hoá – xã hội. Với sự linh hoạt của mình,
các DNVVN sẵn sàng hoạt động trong lĩnh vực ở mọi nơi mọi chỗ nếu lợi
nhuận và cơ hội phát huy do đó nó góp phần làm tăng tích luỹ từ toàn bộ nền
kinh tế, tạo động lực quan trọng thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước.
Thứ ba, sản xuất nhiều loại hàng hoá có khả năng cung cấp ngày càng lớn,
đa dạng sản phẩm tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, đáp ứng ngày càng phong phú
và đa dạng nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư.
Các DNVVN kinh doanh đa dạng mọi ngành nghề, tính nhậy cảm với thị
trường cao lại có khả năng kinh doanh ở các lĩnh vực mà các doanh nghiệp lớn
không thể thực hiện (hoặc thực hiện không hiệu quả) do đó nó gặp nhiều thuận
lợi trong việc sản xuất và cung cấp nhiều loại sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu
cẩu trong nước đồng thời đẩy nhanh xuất khẩu. Hơn nữa, các doanh nghiệp lớn

muốn phát triển thì phải sử dụng các DNVVN làm vệ tinh như: thu mua nguyên
liệu, gia công chế biến, đóng gói … Theo số liệu thống kê ở nước ta cho thấy
các DNVVN kinh doanh 100% các lĩnh vực, cung cấp 80% sản phẩm cho nền
kinh tế ngoài những sản phẩm, dịch vụ Nhà nước cấm hoặc độc quyền.
Thứ tư, góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.
Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt và sáng tạo trong kinh
doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá, mềm dẻo, DNVVN góp
Footer Page 14 of 27.


Header Page 15 of 27.

phần to lớn làm năng động kinh tế trong cơ chế thị trường. Chính sự xuất hiện
phong phú, đa dạng của các cơ sở sản xuất, ngành nghề, các loại sản phẩm dịch
vụ, các hình thức kinh doanh của các DNVVN để tồn tại và đứng vững trên thị
trường, vô hình chung các DNVVN đã thúc đẩy sự cạnh tranh trong các khu vực
kinh tế làm cho nền kinh tế trở nên linh động hơn. Đồng thời tạo ra sức ép buộc
các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước phải thay đổi nhanh nhạy cơ chế,
chính sách đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của các doanh nghiệp nói chung và các
DNVVN nói riêng.
Thứ năm, đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành thủ
công truyền thống nhằm sản xuất các loại hàng hoá mang bản sắc văn hoá dân
tộc.
Với quy mô vừa và nhỏ cho phép doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn lực
sẵn có ở địa phương cũng như các sản phẩm phụ của các nhà máy lớn chưa sử
dụng đến, đồng thời khai thác và sử dụng đội ngũ tiểu thủ công nghiệp lành
nghề sản xuất ra những sản phẩm truyền thống đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Với sự phát triển của các DNVVN, nhiều làng nghề truyền thống đã
được khôi phục và phát huy.
Thứ sáu, các DNVVN góp phần làm tăng thu nhập cho ngân sách Nhà nước

và tăng thu nhập cho dân cư.
Với hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các DNVVN đã làm doanh
thu tăng lên điều này đồng nghĩa với việc thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách
Nhà nước và thu nhập của người lao động cũng tăng lên. Việc thực hiện tốt
nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước sẽ giúp Nhà nước có nguồn sử dụng tiếp tục
tái đầu tư cho các ngành nghề kinh tế và cả bản thân doanh nghiệp. Thực tế ở
nước ta các DNVVN đã thu được khoảng 137.000 tỷ đồng và nộp ngân sách
5.000 tỷ đồng tiền thuế. Các DNVVN đã đóng góp khoảng 21- 25 % GDP và thu
hút lực lượng lao động rộng khắp cả nước.
Footer Page 15 of 27.


Header Page 16 of 27.

