Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát huyện quỳnh phụ, tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.46 KB, 135 trang )

MỤC LỤC

1

1


Từ viết tắt
BQ
CC
CN
DHMT
ĐVT
GTSX
Ha
HU
KTXH
NN&PTNT
NQ
PTNT

SL
TACN
TB
TD
TSCĐ
UBND

2

Nghĩa tiếng Việt


Bình quân
Cơ cấu
Chăn nuôi
Duyên hải miền trung
Đơn vị tính
Giá trị sản xuất
Héc ta
Huyện ủy
Kinh tế xã hội
Nông nghiệp & phát triển nông thôn
Nghị quyết
Phát triển nông thôn
Quyết định
Số lượng
Thức ăn chăn nuôi
Trung bộ
Trung du
Tài sản cố định
Ủy ban nhân dân

2


DANH MỤC BẢNG

3

3



DANH MỤC HỘP, HÌNH, BIỂU ĐỒ

4

4


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
1. Tên tác giả: Hoàng Thanh Tùng
2. Tên luận văn: “Phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình”
3. Chuyên ngành: Phát triển nông thôn

Mã số: 60.62.01.16

4. Cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
5. Kết quả nghiên cứu chính
Quỳnh Phụ là huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Bình, toàn huyện có
38 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 02 thị trấn với tổng diện tích tự nhiên là
20.961,47 ha. Là huyện có nền sản xuất nông nghiệp phát triển, khu vực nông
nghiệp nông thôn chiếm 90% diện tích tự nhiên và 80% dân số của huyện. Chăn
nuôi gia cầm duy trì ổn định 1,2 triệu con, trong đó chủ yếu là chăn nuôi gà thịt.
Toàn huyện có trên 10 trang trại nuôi gia cầm quy mô lớn (trên 8.000 gia
cầm/lứa). Gà thả vườn được nuôi tập trung nhiều ở các địa phương như: xã
Quỳnh Lâm, Quỳnh Hoàng, Quỳnh Khê, Quỳnh Ngọc… Đặc biệt tại xã Quỳnh
Lâm, Quỳnh Hoàng là các xã duyên giang, có hệ thống bãi cát gần chân đê
không phù hợp cho trồng trọt nhưng lại rất thích hợp cho nuôi gà bán chăn thả.
Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gà nói
riêng chịu ảnh hưởng nhất định của các biến động kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế
luôn là mối quan tâm hàng đầu. Bên cạnh đó các hộ chăn nuôi gà trên cát vẫn còn

gặp nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất như tình hình dịch bệnh, khắc phục
những bất lợi của thời tiết mùa hè (nhiệt độ cao, cát giữ nóng lâu), việc tìm đầu
ra cho sản phẩm và quy trình nuôi an toàn, đạt chuẩn để người chăn nuôi mở
rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập. Ngoài ra, nuôi
gà trên cát chỉ phù hợp với giống gà ta, không phù hợp với giống gà tây do ít vận
động. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn như trên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát huyện Quỳnh Phụ,
tỉnh Thái Bình’’.
Đề tài có mục tiêu chung trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển mô hình
nuôi gà ri lai trên cát; từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển hoàn thiện mô
hình nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Để thực hiện
được mục tiêu chung đề tài có một số mục tiêu cụ thể như: Hệ thống hóa lý luận

5

5


và thực tiễn về phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát; Đánh giá thực trạng phát
triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình trong
những năm qua; Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển mô hình nuôi gà ri
lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Đề xuất một số giải pháp nhằm
phát triển hoàn thiện mô hình nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình.
Qua nghiên cứu đề tài đạt được một số kết quả như sau: nghiên cứu đã
đánh giá thực trạng phát triển mô hình chăn nuôi gà ri lai trên địa bàn huyện
Quỳnh Phụ: Hộ quy mô lớn có GO đạt 505.732 nghìn đồng/năm, trong khi đó hộ
quy mô nhỏ chỉ đạt 104.696 nghìn đồng/năm. Công lao động gia đình giữa các
nhóm hộ cũng có sự khác khau với hộ quy mô nhỏ bỏ ra 1 năm 408 công để
chăm gà ri, hộ quy mô lớn có tổng số công nhỏ hơn với 300 công được nhóm hộ

này bỏ ra. Thu nhập hỗn hợp của nhóm hộ quy mô lớn trong 1 năm thu được
246.908 nghìn đồng còn với nhóm hộ quy mô nhỏ chỉ đạt được 52.504 nghìn
đồng. nhóm trang trại cho thấy giá trị sản xuất đạt được hàng năm rất cao với
9,24 tỷ đồng. Thu nhập hỗn hợp đạt được 5,3 tỷ đồng/năm. Chỉ tiêu hiệu quả
GO/IC cho thấy đạt 2,44 lần thể hiện với 1 đồng IC bỏ ra trang trại chăn nuôi gà
ri sẽ thu lại được 2,44 đồng GO. MI/IC của các trang trại đạt được 1,42 lần cho
thấy với 1 đồng IC bỏ ra sẽ thu lại được 1,42 đồng MI. Các chỉ tiêu hiệu quả giữa
trang trại và hộ chăn nuôi cho thấy nhóm trang trại hàng năm có hiệu quả hơn
trong chăn nuôi gà ri lai. MI/IC của nhóm trang trại hàng năm đạt 1,42 lần cao
hơn so với MI/IC của nhóm hộ chăn nuôi chỉ đạt 1,1 lần, cao hơn 0,32 lần. Như
vậy có thể thấy được sản xuất quy mô trang trại đạt hiệu quả hơn, cần được
khuyến khích phát triển sản xuất quy mô trang trại.
Qua nghiên cứu thực trạng đề tài có phân tích một số yếu tố ảnh hưởng tới
phát triển mô hình chăn nuôi gà ri lai: Chủ trươngg, chính sách của Nhà nước;
Vốn đầu tư chăn nuôi; Yếu tố công nghệ kỹ thuật; Thị trường; Ảnh hưởng do tập
quán chăn nuôi; Ảnh hưởng dịch bệnh. Từ kết quả nghiên cứu trên, đề tài đã đề
xuất phương hướng và những giải pháp phát triển mô hình chăn nuôi gà ri lai trong
thời gian tới. Giải pháp nên hướng vào giải quyết các vấn đề sau: Giải pháp thị
trường; Quy hoạch vùng chăn nuôi; Giải pháp về khoa học kỹ thuật; Nâng cao trình
độ kỹ thuật của hộ chăn nuôi; Nâng cao công tác thú y; Chính sách hỗ trợ phát triển
chăn nuôi theo chiều rộng.

