Tải bản đầy đủ (.pdf) (212 trang)

Múa rối nước ở Thái Bình từ khi đất nước thống nhất (1975) đến nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.94 KB, 212 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN ĐỊNH

MÚA RỐI NƯỚC Ở THÁI BÌNH
TỪ KHI ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (1975) ĐẾN NAY

Chuyên ngành: VĂN HÓA DÂN GIAN
Mã số: 9 22 90 41

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS,TS NGUYỄN XUÂN NGHỊ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này
đảm bảo các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu.
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Văn Định

ii



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT VẬN
DỤNG, ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .................................................................................. 9
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................................... 9
1.2. Lý thuyết vận dụng......................................................................................................16
1.3. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ..............................................................................24
Tiểu kết chƣơng 1 ...............................................................................................................39
Chương 2: MÚA RỐI NƯỚC THÁI BÌNH TRƯỚC KHI ĐẤT NƯỚC THỐNG
NHẤT TRONG BỐI CẢNH MÖA RỐI NƯỚC CHÂU THỔ BẮC BỘ................41
2.1. Châu thổ Bắc Bộ và múa rối nƣớc .............................................................................41
2.2. Múa rối nƣớc Thái Bình trƣớc khi đất nƣớc thống nhất (1975)...............................57
Tiểu kết chƣơng 2 ...............................................................................................................76
Chương 3: SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA MÖA RỐI NƯỚC THÁI BÌNH TỪ SAU
KHI ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (1975) ĐẾN NAY ...............................................78
3.1. Múa rối nƣớc Thái Bình sau khi đất nƣớc thống nhất ..............................................78
3.2. So sánh hai giai đoạn múa rối nƣớc Thái Bình từ trƣớc và sau năm 1975 ............107
Tiểu kết chƣơng 3 .............................................................................................................119
Chương 4: LÝ GIẢI VÀ BÀN LUẬN TỪ THỰC TẾ MÖA RỐI NƯỚC THÁI
BÌNH NÓI RIÊNG, MÖA RỐI NƯỚC CHÂU THỔ BẮC BỘ NÓI CHUNG ...120
4.1. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi, phát triển của múa rối nƣớc Thái Bình từ sau
khi đất nƣớc thống nhất (1975) đến nay .........................................................................120
4.2. Sự tồn tại đa dạng của múa rối nƣớc và tƣơng lai của múa rối nƣớc Thái Bình...131
4.3. Từ thực tế múa rối nƣớc Thái Bình nói riêng, múa rối nƣớc châu thổ Bắc Bộ nói
chung, bàn luận về các lý thuyết vận dụng .....................................................................140
Tiểu kết chƣơng 4 .............................................................................................................144
Kết luận ............................................................................................................................146
Danh mục công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận án...............................148
Tài liệu tham khảo..........................................................................................................149


iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GS

Giáo sƣ

NSND

Nghệ sĩ nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sƣ

PV

Phỏng vấn

THCS

Trung học Cơ sở

TS


Tiến sĩ

TSKH

Tiến sĩ khoa học

tp

Thành phố

tr.

trang

UBND

Ủy ban Nhân dân

xb

xuất bản

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Múa rối nƣớc dân gian là một đặc sản của ngƣời Việt. Trƣớc Cách
mạng tháng Tám năm 1945, ngƣời ta thấy nó tồn tại dƣới dạng phƣờng hội tại

các tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Không phải tỉnh nào cũng có múa rối nƣớc,
nghệ thuật này có mặt đáng kể ở tỉnh Hà Đông cũ, Sơn Tây cũ, ngoại thành
Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dƣơng, Hải Phòng, đặc biệt tập trung ở hai tỉnh Thái
Bình và Nam Định. Từ lâu, những phƣờng rối nƣớc ở Thái Bình mà cụ thể là
rối nƣớc làng Nguyễn (Nguyên Xá), rối nƣớc làng Đống (Đông Các) đã đƣợc
khán giả trong, ngoài nƣớc biết đến, đã đƣợc giới nghiên cứu quan tâm. Cũng
nhƣ nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống khác, có lúc múa rối nƣớc không
có đất để phát triển, có lúc đƣợc phục hồi và sau khi đƣợc phục hồi nó luôn
luôn phải thích ứng với những sự thay đổi của hoàn cảnh, của thời đại.
Trong thế kỷ XX, năm 1945 và năm 1975 đánh dấu hai sự kiện cực kỳ
quan trọng của đất nƣớc và dân tộc. Tháng 8/1945, dƣới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đứng lên làm cách mạng, giành lại chính quyền và thành
lập chế độ mới. Ngày 30/4/1975 là ngày đất nƣớc thống nhất. Tuy rằng, các
biến cố chính trị không phải lúc nào cũng trùng khớp với những đổi thay về
văn hóa nhƣng giới nghiên cứu vẫn thƣờng lấy các mốc 1945 và 1975 trong
khi phân chia những giai đoạn khác nhau của một đối tƣợng khảo sát. Ngoài
ra, các mốc năm 1945 và năm 1975 không chỉ phản ánh biến cố chính trị mà
còn đánh dấu những thời đoạn văn hóa. Thí dụ, về mốc năm 1975, sử gia Trần
Quốc Vƣợng và các cộng sự nhận xét: “Từ sau năm 1975, hai miền thống
nhất, việc giao lƣu càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Cuối cùng, không thể không
thừa nhận sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học thông tin hiện đại,
khiến việc giao lƣu văn hóa ở thời hiện đại sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn” [140,
tr.148].
1