Thứ bảy, góp phần đào tạo bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân mới.
Muốn làm được lớn trước hết phải bắt đầu từ cái nhỏ nhất. Do đó mà kinh
doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen
với môi trường kinh doanh, giúp họ tích luỹ được vốn kinh nghiệm ban đầu. Bắt
đầu từ kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trưởng
thành, trở thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba biết đưa doanh nghiệp của
mình phát triển đi lên một cách nhanh chóng. Các DNVVN chính là “vườn
ươm” tốt nhất cho các nhân tài kinh doanh. Riêng ở nước ta, 63,2 % các nhà
kinh doanh được trưởng thành từ các DNVVN.
1.1.3 Những thuận lợi và khó khăn về vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.3.1 Thuận lợi
Do đặc điểm riêng có của loại hình DNVVN nên khi tham gia vào nền kinh
tế thị trường nó có một số lợi thế nhất định so với doanh nghiệp có quy mô lớn
khác:
Một là, thời gian thu hồi vốn nhanh, vòng quay của vốn nhanh sẽ là yếu tố
hấp dẫn các nhà đầu tư vừa và nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân thuộc mọi thành

phần kinh tế đầu tư vào doanh nghiệp. Chính vì các nhà đầu tư này có số lượng
vốn ít nên họ muốn đầu tư vào dự án ít rủi ro. Khi thời gian hoàn vốn dự án
ngắn thì vốn của họ sẽ không gặp rủi ro khi thị trường có chiều hướng biến
động gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, do có được tính năng động, linh hoạt, tự do, sáng tạo nên DNVVN
dễ dàng tiếp cận và ứng dụng một cách nhanh chóng những công nghệ mới từ
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mang lại bởi lượng vốn đầu tư vào trang bị
máy móc là nhỏ. So với các doanh nghiệp có quy mô lớn cơ sở vật chất kỹ thuật
hạ tầng đồ sộ thì các DNVVN dễ dàng nhanh nhậy bắt kịp với những chuyển
biến của nhu cầu người tiêu dùng. DNVVN có khả năng chuyển hướng kinh
doanh và chuyển đổi mặt hàng nhanh hơn, tăng giảm lao động dễ dàng vì có thể
Footer Page 16 of 27.


Header Page 17 of 27.

sử dụng nguồn lao động thời vụ. Hơn nữa, DNVVN khi chuyển địa điểm sản
xuất không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, các doanh
nghiệp này lại có thể nắm bắt và phục vụ nhanh chóng những nhu cầu nhỏ lẻ
mang tính khu vực, địa phương. Do đó, DNVVN có thể khai thác hết năng lực
của mình để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
Ba là, quan hệ giữa các thành viên trong DNVVN chặt chẽ, gắn bó hơn tạo
ra môi trường làm việc tốt. Người lao động có thể dễ dàng gặp gỡ trao đổi với
nhau, đề xuất với lãnh đạo đồng ý những ý tưởng mới lạ giúp doanh nghiệp
phát triển nhanh hơn, ổn định hơn, tạo ra những đột phá trong hoạt động kinh
doanh. Trong một số doanh nghiệp mà số lượng lao động không nhiều, người
quản lý có thể nắm bắt, tìm hiểu khả năng làm việc cũng như đời sống tinh
thần của từng thành viên một cách rõ ràng hơn từ đó đưa ra cách thức tổ chức
quản lý hiệu quả nhất, tạo được lòng tin trong từng thành viên. Đây là điều
hiếm có ở các doanh nghiệp lớn.

Năm là, do có quy mô vừa và nhỏ nên ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc
khủng hoảng kinh tế mang tính chất dây chuyền ở nhiều quốc gia. Hơn nữa, sự
phá sản của DNVVN không gây ảnh hưởng lớn nào đối với nền kinh tế.
Bên cạnh những thuận lợi mà DNVVN có được khi tham gia vào nền kinh
tế thị trường còn có những khó khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt và giải
quyết để giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
1.1.3.2 Khó khăn
Những khó khăn cơ bản nhất mà bất kỳ DNVVN nào cũng gặp phải khi
tham gia vào kinh tế thị trường đó là:
Thứ nhất, các DNVVN bị hạn chế trong tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
chính thức. Số lượng DNVVN chiếm trên 90% trong tổng số DN, song tổng số
vốn cho sản xuất, kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng vốn của các doanh
nghiệp trong cả nước. Điều này một mặt phản ánh khả năng thu hút vốn vào sản
Footer Page 17 of 27.