6

6


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,

đặc biệt đối với Việt Nam, một quốc gia mà dân số vẫn tập trung nhiều trong
ngành nông nghiệp. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2015 theo
giá so sánh 2010 ước tính đạt 858,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,62% so với năm 2014,
bao gồm: Nông nghiệp đạt 637,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,28%; lâm nghiệp đạt 26,6
nghìn tỷ đồng, tăng 7,92%; thuỷ sản đạt 194,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,06% (Bộ Kế
hoạch và đầu tư, 2016).
Chăn nuôi là một ngành sản xuất chính, chủ yếu có từ lâu đời, chăn nuôi
nhỏ lẻ (theo hộ gia đình). Chăn nuôi được coi là ngành sản xuất mang lại nguồn
thu nhập chính cho nông dân, giúp nông dân xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống và vươn lên làm giàu. Đối với một tỉnh đồng bằng như Thái Bình, chăn nuôi
cùng với trồng trọt là hai ngành mưu sinh chính của người dân địa phương, là
nguồn thu nhập chủ yếu của người dân. Trong xu thế hội nhập như hiện nay, vấn
đề làm sao để phát triển chăn nuôi đem lại hiệu quả cao cho người nông dân nói
chung và người dân huyện Quỳnh Phụ nói riêng là rất cần thiết.
Quỳnh Phụ là huyện nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Bình, toàn huyện có
38 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 02 thị trấn với tổng diện tích tự nhiên là
20.961,47 ha. Là huyện có nền sản xuất nông nghiệp phát triển, khu vực nông
nghiệp nông thôn chiếm 90% diện tích tự nhiên và 80% dân số của huyện. Huyện
Quỳnh Phụ là huyện dẫn đầu trong phong trào chăn nuôi toàn tỉnh, bên cạnh chăn
nuôi lợn nái ngoại, lợn siêu nạc, ngành chăn nuôi gia cầm cũng không ngừng
phát triển. Chăn nuôi gia cầm duy trì ổn định 1,2 triệu con, trong đó chủ yếu là
chăn nuôi gà thịt. Toàn huyện có trên 10 trang trại nuôi gia cầm quy mô lớn (trên
8.000 gia cầm/lứa). Hình thức chăn nuôi gia cầm chủ yếu là hình thức bán chăn
thả vì gà chăn thả có khả năng chống chịu bệnh tốt và tăng trọng khá; nhu cầu
tiêu thụ loại gà này trên thị trường ngày càng tăng và đặc biệt là phù hợp với điều
kiện đầu tư của các hộ chăn nuôi trong huyện. Gà thả vườn có nhiều ưu điểm: Gà
có sức đề kháng cao, ít bệnh tật, đặc biệt có khả năng chịu được thời tiết nóng.
Gà có tốc độ tăng trưởng vừa phải. (Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Quỳnh
Phụ, 2016).


7

7


Chăn nuôi gà trên sân cát ngoài việc gà được vận động thịt chắc và dai
hơn thì chi phí về dịch bệnh cũng ít hơn so với nuôi gà thả vườn. Sân cát có khả
năng thoát nước nhanh, bề mặt luôn khô ráo, khi trời mưa hoặc khi gà thải phân
ra thì cát sẽ thấm hút ngay không để đọng nước trên sân. Mùa hè nhiệt độ cao,
nắng nhiều cát sẽ khiến mầm bệnh bị tiêu dệt nhanh chóng ngay từ khi mới phát
sinh. Gà nuôi trên cát sẽ được vận động thoải mái nên thịt gà khá chắc và dai,
thơm ngon tương tự như gà thả vườn. Do đó việc nuôi gà thả trên sân cát sẽ tạo
điều kiện cho gà sinh trưởng, phát triển tốt nhất… Tuy nhiên trong bối cảnh hiện
nay ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gà nói riêng chịu ảnh hưởng nhất định
của các biến động kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế luôn là mối quan tâm hàng
đầu. Bên cạnh đó các hộ chăn nuôi gà trên cát vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong
quá trình sản xuất như tình hình dịch bệnh, khắc phục những bất lợi của thời tiết
mùa hè (nhiệt độ cao, cát giữ nóng lâu), việc tìm đầu ra cho sản phẩm và quy
trình nuôi an toàn, đạt chuẩn để người chăn nuôi mở rộng quy mô sản xuất, nâng
cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập. Ngoài ra, nuôi gà trên cát chỉ phù hợp với
giống gà ta, không phù hợp với giống gà tây do ít vận động.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn như trên, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát huyện Quỳnh Phụ,
tỉnh Thái Bình’’.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát; từ
đó đề xuất một số giải pháp phát triển hoàn thiện mô hình nuôi gà ri lai trên cát
tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể


(1) Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát;
(2) Đánh giá thực trạng phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình trong những năm qua;

(3) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát tại
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình;

(4) Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoàn thiện mô hình nuôi gà ri lai trên
cát tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

8

8


1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

(1) Phát triển mô hình là gì? Nội dung phát triển nuôi gà ri lai trên cát gồm có những
nội dung gì?

(2) Thực trạng nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ hiện nay như thế nào?
(3) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát?
(4) Những khó khăn gặp phải trong phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát?
(5) Giải pháp làm thế nào để nâng cao hiệu quả và phát triển hoàn thiện mô hình
nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ?
1.4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển mô
hình nuôi gà ri lai tại huyện Quỳnh Phụ, cụ thể:
- Theo quy mô: Lớn, trung bình.

- Theo hướng sản xuất kinh doanh: gia trại, trang trại.
- Theo giống gà nuôi: gà ri lai.
1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.5.1. Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu về:
+ Thực trạng chăn nuôi gà ri lai tại huyện Quỳnh Phụ.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển mô hình nuôi gà ri lai.
+ Định hướng và các giải pháp phát triển mô hình nuôi gà ri lai.
1.5.2. Phạm vi về không gian
Đề tài được triển khai nghiên cứu trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình, các nội dung chuyên sâu được khảo sát tại các gia trại, trang trại điển
hình tại 02 xã trên địa bàn huyện, là xã Quỳnh Hoàng và xã Quỳnh Lâm.
Hai xã Quỳnh Hoàng, Quỳnh Lâm là hai xã vùng duyên giang của huyện
Quỳnh Phụ, được bao bọc bởi đê Hữu Luộc, có vùng đất bãi ngoài chân đê rất
lớn. Những vùng đất này không phù hợp với việc trồng trọt nhưng lại rất thích
hợp để chăn nuôi do đặc tính đất cát tiêu thoát nước nhanh và ở cách xa khu dân
cư thuận lợi để chăn nuôi gà bán chăn thả.
1.5.3. Phạm vi về thời gian

9

9


+ Các dữ liệu thứ cấp được thu thập qua 3 năm (2014 – 2016); thông tin
sơ cấp được tổ chức điều tra khảo sát từ năm 2016 sang 2017.
+ Các giải pháp nhằm phát triển mô hình chăn nuôi gà ri lai trên cát tại
huyện Quỳnh Phụ.
1.6. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn đã góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về Phát triển mô

hình nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ
Luận văn đã đánh giá được thực trạng phát triển mô hình nuôi gà ri lai
trên cát tại huyện Quỳnh Phụ.
Luận văn cũng tiến hành phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
mô hình nuôi gà ri lai trên cát tại huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, trong các yếu
tố ảnh hưởng đó,
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng, luận
văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nhân rộng mô hình nuôi gà ri lai
trên cát tại huyện Quỳnh Phụ.