Về múa rối nƣớc Thái Bình, hầu hết các tài liệu nghiên cứu mà tiêu
biểu là công trình của tác giả Nguyễn Huy Hồng chủ yếu mới khảo sát từ
1975 trở về trƣớc. Ngoài ra, từ sau năm 1975 đặc biệt là từ sau năm 1986, văn
hóa nghệ thuật nƣớc nhà có nhiều biến chuyển lớn, thời cơ, thuận lợi không ít

và thách thức cũng không nhỏ. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và quốc tế hóa hiện nay, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống nhƣ tuồng,
chèo, múa rối nƣớc đều đứng trƣớc khó khăn bởi lƣợng khán giả ngày càng
có xu hƣớng giảm. Để tồn tại, những ngƣời có trách nhiệm và các nghệ nhân
phải làm gì?
Chính vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là Múa
rối nước ở Thái Bình từ khi đất nước thống nhất (1975) đến nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và lý giải sự chuyển biến, vận động của múa rối nƣớc Thái
Bình dƣới sự tác động của bối cảnh kinh tế, chính trị và văn hóa từ sau khi đất
nƣớc thống nhất đến nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện múa rối nƣớc ở Thái Bình từ 1975 trở về trƣớc.
- Trình bày múa rối nƣớc ở Thái Bình qua hai phƣờng rối làng Nguyễn
và làng Đống từ sau ngày đất nƣớc thống nhất đến nay.
- So sánh múa rối nƣớc Thái Bình giữa hai giai đoạn trƣớc và sau ngày
đất nƣớc thống nhất.
- Giải thích nguyên nhân của sự biến chuyển vƣợt bậc của múa rối
nƣớc Thái Bình từ sau ngày đất nƣớc thống nhất đến nay.
- Bàn luận về sự tồn tại đa dạng của múa rối nƣớc, suy nghĩ về hƣớng
đi của múa rối nƣớc Thái Bình.
- Nhận thức thêm đối với các lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hóa
dân gian và văn hóa bác học, về biến đổi văn hóa.
2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là múa rối nƣớc tỉnh Thái

Bình từ khi thống nhất đất nƣớc đến nay. Tuy nhiên, rối nƣớc Thái Bình
không tồn tại một cách chung chung mà hiện diện với tƣ cách là những
phƣờng rối, gắn bó với làng quê. Trƣớc kia Thái Bình có đến bảy phƣờng rối,
song trong vòng bảy chục năm nay chỉ có hai phƣờng còn hoạt động. Bởi vậy,
về thực chất chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ hai phƣờng rối làng Nguyễn và làng
Đống từ sau năm 1975. Để có điều kiện hiểu sâu hơn đối tƣợng, chúng tôi còn
dành sự quan tâm nhất định đối với rối nƣớc Thái Bình trƣớc năm 1975.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Không gian nghiên cứu
Không gian nghiên cứu là những làng có phƣờng rối ở tỉnh Thái Bình,
cụ thể ở đây là làng Nguyễn và làng Đống. Cả hai làng này nay đều thuộc
huyện Đông Hƣng, tỉnh Thái Bình. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ đề
cập đến một số làng khác nhằm làm rõ hơn các nhận xét về hai làng nói trên.
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
Chúng tôi chủ yếu nghiên cứu múa rối nƣớc Thái Bình từ sau khi đất
nƣớc thống nhất (30/4/1975) đến nay. Để so sánh, đối chiếu, chúng tôi cũng
quan tâm đến múa rối nƣớc Thái Bình trƣớc năm 1975.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Tên đề tài luận án có cụm từ “rối nƣớc tỉnh Thái Bình”. Nhƣng rối
nƣớc tỉnh Thái Bình không tồn tại một cách chung chung mà tồn tại với tƣ
cách là những phƣờng hội của một làng quê cụ thể. Nhƣ vậy, ở đây có mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Theo ý nghĩa triết học, “phạm trù cái
chung đƣợc dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không chỉ có ở
một số kết cấu vật chất nhất định, mà còn đƣợc lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tƣợng hay quá trình riêng lẻ khác. Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật,
3