Header Page 18 of 27.

xuất, kinh doanh của các DNVVN còn thấp. Mặt khác cho thấy các DNVVN
chưa được quan tâm đầu tư vốn để mở rộng sản xuất. Đối với doanh nghiệp,
vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào vay vốn các tổ chức tín dụng và vốn cổ phần.
Tuy nhiên, để phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui
mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa
thị trường vốn của chúng ta hiện chưa hoàn chỉnh, hệ thống tổ chức tài chính
trung gian chưa đủ mạnh... Do đó, có thể nói tín dụng là một “kênh” chủ yếu để
cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN. Do đó, DNVVN giải
quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp
cận được các nguồn tín dụng chính thức thông qua các tổ chức tín dụng do hạn
chế về tài sản đảm bảo và thiếu các điều kiện khác.Tuy nhiên, thị trường tín
dụng không chính thức có một số hạn chế. Thường là số cho vay nhỏ và ngắn

hạn với chi phí cao; khả năng huy động tiền tiết kiệm và chuyển hoá thời hạn
nói chung là bị giới hạn. Nhìn chung thị trường tín dụng không chính thức chỉ
đủ để tài trợ cho những hoạt động mua sắm tài sản cố định có quy mô nhỏ và
đầu tư nhiều lần. Tuy nhiên, nguồn này khó có thể đáp ứng được cho yêu cầu
phát triển DNVVN. Chính vì vậy, DNVVN không chỉ bị hạn chế về mở rộng
sản xuất mà còn bị lạc hậu về công nghệ, trang thiết bị máy móc và đội ngũ lao
động chủ yếu là lao động phổ thông ít được đào tạo, thiếu kỹ năng,…. Đây là
khó khăn lớn nhất của DNVVN. Thiếu vốn để hoạt động kinh doanh đặc biệt là
nguồn vốn trung và dài hạn là vấn đề nan giải mà bất cứ một DNVVN nào cũng
muốn tìm ra được giải pháp tối ưu để khắc phục. Chính vì thiếu vốn mà các
doanh nghiệp loại này không có vốn để cải tiến công nghệ lạc hậu, đào tạo và
tìm kiếm được đội ngũ lãnh đạo lành nghề, xây dựng cơ sở sản xuất tốt, nắm
bắt thông tin thị trường một cách nhanh chóng nhất. Do vậy nên sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp này trên thị trường yếu kém, sản xuất đình trệ, gây khó
khăn cho doanh nghiệp tìm chỗ đứng trên thị trường để tồn tại và phát triển.
Footer Page 18 of 27.


Header Page 19 of 27.

Thứ hai, chính vì thiếu vốn dẫn đến sức cạnh tranh của các DNVVN bị
hạn chế do thiếu thông tin, thiếu thị trường, quan hệ kinh doanh hạn hẹp, sức
cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá thấp, khó tiêu thụ sản phẩm, độ rủi ro cao nên
thị trường DNVVN còn nhỏ, không ổn định, sức mua thị trường trong nước
thấp, sản phẩm dịch vụ lại không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm doanh nghiệp
lớn. Hơn nữa, họ lại chịu sức ép của các mặt hàng ngoại nhập khiến cho việc
tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, môi trường thể chế, chính sách kinh tế vĩ mô còn hạn chế. Mặc dù,
đã có quan điểm chiến lược rõ ràng đối với DNVVN nhưng còn thiếu những
định chế về pháp luật, thiếu chính sách và cơ chế hỗ trợ phát triển như tạo môi

trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào
tạo nguồn nhân lực.... Chính vì vậy, các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn
trong việc hoạch định các chiến lược sản xuất kinh doanh, gia tăng sức cạnh
tranh và nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh của bản thân.
Đối với nước ta hiện nay các DNVVN mặc dù được thành lập rất nhiều
nhưng chưa thực sự phát triển theo đúng tiềm năng vốn có của nó. Tuy nhiên,
chúng ta cũng thấy rõ một điều rằng các doanh nghiệp nà đã đóng góp rất to lớn
vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Các DNVVN đã khơi dậy và phát huy
tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc kiến thiết đất
nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho xã hội, là vườm
ươm mầm các đội ngũ các doanh nghiệp cho đất nước ở mọi lĩnh vực, ngành
nghề, mọi thành phần kinh tế. Nhưng do điều kiện kinh tế nước ta còn ở trong
giai đoạn phát triển thấp nên các DNVVN còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá
trình hoạt động. Quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề và năng lực
hạn chế, sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ còn yếu đặc biệt là việc thiếu vốn
gây ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNVVN. Do vậy,
ngay cả bản thân ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trong cơ chế thị trường.
Footer Page 19 of 27.


Header Page 20 of 27.

1.2 KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNVVN
1.2.1 Khái niệm tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung dài hạn là hoạt động tài chính tín dụng cho khách hàng vay
vốn trung dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, phục
vụ đời sống. Tuỳ theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể về
hoạt động tín dụng trung dài hạn. Ở Việt Nam, về thời hạn cho vay được xác định
phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách

hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Hiện nay, thời hạn tín
dụng trung và dài hạn được xác định như sau:
- Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 5 năm.
- Thời hạn cho vay dài hạn từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt
động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân
và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống.
Như vậy nhìn chung các khoản tín dụng trung và dài hạn có những đặc điểm
sau:
- Chúng có thời hạn trên 1 năm.
- Chúng được trả bằng những khoản vay theo thời gian (có thể quý, tháng
hoặc nửa năm) trong kỳ hạn cho vay.
- Chúng thường được đảm bảo bằng những tài sản lưu động đem ra thế chấp
hoặc văn tự cầm cố tài sản cố định.
Mục đích của hoạt động tín dụng trung và dài hạn là để đầu tư dự án, xây
dựng mới, mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới cải
tiến trang thiết bị công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu lợi
nhuận phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật the quy
định.

Footer Page 20 of 27.


Header Page 21 of 27.

1.2.2. Các hình thức tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Từ buổi sơ khai thành lập ngân hàng thương mại cho tới nay, hoạt động tín
dụng ngân hàng đã có nhiều đổi mới. Trước đây, Ngân hàng không đi sâu vào tìm
hiểu phương thức phục vụ khách hàng nhưng giờ đây khi bước sang kinh tế thị
trường thì các hình thức tín dụng ngân hàng khác nhau đã được đưa ra để khách

hàng có thể lựa chọ hình thức nào cho phù hợp và tối ưu nhất cho họ. Đối với
DNVVN, Ngân hàng thương mại cũng đưa ra các hình thức tín dụng ngân hàng
khác nhau, mỗi hình thức lại thích hợp với từng mục đích và nhu cầu của các
doanh nghiệp khác nhau. Các hình thức tín dụng trung và dài hạn chủ yếu của ngân
hàng đối với DNVVN là:

Footer Page 21 of 27.


Header Page 22 of 27.

1.2.2.1 Cho vay theo dự án dài hạn
Đây là hình thức tài trợ nhiều rủi ro nhất của ngân hàng, cho vay theo dự
án nhằm mục đích tài trợ cho hoạt động xây dựng cơ bản của khách hàng như
xây dựng nhà máy lọc dầu, đường ống dẫn khí, dẫn dầu, công trình hầm mỏ, nhà
máy điện, thiết bò tại cầu cảng hàng hải,... rủi ro loại cho vay này thường rất lớn
và đa dạng do những nguyên nhân sau:
- Số tiền tài trợ thường rất lớn.
- Dự án có thể bò trì hoãn do điều kiện về thời tiết hoặc trang thiết bò không
cung cấp đủ.
- Các quy đònh về pháp lý của đòa phương có thể thay đổi gây tác động tiêu
cực tới dự toán chi phí của dự án.
- Lãi suất thay đổi sẽ gây tác động tiêu cực tới thu nhập từ khoản cho vay của
ngân hàng hoặc chi phí vay vốn của chủ đầu tư.
Thực hiện tài trợ dự án thường có sự tham gia của nhiều ngân hàng do vốn
tài trợ thường rất lớn và việc đồng tài trợ giúp các ngân hàng chia sẻ rủi ro.
Ngoài ra, dự án cần được sự bảo lãnh của một bên thứ ba để trong trường hợp
ngân hàng không thể thu nợ từ phía người vay tiền thì tiến hành thu nợ từ người
bảo lãnh.
1.2.2.2 Cho vay kỳ hạn