10

10


PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Một số khái niệm có liên quan về phát triển sản xuất
2.1.1.1. Khái niệm về phát triển
Ngày nay có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển: phát triển là quá
trình là tăng thêm năng lực của con người hoặc môi trường để đáp ứng nhu cầu
của con người hoặc nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Sản phẩm của sự
phát triển là con người được khỏe mạnh, được chăm sóc sức khỏe tốt, có nhà ở
và tiện nghi sinh hoạt, được tham gia vào hoạt động sản xuất theo chuyên môn
đào tạo và được hưởng thụ các thành qủa của quá trình phát triển. Như vậy phát
triển không chỉ bao hàm việc khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên, xây
dựng cơ sở hạ tầng, mua và bán sản phẩm mà còn bao gồm các hoạt động không
kém phần quan trọng như chăm sóc sức khỏe, an ninh xã hội, đặc biệt là an ninh
con người, bản tồn thiên nhiên,… phát triển là một tổ hợp các hoạt động, một số
mục tiêu xã hội, một số mục tiêu kinh tế, dựa trên tài nguyên thiên nhiên, vật

chất, trí tuệ nhằm phát huy hết khả năng của con người, được hưởng một cuộc
sống tốt đẹp hơn (Mai Thanh Cúc và cs, 2005).
Tuy có nhiều quan niệm về sự phát triển, nhưng tựu trung lại các ý kiến đều
cho rằng: Phạm trù của sự phát triển là phạm trù vật chất, phạm trù tinh thần,
phạm trù về hệ thống giá trị của con người. Mục tiêu chung của phát triển là nâng
cao các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và quyền tự do công dân
của mọi người dân.
Khái niệm về phát triển bền vững đã được ủy ban môi trường và phát triển
thế giới đưa ra năm 1987 như sau: “Những thế hệ hiện tại cần đáp ứng nhu cầu
của mình, sao cho không phương hại đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp
ứng nhu cầu của họ”. Phát triển bền vững lồng ghép các quá trình hoạt động kinh
tế, hoạt động xã hội với việc bảo tồn tài nguyên và làm giầu môi trường sinh thái.
Nó đáp ứng nhu cầu phát triển hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng bất lợi cho
thế hệ mai sau.
Theo chúng tôi khái niệm về phát triển bền vững của ủy ban môi trường thế

11

11


giới là đầy đủ. Với bất cứ một quá trình phát triển nào cũng phải đặc biệt chú ý
đến tính bền vững, có như vậy thì phát triển mới lâu dài và ổn định.
Phát triển được coi như tiến trình của xã hội, là chuỗi những biến chuyển
có mối quan hệ qua lại với nhau. Phát triển theo khái niệm chung nhất là nâng
cao hạng phúc của người dân, bao hàm nâng cao các chuẩn mực sống, cải thiện
các điều kiện giáo dục, sức khoẻ, sự bình đẳng về cơ hội...Ngoài ra việc đảm bảo
các quyền về chính trị và công dân là những mục tiêu rộng hơn của phát triển.
(Mai Thanh Cúc và cs, 2005).
2.1.1.2 Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế

Tăng trưởng kinh tế được coi là tiền đề cần thiết cho sự phát triển. tăng
trưởng kinh tế được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản
lượng nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng
kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế tính toàn bộ
hay tính bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Đó là
mức phần trăm (%) hay tuyệt đối hàng năm, hay bình quân trong một giai đoạn
(Phạm Vân Đình, 1997).
Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về
chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển là một quá
trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội dung của
phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân trên một đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về
lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc
gia và thực hiện những mục tiêu khác của phát triển (Phạm Vân Đình, 1997).
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức
phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế một quốc gia. Để phân biệt các giai
đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với
nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc
gia đạt được (Phạm Vân Đình, 1997).

12

12


Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối
cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên

về tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí
giáo dục của quần chúng nhân dân... Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về
chất xã hội của quá trình phát triển ((Phạm Vân Đình, 1997).
* Phát triển kinh tế theo chiều rộng: Phát triển kinh tế bằng cách tăng số
lượng lao động, khai thác thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng thêm tài
sản cố định và tài sản lưu động trên cơ sở kỹ thuật như trước. Trong điều kiện
một nước kinh tế chậm phát triển, những tiềm năng kinh tế chưa được khai thác
và sử dụng hết, nhất là nhiều người lao động chưa có việc làm thì phát triển kinh
tế theo chiều rộng là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhưng đồng thời phải coi
trọng phát triển kinh tế theo chiều sâu. Tuy nhiên, phát triển kinh tế theo chiều
rộng có những giới hạn, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thấp. Vì vậy, phương
hướng cơ bản và lâu dài là phải chuyển sang phát triển kinh tế theo chiều sâu
(dẫn theo Nguyễn Văn Luận, 2010).
* Phát triển kinh tế theo chiều sâu: Phát triển kinh tế chủ yếu nhờ đổi mới
thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kĩ thuật, cải tiến tổ chức
sản xuất và phân công lại lao động, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn
nhân tài, vật lực hiện có. Trong điều kiện hiện nay, những nhân tố phát triển theo
chiều rộng đang cạn dần, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật trên thế giới ngày
càng phát triển mạnh với những tiến bộ mới về điện tử và tin học, công nghệ
mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học đã thúc đẩy các nước coi trọng chuyển
sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Kết quả phát triển kinh tế theo chiều sâu
được biểu hiện ở các chỉ tiêu: tăng hiệu quả kinh tế, tăng năng suất lao động,
giảm giá thành sản phẩm, giảm hàm lượng vật tư và tăng hàm lượng chất xám,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu suất của đồng vốn, tăng tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân theo đầu người (dẫn theo Nguyễn Văn Luận, 2010).
Ở Việt Nam và một số nước chậm phát triển, do điều kiện khách quan có
tính chất đặc thù, kinh tế chậm phát triển, nên phát triển kinh tế theo chiều rộng
vẫn còn có vai trò quan trọng. Nhưng để mau chóng khắc phục sự lạc hậu, đuổi
kịp trình độ phát triển chung của các nước trên thế giới, trước hết là các nước