một hiện tƣợng, một quá trình riêng lẻ nhất định” [53, tr.341]. Ở đây, chúng

tôi xem rối nƣớc Thái Bình là cái chung và rối nƣớc làng Nguyễn, rối nƣớc
làng Đống là cái riêng. Rối nƣớc Thái Bình chỉ tồn tại trong rối nƣớc các làng
quê, đƣợc thể hiện ra thông qua các phƣờng rối. Rối nƣớc làng Nguyễn hay
rối nƣớc làng Đống chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, có nghĩa là
từng phƣờng tồn tại độc lập nhƣng không phải là hoàn toàn tách biệt, cô lập
với những phƣờng rối khác.
Ngoài ra, khi nghiên cứu các phƣờng rối, chúng tôi luôn luôn xem
chúng là một hệ thống, đặt chúng trong bối cảnh của làng và bối cảnh rộng
hơn là châu thổ Bắc Bộ; nhìn chúng trong sự vận động để lý giải sự biến đổi,
sự xuất hiện yếu tố mới, sự vắng bóng yếu tố cũ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu sau.
Trƣớc hết là phƣơng pháp tập hợp tài liệu thứ cấp. Tài liệu viết về múa
rối nƣớc nói chung, múa rối nƣớc Thái Bình nói riêng không nhiều. Đó là
những chuyên luận, luận án tiến sĩ, luận văn cao học và những bài đăng tải
trên các tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Văn hóa dân gian. Chúng tôi đặc biệt
quan tâm đến những tài liệu đánh máy, chƣa xuất bản mà tác giả không phải
là những ngƣời viết chuyên nghiệp hoặc có trình độ cao. Trong số đó, có tập
đánh máy của nghệ nhân Hoàng Duy Luyến viết về rối nƣớc làng Nguyễn từ
năm 2006 trở về trƣớc [81].
Thứ hai, chúng tôi thực hiện các cuộc điền dã, khảo sát, phỏng vấn tại
địa phƣơng. Từ năm 2006 đến nay, chúng tôi đã về khảo sát tại làng Đống,
làng Nguyễn, làng Tuộc, làng Kỳ Hội tất cả 8 đợt. Để có một cái nhìn bao
quát, thời gian đầu chúng tôi thƣờng phỏng vấn nhanh trong một thời gian
ngắn nhiều ngƣời dân địa phƣơng và học sinh tại hai làng Nguyễn và Đống.
Tại hai làng này không có trƣờng phổ thông trung học, nên chúng tôi thực
hiện các cuộc phỏng vấn nhanh tại Trƣờng THCS Nguyên Xá và Trƣờng
4



THCS Đông Các. Ngoài ra, trong những đợt điền dã, chúng tôi đã phỏng vấn
sâu 20 ngƣời gồm nghệ nhân, trƣởng phƣờng, nhà nghiên cứu, đại diện chính
quyền, ngƣời dân địa phƣơng và học sinh của Trƣờng THCS ở Đông Các và
Nguyên Xá. Không chỉ khảo sát và phỏng vấn tại Thái Bình, chúng tôi còn
đến Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (đƣờng Nguyễn Văn Huyên, quận Cầu
Giấy, Hà Nội) phỏng vấn lãnh đạo và cán bộ cơ quan này, xem các nghệ nhân
Nguyên Xá và nghệ nhân một số phƣờng khác biểu diễn, phỏng vấn các nghệ
nhân và một số ngƣời xem. Chúng tôi cũng làm việc với Công ty Long Link
Việt Nam (đƣờng Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy), đến tận nơi ăn nghỉ
của các nghệ nhân làng Nguyễn trong thời gian họ nghỉ ngơi. Có những vấn
đề về tài chính mà nhiều cơ quan, công ty, phƣờng rối không muốn nói. Có
những câu chuyện, họ yêu cầu chúng tôi không công bố. Có những ngƣời
đồng ý cho công bố thông tinh song không nêu danh tính của họ. Với những
trƣờng hợp này, chúng tôi tôn trọng đề nghị của họ.
Thứ ba, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng hợp
trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Trong cuốn sách của nhiều tác giả Văn
hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu, GS Đinh Gia Khánh đã viết về
phƣơng pháp tổng hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Theo tác giả, tác
phẩm folklore tồn tại và vận động trong một chỉnh thể nguyên hợp. Bởi vậy
phƣơng hƣớng tiếp cận thẩm mĩ cần đƣợc kết hợp với phƣơng hƣớng tiếp cận
chỉnh thể. Với tính cách là chỉnh thể nguyên hợp, tác phẩm folklore thƣờng
bao gồm nhiều thành tố gắn bó một cách tự nhiên và hữu cơ với nhau.
Trong một tác phẩm folklore có thể tùy theo hoàn cảnh mà thành tố
này hoặc thành tố khác nổi bật lên. Hơn nữa, lại có những trƣờng
hợp mà các thành tố nào đó của chỉnh thể nguyên hợp ấy tách riêng
ra và tồn tại nhƣ một tác phẩm độc lập. (…). Nhƣng các tác phẩm
này, nếu có lúc có thể tồn tại và vận động một cách tƣơng đối độc
lập, thì lại thƣờng hay đƣợc thu hút trở lại vào chỉnh thể nguyên
hợp. Xét đến cùng, chúng chỉ có thể phát huy một cách thực là sâu