Đây là hình thức cho vay trung và dài hạn nhằm mục đích tài trợ cho hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp như mua sắm trang thiết bò, xây dựng các công
trình… loại này có thời hạn cho vay trên một năm. Thông thường các doanh
nghiệp vay theo hình thức chọn gói dựa trên cơ sở dự toán những chi phí cho một

Footer Page 22 of 27.


Header Page 23 of 27.

dự án đầu tư và cam kết thanh toán nợ bằng các khoản TÀI LIỆU THAM

KHẢO
1. Đặng Vỹ (2008), “Doanh nghiệp nhỏ vẫn khó tiếp cận với vốn ngân hàng”
mạng Internet, trên trang Vietnamnet.
2. Đỗ Minh Thành (2008), “Để phát triển mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng
với doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tạp chí Cộng sản số (16).
3. Hồng Yến (2008), “Phải có tầm nhìn xa” Báo Đầu tư Thương Mại Du lịch
(91).
4. Học viện Ngân hàng, Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng.
5. Lê Vinh Danh (1997), Tiền tệ và Hoạt động Ngân hàng, Nxb Chính trị Quốc
gia Hà Nội.
6. Mạng Internet (2008), “Kinh nghiệm các nước trong việc hỗ trợ tài chính cho
DNVVN”
7. Mạng Internet (2007), “Mở rộng cửa cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận
vốn” trên trang VCInews.
8. Mạng Internet (2006), “Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hội nhập” trên trang
lefaso.org.
9. Mạng Internet (2008), trên trang Newsletter “Hiện 90% doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang gặp khó khăn, trong đó khoảng 70% gặp khó khăn vừa phải và 20% vơ

cùng khó khăn có thể rơi vào tình trạng phá sản”.
10. Ngọc Châu (2008) “80% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang khó khăn” mạng
Internet, báo điện tử VnExpress.net.
11. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang, báo cáo thường niên các năm
2006, 2007, 2008.
12. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2004), Sổ tay tín dụng , Nxb Lao
động Xã hội.

Footer Page 23 of 27.


Header Page 24 of 27.

13. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Giang (2006-2008), Báo cáo thường niên
các năm 2006-2008.
14. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2008),“Chương trình Hỗ trợ tín
dụng cho DNNVV góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững và đảm bảo
an sinh xã hộ” của giai đoạn 2003-2008.
15. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam “Quy trình cho vay đối với khách
hàng”.
16. Ngô Hướng và Tô Kim Ngọc chủ biên (2001), Giáo trình tín dụng Ngân
hàng.
17. NXB Thống kê Hà Nội (2001), Giáo trình tín dụng ngân hàng.
18. Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm ngày 29 tháng 12 năm
2006 của Chính phủ.
19. Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ngày 28
tháng 5 năm 2008 của Chính phủ.
20. Phước Hà (2008), “Ứng cứu vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ” Mạng
Internet, trên trang Vietnamnet.vn.
21. Vũ Tiến Lộc (2008), “4 nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng đội ngũ doanh nghiệp,

doanh nhân vững mạnh”, Phát biểu tại Hội nghị Doanh nhân Tiêu biểu toàn quốc
2008.
22. Văn kiện đại hội Đảng khoá VIII, khoá IX, X.
23. Việt Hùng (2008), “10 điều các nhà quản lý ngân hàng nên quan tâm” Báo
Ngân hàng (26).
24. Xuân Lê (2008), “Doanh nghiệp sẽ tự điều chỉnh”, Báo Ngân hàng (44).

Footer Page 24 of 27.



×