13

13


trong khu vực, phát triển kinh tế theo chiều sâu phải được coi trọng và kết hợp
chặt chẽ với phát triển theo chiều rộng trong phạm vi cần thiết và điều kiện có
cho phép.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
Có nhiều nhân tố khác nhau liên quan đến quá trình phát triển kinh tế, việc
nghiên cứu cần thiết phải phân thành hai nhóm với tính chất và nội dung tác động
khác nhau đó là nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế.
- Nhân tố kinh tế
Đây là nhân tố có tác động trực tiếp đến các biến số đầu vào và đầu ra của
nền kinh tế. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số sau:
Y = F (Xi)
Trong đó: Y: Giá trị đầu ra
Xi: Là giá trị các biến số đầu vào
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị đầu ra của nền kinh tế phụ thuộc vào
sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế, tức là tổng cầu, còn giá trị các
biến số đầu vào có liên quan trực tiếp đến tổng cung, tức là các yếu tố nguồn lực
tác động trực tiếp.
Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc
vào các đầu vào trong điều kiện trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi
một yếu tố (biến số) có vai trò nhất định trong việc tạo ra sự gia tăng sản lượng,
do trình độ phát triển kinh tế mỗi nơi, mỗi lúc quyết định.
- Các nhân tố phi kinh tế
Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay còn
gọi là các nhân tố phi kinh tế có tính chất và nội dung tác động khác. Ảnh hưởng
của chúng là gián tiếp và không thể lượng hoá cụ thể được mức độ tác động của

nó đến tăng trưởng kinh tế. Do vậy không thể tiến hành tính toán, đối chiếu cụ

14

14


thể được, nó có phạm vi ảnh hưởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể
đánh giá một cách riêng rẽ mà mang tính tổng hợp, đan xen, tất cả lồng vào nhau,
tạo nên tính chất đồng thuận hay không đồng thuận trong quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà người ta không thể phân biệt và
đánh giá phạm vi, mức độ tác động của từng nhân tố đến nền kinh tế.
Có rất nhiều nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trưởng và phát triển
như: Thể chế chính trị – xã hội, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn giáo trong xã hội,
các đặc điểm tự nhiên khí hậu, địa vị của các thành viên trong cộng đồng và khả
năng tham gia của họ vào quản lý phát triển đất nước.
Như vậy để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển sản xuất chúng ta không những
chỉ chú ý đến các yếu tố vật chất của sản xuất mà cần quan tâm đến các thể chế, chính
sách, cách tổ chức của người nông dân (hay còn gọi là các yếu tố phi kinh tế) (dẫn
theo Nguyễn Văn Luận, 2010).
2.1.1.3 Khái niệm về sản xuất
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản
xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân
con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó sản xuất vật chất
là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội (Phí Mạnh Hùng, 2009).
Sản xuất là quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Trong sản xuất con
người phải đấu tranh với thiên nhiên, tác động lên những vật chất làm thay đổi
những vật chất sẵn có nhằm tạo ra lương thực, thực phẩm và những của cải vật
chất khác phục vụ cuộc sống (Phí Mạnh Hùng, 2009).
Sản xuất là quá trình phối hợp và điều hòa các yếu tố đầu vào (tài nguyên

hoặc các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ (đầu ra).
Nếu giả thiết sản xuất sẽ diễn biến một cách có hệ thống với trình độ sử dụng
đầu vào hợp lý, người ta mô tả mối quan hệ giưa đầu vào và đầu ra bằng một
hàm sản xuất:
Q = f(X1, X2,…, Xn)
Trong đó Q biểu thị số lượng một loại sản phẩm nhất định, X1, X2,…., Xn

15

15


là lượng của một yếu tố đầu vào nào đó được sử dụng trong quá trình sản xuất.
Chúng ta cần chú ý mối quan hệ giữa yếu tố và sản phẩm
+ Sản phẩm cận biên (MP) của yếu tố đầu vào thay đổi. Đây là sự biến đổi
lượng đầu ra do tăng thêm chút ít yếu tố đầu vào thay đổi được biểu thị bằng đơn
vị riêng của nó. Khi sản phẩm cận biên bằng 0 thì tổng sản phẩm là lớn nhất.
+ Sản phẩm bình quân (AP) của yếu tố đầu vào thay đổi. Đem chia tổng sản
phẩm cho số lượng yếu tố đầu vào thay đổi ta sẽ có AP. Khi một yếu tố đầu vào
được sử dụng ngày một nhiều hơn, mà các yếu tố đầu vào khác không thay đổi
thì mức tăng tổng sản phẩm ngày càng nhỏ đi (Phí Mạnh Hùng, 2009).
* Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình sản xuất
+ Vốn sản suất: là những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị , các phương
tiện vận tải, kho tàng, cơ sở hạ tầng và kỹ thuật. Vốn đối với quá trình sản xuất là vô
cùng quan trọng. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng số vốn
sẽ dẫn đến tăng thêm sản lượng sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, trong thực tế việc
tăng thêm sản lượng hàng hóa còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như chất
lượng lao động, trình độ khoa học kỹ thuật (Phí Mạnh Hùng, 2009).
+ Lực lượng lao động: là yếu tố đặc biệt quan trọng của quá trình sản xuất.
Mọi hoạt động của sản xuất đều do lao động của con người quyết định, nhất là

người lao động có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng lao động. Do đó chất
lượng lao động quyết đinh kết quả và hiệu quả sản xuất (Phí Mạnh Hùng, 2009).
+ Đất đai: Là yếu tố sản xuất không chỉ có ý nghĩa quan trọng với ngành nông
nghiệp, mà còn rất quan trọng với sản xuất công nghiệp. Đất đai là yếu tố cố đinh lại
bị giới hạn về quy mô, nên người ta phải đầu tư thêm vốn và lao động trên một đơn
vị diện tích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai. Các loại tài nguyên khác trong
lòng đất như khoáng sản, tài nguyên rừng, biển và tài nguyên thiên nhiên đều là
những đầu vào quan trọng của sản xuất (Phí Mạnh Hùng, 2009).
+ Khoa học và công nghệ: Quyết định đến sự thay đổi năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm. Những phát minh sáng tạo mới được ứng dụng trong sản
xuất đã giải phóng được lao động nặng nhọc, độc hại cho người lao động và tạo