5


sắc và trọn vẹn giá trị thẩm mỹ với tính cách là thành tố của chỉnh
thể nguyên hợp [91, tr.11].
Cũng theo tác giả, để nghiên cứu một tác phẩm folklore thì phải phân
tích chỉnh thể nguyên hợp ấy ra các thành tố và trong nhiều trƣờng hợp cần
phải phân tích từng thành tố ra các yếu tố nhỏ hơn để có thể đi sâu, tìm hiểu
nội dung, cấu trúc của từng thành tố nói riêng, của chỉnh thể nguyên hợp nói
chung. Trong nghiên cứu văn hóa dân gian, khởi đầu bằng việc phân tích là
một điều tất yếu. Nhƣng quá trình phân tích ấy lại phải đƣợc bổ sung và nâng
cao bằng quá trình tổng hợp, bởi vì dẫu có tiến hành bằng những thao tác
khoa học nào đi chăng nữa thì cuối cùng cũng phải đạt đƣợc mục tiêu là nhận
thức đƣợc sâu sắc và toàn diện tác phẩm, hiện tƣợng văn hóa dân gian với
tính cách là một chỉnh thể nguyên hợp. Tiếp thu tƣ tƣởng của GS Đinh Gia
Khánh, chúng tôi hiểu mỗi một phƣờng rối là một tổng thể gồm nhiều thành
tố. Để hiểu nó, chúng tôi phân tích những thành tố cụ thể để nghiên cứu, sau
đó sẽ tổng hợp lại. Các thành tố đó là buồng trò và sân khấu, quân rối và dụng
cụ điều khiển, trò lẻ và trò có tích, văn học và âm nhạc, nghệ nhân và phƣờng
hội, ngƣời xem.
Thứ tƣ, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp so sánh. Chúng tôi so sánh rối
nƣớc Thái Bình trƣớc và sau năm 1975, so sánh rối nƣớc làng Nguyễn và rối
nƣớc làng Đống. Chúng tôi còn so sánh múa rối nƣớc Thái Bình với các
phƣờng rối nƣớc khác. Có khi chúng tôi so sánh tổng thể, có khi chúng tôi chỉ
so sánh một số khía cạnh, thành tố của các phƣờng rối.
Các phƣơng pháp nêu trên có tác dụng hỗ trợ nhau và chúng tôi thƣờng
sử dụng xen kẽ. Thí dụ, có sự khác nhau và giống nhau trong thông tin về sự
phục hồi của phƣờng rối làng Tuộc, huyện Đông Hƣng, tỉnh Thái Bình. Trong
các năm 1977, 1987, 2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng đều cho rằng,
phƣờng Tuộc, xã Phú Lƣơng, huyện Đông Hƣng tổ chức diễn rối lần cuối cùng

vào năm 1944. Từ đó trở về sau, phƣờng ngừng hoạt động [61, tr.457]. Trong
kết quả điều tra công bố năm 2002 của TS, NSND Phạm Thị Thành, vùng châu
6