16

16


ra sự tăng trưởng nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển kinh tế của xã hội (Phí
Mạnh Hùng, 2009).
+ Ngoài ra còn một số yếu tố khác: quy mô sản xuất, các hình thức tổ
chức sản xuất, mối quan hệ cân đối tác động qua lại lẫn nhau giữa các ngành,
giữa các thành phần kinh tế, các yếu tố về thị trường nguyên liệu, thị trường
tiêu thụ sản phẩm… cũng có quyết định tới quá trình sản xuất (dẫn theo
Nguyễn Văn Luận, 2010).
2.1.2. Lý luận về mô hình phát triển sản xuất
2.1.2.1. Khái quát về mô hình
Trong thời đại ngày nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về mô hình.
Trong từ điển tiếng Việt thì: Mô hình được hiểu là vật cùng hình dạng nhưng làm
thu nhỏ lại nhiều lần, mô phỏng cấu tạo và hoạt động của một vật thể khác để
trình bày, nghiên cứu hoặc là hình thức diễn đạt hết sức ngắn gọn theo một ngôn

ngữ nào đó, các đặc trưng chủ yếu của một đối tượng, để nghiên cứu đối tượng
đấy (Viện ngôn ngữ học, 2002). Dưới góc độ kinh tế thì mô hình là cách thức mô
tả thực thể kinh tế đã được đơn giản hóa bằng cách loại bỏ các chi tiết không
quan trọng, giữ lại các đặc điểm quan trọng nhất để giới thiệu vấn đề nghiên cứu
nhằm hiểu và dự đoán được mối quan hệ của các biến số trên cơ sở dựa vào hành
vi của các biến số đó, nó cung cấp cách thức giải quyết vấn đề (dẫn theo Trần Thị
Mai Hương, 2010).
Như vậy, mô hình có thể có các quan điểm khác nhau. Sự khác nhau đó là
tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu, nhưng khi sử dụng mô hình đều có chung
một quan điểm là dùng mô hình mô phỏng đối tượng nghiên cứu (dẫn theo Trần
Thị Mai Hương, 2010).
2.1.2.2. Phân loại về mô hình
Tùy theo mục đích nghiên cứu, người ta sử dụng phương pháp mô hình hóa
để tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Phương pháp mô hình hóa làm một phương
pháp nghiên cứu bằng cách lập các mô hình về sự vật, hiện tượng nghiên cứu để
hiểu được sự vật, hiện tượng đó. Đối tượng nghiên cứu rất phức tạp, nhưng để
hiểu được bản chất người ta đã sử dụng phương pháp mô hình hóa để lược bỏ đi
những thành phần, những bộ phận cơ bản nhằm đơn giản hóa đối tượng nghiên

17

17


cứu mà vẫn không làm mất đi những đặc trưng cơ bản của đối tượng đó. Sự thể
hiện mô hình hóa thường được sử dụng để mô hình hóa đối tượng nghiên cứu là:
- Sự thể hiện mô hình bằng sơ đồ, lược đồ: Sơ đồ là hình vẽ nhằm mô tả những
đặc trưng nhất định của sự vật trong một quá trình nào đó. Sơ đồ là một dạng để thể
hiện mô hình, người ta sử dụng mô hình để mô phỏng đối tượng nghiên cứu hoặc
bằng sự phân tích trên sơ đồ mà người ta có thể rút ra kết luận để đi đến quyết định.

Lược đồ cũng là một dạng ngôn ngữ của mô hình, lược đồ diễn tả một cách sơ bộ,
tổng quát về đối tượng trình bày, nghiên cứu mà bỏ qua những chi tiết cụ thể (dẫn
theo Trần Thị Mai Hương, 2010).
- Sự thể hiện mô hình bằng đồ thị: Đồ thị là đường vẽ trên một hệ trục biểu
thị sự thay đổi các giá trị của đại lượng này theo đại lượng kia. Để diễn đạt về
hiện tượng kinh tế xã hội người ta có thể dùng sự mô tả bằng đồ thị. Nhìn vào đồ
thị sẽ dễ nhận biết được xu hướng vận động, phát triể, cho ta một cách nhìn tổng
quát hơn, trên cơ sở đó đưa ra các nhận xét, cách giải quyết phù hợp.
- Sự thể hiện mô hình bằng toán học: Toán học là khoa học sử dụng những con
số để nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, kinh tế, xã hội. Dạng ngôn
ngữ này được thể hiện bằng các công thức toán học, các dạng phương trình toán học
và những con số dùng để mô phỏng thể hiện bản chất của đối tượng nghiên cứu (dẫn
theo Trần Thị Mai Hương, 2010).
- Sự thể hiện mô hình thông qua việc mô tả bằng lời: Sự mô tả bằng lời cũng
là một dạng ngôn ngữ của mô hình. Sự mô tả bằng lời trong trường hợp này được
hiểu là thông qua lời nói hoặc chữ viết để diễn đạt một cách ngắn gọn những nội
dung chủ yếu nhất của sự vật, hiện tượng nghiên cứu. Sự mô tả này hết sức ngắn
gọn nhưng vẫn thể hiện được bản chất của sự vật, hiện tượng nghiên cứu (dẫn theo
Trần Thị Mai Hương, 2010).
Tùy theo góc độ nghiên cứu mô hình để vận dụng vào thực tiễn sản xuất
chia thành các loại mô hình:
- Nếu đứng trên góc độ nghiên cứu mô hình để vận dụng vào thực tiễn sản
xuất người ta chia mô hình thành 2 loại:

18

18


+ Mô hình lý thuyết: là hệ thống các quan niệm được phân tích khoa học

hoặc được trình bày dưới dạng các phương trình toán học, các phép tính toán,
phương pháp loại suy với các thông số nhất định giúp cho người ta đánh giá, khái
quát được bản chất của hiện tượng hoặc những vấn đề nghiên cứu.
+ Mô hình thực tế: Là mô hình tồn tại trong thực tế hoặc dựa trên cơ sở của
mô hình lý thuyết mà vận dụng, triển khai trong thực tiễn.
- Nếu xét trên góc độ tính chất thể hiện người ta chia mô hình thành 2 loại:
+ Mô hình trừu tượng: là mô hình mô phỏng sự vật, hiện tượng trong đời sống
kinh tế, xã hội bằng các yếu tố trực quan cảm tính hay trong quá trình tưởng tượng.
+ Mô hình vật chất: là hiện thân của những vật thể trong quá trình nào đó được
phóng to hoặc thu nhỏ song vẫn giữ được bản chất vật lý và sự đồng dạng hình học.
- Nếu xét trên góc độ phạm vi nghiên cứu kinh tế học, tiếp cận theo quy mô
các yếu tố người ta chia làm hai loại:
+ Mô hình kinh tế vi mô: là mô hình mô phỏng đặc trưng của những vấn đề
kinh tế cụ thể trong tế bào kinh tế, các bộ phận của nền kinh tế.
+ Mô hình kinh tế vĩ mô: là mô hình kinh tế mô phỏng nét đặc trưng của
vấn đề kinh tế chung trong toàn bộ nền kinh tế hoặc mô tả các hiện tượng kinh tế
liên quan đến một nền kinh tế.
- Nếu xét trên phạm vi lãnh thổ người ta chia mô hình sản xuất thành:
+ Mô hình sản xuất vùng, lãnh thổ.
+ Mô hình sản xuất của địa phương (dẫn theo Trần Thị Mai Hương, 2010).
2.1.3. Khái niệm và đặc điểm kinh tế nuôi gà ri lai trên cát
2.1.3.1. Khái niệm
Chăn nuôi gà là một nghề truyền thống của người dân có từ rất xa xưa.
Trước đây chăn nuôi gà trong mỗi gia đình ở nước ta chủ yếu là chăn thả đơn

19

19



thuần, qui mô nhỏ lẻ, chỉ đảm bảo một phần nào đó cho nhu cầu của gia đình,
hoàn toàn chưa có ý thức trở thành nhu cầu trao đổi hàng hoá (dẫn theo Nguyễn
Văn Luận, 2010).
Chăn nuôi gà truyền thống là hình thức chăn thả tự nhiên và hiện nay nó
vẫn còn tồn tại ở hầu hết các vùng nông thôn của các nước đang phát triển và các
nước chậm phát triển. Việt Nam là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số
sống ở nông thôn, việc chăn nuôi gà theo phương thức này vẫn là chủ yếu (dẫn
theo Nguyễn Văn Luận, 2010).
Đặc điểm của phương thức chăn nuôi này là: đầu tư vốn ít, thời gian nuôi kéo
dài. Do chăn thả tự do, tận dụng cùng với môi trường không đảm bảo vệ sinh nên
vật nuôi tăng trưởng kém, dễ bị mắc bệnh, hiệu quả chăn nuôi không cao. Gần một
thế kỷ qua do sự gia tăng về dân số, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, kỹ thuật
trên toàn thế giới và trong mọi lĩnh vực, ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn
nuôi gia cầm nói riêng cũng không ngừng phát triển. Từ chăn nuôi theo phương thức
quảng canh, chăn thả tự nhiên đã chuyển sang phương thức chăn nuôi theo hướng
hàng hoá qui mô lớn, nhằm đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của toàn xã hội. Những
đột phá về mặt công nghệ tạo con giống, thức ăn, thiết bị chuồng trại cũng như kỹ
thuật chăm sóc nuôi dưỡng đã tạo đà cho ngành chăn nuôi phát triển. Phương thức
sản xuất cũ đã không còn phù hợp nữa và dần dần được thay thế bằng phương thức
chăn nuôi mới cho năng suất, hiệu quả cao hơn (dẫn theo Nguyễn Văn Luận, 2010).
Huyện Quỳnh Phụ có hệ thống bãi cát gần chân đê không phù hợp cho trồng trọt
nhưng lại rất thích hợp cho nuôi gà bán chăn thả. Chăn nuôi gà trên sân cát ngoài việc
gà được vận động thịt chắc và dai hơn thì chi phí về dịch bệnh cũng ít hơn so với nuôi
gà thả vườn. Sân cát có khả năng thoát nước nhanh, bề mặt luôn khô ráo, khi trời mưa
hoặc khi gà thải phân ra thì cát sẽ thấm hút ngay không để đọng nước trên sân. Mùa
hè nhiệt độ cao, nắng nhiều cát sẽ khiến mầm bệnh bị tiêu dệt nhanh chóng ngay từ
khi mới phát sinh. Gà có sở thích tắm cát. Do đó việc nuôi gà thả trên sân cát sẽ tạo
điều kiện cho gà sinh trưởng, phát triển tốt nhất…Tận dụng những lợi thế ấy chăn
nuôi gà thả trên sân cát đã được phát triển từ năm 2003 đến nay (Phòng Nông nghiệp
& PTNT Quỳnh Phụ, 2017).

2.1.3.2. Đặc điểm sinh học
Gà (danh pháp khoa học: Gallus gallus) là một loài chim đã được con

20

20


người thuần hoá cách đây hàng ngàn năm. Một số ý kiến cho rằng loài này có
thuỷ tổ từ loài chim hoang dã ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ nhiệt đới ở vùng
Đông Nam Á. Trong thế giới loài chim chúng là loài áp đảo nhất, thống kê 2005
(Bách khoa toàn thư, 2008).
Bảng 2.1 Những đặc tính chung và riêng của gà
Đặc tính thích
- Bới
- Đùa và làm theo nhau
- Ăn cái mới, sỏi đá (30%)
- Ánh sáng, chạy nhẩy
- Yên tĩnh
- Tính bầy đàn cao
- Chọn đôi giao phối
- Khô, ấm, mát
- Mổ cắn linh tinh

Đặc tính không thích
- Sợ gió lùa
- Ẩm ướt
- Rét
- Mặm
- Độc ( thức ăn thiu, ẩm mốc)

- Sợ tối
- Ngột ngạt
- Ồn ào
- Nóng

Nguồn: Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Quỳnh Phụ, (2017)

Gà ri lai là giống gà được tạo ra từ con lai giữa gà trống Ri với gà mái
Lương Phượng (3 máu Ri – 1 máu Lương Phượng), có sức đề kháng cao, ít bị
bệnh tật, thời gian tăng trưởng ngắn, thịt thơm ngon, cho trọng lượng đạt từ 1,8 –
2 kg/con.
Đặc điểm của gà ri lai: Sức đề kháng tốt, dễ nuôi, có đặc điểm đầu và chân
nhỏ, lông vàng hoặc mơ đốm trắng, hình dáng giống gà ri, thịt vàng thơm, đã
phát huy được lợi thế của hai giống gà về chất lượng và trọng lượng.
2.1.3.3. Đặc điểm kỹ thuật
Gà là một loại vật nuôi dễ thích nghi với môi trường sống, dễ nuôi, có thể
nuôi dưới nhiều phương thức khác nhau. Môi trường thích hợp với nuôi gà nhất
là chuồng nuôi thoáng mát, sạch sẽ, nền chuồng không được ẩm ướt, luôn phải
giữ khô ráo, thoáng khí. Ngược lại, nếu môi trường nuôi không thích hợp, gà dễ
mắc bệnh và xảy ra đại dịch gây ra tổn thất rất lớn trên quy mô rộng khắp.
Với ưu thế cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao, phương thức chăn nuôi
theo hướng bán công nghiệp (thả sân cát) đã được người chăn nuôi sớm chấp
nhận. Đặc điểm của phương thức chăn nuôi này là việc áp dụng các thành tựu
của khoa học kỹ thuật vào quá trình chăn nuôi cùng với việc đầu tư đồng bộ về

21

21



trang thiết bị cho sản xuất và mang tính chuyên môn hoá cao trong sản xuất
nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong chăn nuôi, cụ thể:
- Về chuồng trại và bãi chăn thả: Chuồng trại được thiết kế, xây dựng theo
qui mô lớn, phải đảm bảo ấm áp, khô ráo trong mùa đông và thoáng mát về mùa
hè; diện tích chuồng nuôi không quá 8 con/m2; đáp ứng tốt cho việc sinh trưởng
và phát triển của vật nuôi. Các điều kiện sống cho vật nuôi như chế độ ánh sáng,
nhiệt độ, nước được cung cấp chủ động, khoa học và phù hợp với từng giai đoạn
sinh trưởng và phát triển. Chuồng nuôi với kích thước tương tự với gà thả vườn,
kích thước tiêu chuẩn cao khoảng 1,5m, dài 2,5m, rộng 2m… Tuy nhiên không
nên làm chuồng trên nền đất cát mà nên làm theo kiểu nhà sát để tránh nóng cho
gà, tương tự như nuôi gà thả vườn, chuồng nuôi cần có hệ thống xử lý chất thải
và đảm bảo vệ sinh môi trường xung quanh bằng cách khử trùng.
Người nuôi phải vệ sinh sau mỗi lứa nuôi, sát trùng chuồng nuôi và bãi
thả 2 đến 3 lần trước khi nuôi. Chất độn chuồng trước khi nuôi cũng được khử
trùng và đảm bảo không có mầm bệnh.
- Về kỹ thuật sân cát: Nên chọn bãi cát trống trải, tuy nhiên vẫn phải có cây
cối xung quanh làm bóng râm che mát cho đàn gà. Xung quanh bãi cát vẫn nên
được rào lại tránh các yếu tố tác động bên ngoài, nên sử dụng lưới thép B40 để
rào cho chắc chắn. Lưu ý, cát được sử dụng trong chăn nuôi gà cần là cát đen
thay vì cát vàng. Cát đen rẻ hơn và giữ ẩm tốt hơn cát vàng. Để đảm bảo chính
xác thì bà con nên đo diện tích khu vực bãi chăn nuôi và lượng các dày khoảng
50cm trở lên. Đặc biệt, bà con cần chú trọng cứ từ 2 – 3 ngày cần tiến hành thay
chất độn chuồng và sau một năm thì bà con thay cát một lần, do gà là loài động
vật ưa cát nên thường xới cát dẫn đến lông gà bị rụng, bà con cần dọn dẹp thường
xuyên, khi cát trong chuồng vơi đi thì bổ sung lượng cát mới.
- Về hình thức chăn nuôi: Trong phương thức chăn thả truyền thống, vật
nuôi được chăn thả tự do, mang nặng tính quảng canh tận dụng. Đối với chăn
nuôi thả đồi, để đạt được hiệu quả kinh tế cao và hạn chế mức tối đa những ảnh
hưởng bất lợi từ môi trường đến quá trình sản xuất nên đã sử dụng hình thức nhốt
hoàn toàn trong giai đoạn đầu với hệ thống chuồng trại hiện đại nhằm chủ động

về môi trường sống cho vật nuôi (trong giai đoạn này vật nuôi dễ bị mắc bệnh do
môi trường mang lại).
- Thức ăn trong chăn nuôi gà: Thức ăn có vai trò vô cùng quan trọng quyết
định đến sự thành bại của việc chăn nuôi. Trong chăn nuôi thức ăn chiếm khoảng

22

22


70% giá thành sản phẩm. Chăn nuôi truyền thống trước đây thức ăn chủ yếu là tận
dụng những phế phụ phẩm trong sinh hoạt hàng ngày, những sản phẩm này được
chế biến thô sơ với thành phần dinh dưỡng thấp và không cân đối. Do vậy, kết quả
đạt được không cao, tăng trọng của vật nuôi kém và phát sinh nhiều bệnh dịch.
Trong chăn nuôi gà đồi, nguồn thức ăn được lựa chọn rất kỹ, được xử lý và chế
biến một cách khoa học với hàm lượng dinh dưỡng cân đối và phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của vật nuôi cũng như với mục đích của quá trình chăn nuôi.
Thức ăn được lựa chọn trong chăn nuôi qui mô lớn theo phương thức bán công
nghiệp là các loại thức ăn sạch, không có mầm bệnh, chủ yếu dưới dạng thức ăn đã
được pha trộn hoàn chỉnh.
Về cách cho ăn, uống: Đối với giai đoạn gà con chưa thể thích nghi ngay với
môi trường cát nóng xung quanh, cần tiến hành nuôi chuồng hoặc thả rong để thích
nghi với môi trường. Cho đến giai đoạn gà dò thì tiến hành cho gà vào chuồng
nuôi cát để dần dần thích nghi. Đặc thù của mô hình nuôi cát khí hậu nắng nóng,
nên làm lán treo thức ăn và nước uống cho gà, luôn luôn kiểm tra và bổ sung nước
uống đầy đủ tránh tình trạng thiếu nước dẫn đến đàn gà bị stress là môi trường
thuận lợi cho các loại bệnh phát triển. Gà nuôi cát cần được đảm bảo chất điện giải
trong thức ăn để giảm thiệu khả năng bệnh tật, đây là mấu chốt cần lưu ý.
- Về con giống: Trong chăn nuôi con giống và thức ăn là yếu tố chính tạo nên
giá thành và quyết định đến tính hiệu quả của quá trình chăn nuôi. Về con giống

tương tự cách chọn giống trong mô hình nuôi gà thả vườn, giống gà phù hợp nhất là
gà ta, vì đây là loài ưa cát, cụ thể cách chọn như sau: Khối lượng cơ thể lớn (35 –
36g/con); Thể chất khỏe mạnh, hoạt bát, thân hình cân đối; Mắt gà mở to, láu lia.
Chân cao, siêng chạy nhảy, không có khuyết tật… Đuôi và cánh gà áp sát vào thân;
Đầu gà nên chọn con có đầu to cân đối, cổ dài và chắc; Mỏ to và chắc chắn, siêng
ăn và xới đất. (Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Quỳnh Phụ, 2012).
- Về vốn đầu tư: Trong chăn nuôi gà trên cát, tập trung qui mô lớn đòi hỏi
phải có một lượng đầu tư nhất định về vốn. Ngoài việc đầu tư xây dựng hệ thống
chuồng trại hoàn chỉnh, đầy đủ còn cần một nguồn vốn khá lớn để mua con giống
và thức ăn. Do vậy, mà phương thức chăn nuôi theo hình thức này cần có một sự
đầu tư tập trung lớn về vốn cho sản xuất.
- Về thú y phòng bệnh: Trong chăn nuôi truyền thống do trình độ của các
nhà chăn nuôi còn thấp, hơn nữa do việc chăn nuôi chỉ mang nặng tính chất tận
dụng những phế phụ phẩm trong sinh hoạt hàng ngày cho nên việc phòng trừ
dịch bệnh hầu như không được quan tâm chú ý. Người chăn nuôi chỉ quan tâm

23

23


tới vấn đề chữa bệnh cho vật nuôi khi dịch bệnh đã xảy ra, rất ít chú ý đến vấn đề
phòng dịch. Điều này đã làm cho dịch bệnh lan rộng gây thiệt hại cho người chăn
nuôi cũng như làm giảm hiệu quả của quá trình chăn nuôi và môi trường.
Bảng 2.2. Quy trình phòng bệnh cho gà ri lai
Stt

Ngày tuổi

1


1–3

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

4 ngày
7
10
11- 13
15
21
22,23
28
42
60

Loại thuốc
Ngừa bằng thuốc kháng sinh:
Ampicolifort hoặc Amoxypen
Newcastle lần 1
Gumboro lần 1

Đậu gà
Ngừa cầu trùng
Cúm gia cầm
Newcastle lần 2
Ngừa cầu trùng
Gumboro lần 2
Tẩy giun
Newcastle lần 3

Phương pháp
Cho uống
Nhỏ mắt, mũi
Cho uống
Tiêm xuyên qua da cánh
Cho uống
Tiêm dưới da cổ hoặc ức
Nhỏ mắt, mũi
Cho uống
Cho uống
Cho uống
Tiêm dưới da

Nguồn: Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Quỳnh Phụ, (2017)

Trong chăn nuôi gà trên cát, do quy mô sản xuất lớn, mật độ gia cầm rất cao
trên một đơn vị chuồng trại nên thường xuyên xảy ra dịch bệnh nguy hiểm. Chính
vì vậy cần phải có biện pháp để kiểm soát dịch bệnh một cách nghiêm ngặt. Điều
này đòi hỏi người chăn nuôi phải có một kiến thức cơ bản về thú y, phòng bệnh
nhất định, cũng như việc phải tuân thủ hoàn toàn những qui định về phòng dịch
bệnh cho trang trại của mình và luôn có các phương án chủ động đối phó ngay mỗi

khi dịch bệnh xảy ra. Nhằm đảm bảo tốt cho quá trình sản xuất và tránh được
những rủi ro, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi.
Nguyên tắc dùng thuốc thú y là dùng đủ liều lượng, đúng bệnh, đúng thời
điểm, đúng cách, bảo quản thuốc tốt. Dùng thuốc tiêm phòng đúng thời điểm và
đầy đủ, tất cả các loại thuốc dùng trước khi xuất bán ít nhất 7 đến 10 ngày.
2.1.3.4. Đặc điểm kinh tế- tổ chức
Chăn nuôi gà là một nghề truyền thống gắn liền với nông dân nước ta từ lâu
đời và đã trở thành ngành sản xuất không thể thiếu trong hệ thống nông nghiệp.
Trước đây chăn nuôi trong mỗi gia đình ở nước ta chủ yếu là chăn thả đơn thuần,
qui mô nhỏ lẻ, chỉ đảm bảo một phần nào đó cho nhu cầu của gia đình, hoàn toàn
chưa có ý thức trở thành nhu cầu trao đổi hàng hoá.

24

24


Chăn nuôi truyền thống là hình thức chăn thả tự nhiên và hiện nay nó vẫn
còn tồn tại ở hầu hết các vùng nông thôn của các nước đang phát triển và các nước
chậm phát triển. Việt Nam là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở
nông thôn, việc chăn nuôi theo phương thức này vẫn là chủ yếu.
Đặc điểm của phương thức chăn nuôi này là: đầu tư vốn ít, thời gian nuôi
kéo dài. Do chăn thả tự do, tận dụng cùng với môi trường không đảm bảo vệ sinh
nên vật nuôi tăng trưởng kém, dễ bị mắc bệnh, hiệu quả chăn nuôi không cao.
Gần một thế kỷ qua do sự gia tăng về dân số, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học,
kỹ thuật trên toàn thế giới và trong mọi lĩnh vực, ngành chăn nuôi nói chung và
ngành chăn nuôi gia cầm nói riêng cũng không ngừng phát triển. Từ chăn nuôi
theo phương thức quảng canh, chăn thả tự nhiên đã chuyển sang phương thức
chăn nuôi theo hướng hàng hoá qui mô lớn, nhằm đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi
của toàn xã hội. Những đột phá về mặt công nghệ tạo con giống, thức ăn, thiết bị

chuồng trại cũng như kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng đã tạo đà cho ngành chăn
nuôi phát triển. Phương thức sản xuất cũ đã không còn phù hợp nữa và dần dần
được thay thế bằng phương thức chăn nuôi mới cho năng suất, hiệu quả cao hơn.
2.1.4. Nội dung phát triển mô hình nuôi gà ri lai trên cát
2.1.4.1. Quy hoạch vùng nuôi gà ri lai trên cát
Muốn phát triển bền vững có tầm nhìn mang tính khoa học thì vấn đề quy
hoạch luôn được đặt lên hàng đầu nó là cơ sở để đánh giá về tiềm năng, nguồn
lực cũng như về nhu cầu của thị trường.
Công tác quy hoạch định hướng chăn nuôi là cần thiết khi mở rộng qui mô
chăn nuôi gà ri lai. Xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia cầm phù hợp với điều
kiện đất đai, lao động. Từng bước tách hẳn việc nuôi gà riêng biệt không sống
chung với người và các vật nuôi khác, không khuyến khích các hộ nuôi gà ở khu
đông dân cư, trường học.
Chuyển đổi những vùng đất bãi sản xuất nông nghiệp không hiệu quả sang
quy hoạch phát triển chuồng trại chăn nuôi sẽ tạo điều kiện nâng cao thu nhập,
cải thiện điều kiện sống của người dân, xây dựng và phát triển vùng chăn nuôi
tập trung để dễ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và phòng trừ dịch bệnh, liên
kết tiêu thụ sản phẩm (dẫn theo Nguyễn Văn Luận, 2010).

25

25


×