thổ Bắc Bộ có 14 phƣờng rối, không có phƣờng Tuộc [108, tr.161]. Năm 2012,
trong luận án tiến sĩ, tác giả Vũ Tú Quỳnh cho rằng đến thời điểm công bố luận
án, hiện có 15 phƣờng rối nƣớc ở châu thổ Bắc Bộ đã đƣợc phục hồi. Trong
danh sách, phƣờng Tuộc ở số thứ tự 15. Tác giả viết: “Sự hồi sinh của 15
phƣờng rối nƣớc trong giai đoạn từ Đổi mới đến nay là một sự chuyển mình rất
lớn. Tất cả những phƣờng rối này đều đã có tên tuổi từ xƣa, không có phƣờng
rối nào đƣợc thành lập mới hoàn toàn” [108, tr.83-84]. Năm 2014, trong luận
án tiến sĩ, tác giả Lê Thị Thu Hiền đƣa ra danh sách 15 phƣờng đang duy trì
hoạt động [49, tr.97]. Danh sách 15 phƣờng mà tác giả nêu ra trùng khớp (cả về
thứ tự so) với danh sách của Vũ Tú Quỳnh. Nhƣ thế là cả Nguyễn Huy Hồng
và Phạm Thị Thành đều cho rằng phƣờng Tuộc không còn hoạt động. Còn Vũ
Tú Quỳnh và Lê Thị Thu Hiền nhận xét rằng phƣờng này đã đƣợc phục hồi.
Những thông tin trái chiều này đã đƣợc chúng tôi kiểm chứng bằng cuộc đi
khảo sát ở chính làng Tuộc, xã Phú Lƣơng ngày 2/10/2016. Tài liệu điền dã và
kết quả phỏng vấn sâu đã xác nhận sự đúng đắn mà nhà nghiên cứu Nguyễn
Huy Hồng đã thông tin. Nhƣ thế là các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, điều tra, phỏng vấn đã đƣợc kết hợp sử dụng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Trình bày một cách có hệ thống về múa rối nƣớc Thái Bình từ sau
ngày đất nƣớc thống nhất đến nay; sau khi so sánh nó với múa rối nƣớc Thái
Bình trƣớc năm 1975, khẳng định sự chuyển biến vƣợt bậc của nó.
- Lý giải sự chuyển biến vƣợt bậc của múa rối nƣớc Thái Bình từ sau
khi đất nƣớc thống nhất đến nay.
- Từ sự đa dạng của múa rối nƣớc hiện nay, góp bàn về hƣớng đi của
múa rối nƣớc Thái Bình.

- Khẳng định sự đúng đắn của các lý thuyết vận dụng, bàn thêm về một
số khía cạnh cụ thể trong các lý thuyết đó.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Góp phần vào việc làm rõ thêm mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và
văn hóa bác học.
- Bàn cụ thể về lý thuyết biến đổi văn hóa ở cấp độ vi mô, nếu xem sự
biến đổi văn hóa tộc ngƣời là cấp vĩ mô.
- Làm rõ vai trò qua lại giữa các thành tố trong một hệ thống với toàn
bộ hệ thống, sự tƣơng tác giữa các yếu tố trong một hệ thống và tác động của
những yếu tố ngoài hệ thống đối với hệ thống.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn văn
hóa truyền thống, nhìn nhận, đánh giá đúng những chuyển động văn hóa đang
diễn ra.
- Bản luận án sẽ góp phần vào nhận thức của nhân dân ta nói chung,
của các thế hệ trẻ nói riêng trên con đƣờng tìm hiểu nghệ thuật truyền thống
dân tộc.
7. Cơ cấu của luận án
Trong phần chính văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận án đƣợc trình bày theo bốn chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, lý thuyết vận dụng, địa bàn
nghiên cứu;
Chƣơng 2: Múa rối nƣớc Thái Bình trƣớc khi đất nƣớc thống nhất trong
bối cảnh múa rối nƣớc châu thổ Bắc Bộ;

Chƣơng 3: Sự chuyển biến của múa rối nƣớc Thái Bình từ sau khi đất
nƣớc thống nhất (1975) đến nay;
Chƣơng 4: Lý giải và bàn luận từ thực tế múa rối nƣớc Thái Bình nói
riêng, múa rối nƣớc châu thổ Bắc Bộ nói chung.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
LÝ THUYẾT VẬN DỤNG, ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Năm 1974, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng cho rằng: “Múa rối là
một nghệ thuật dùng con rối làm trò, đóng kịch trên sân khấu, còn ngƣời điều
khiển đƣợc che giấu kín” [55, tr.14]. Quan niệm này không sai song chƣa đầy
đủ. Năm 1976, nhà nghiên cứu Tô Sanh viết:
Múa rối là một loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền
cảm một cách cao độ, là sự phối hợp tài tình giữa kỹ thuật và nghệ
thuật tạo hình, với kỹ thuật và nghệ thuật điều khiển, lấy con rối
làm phƣơng tiện chủ yếu để hoàn thành nhiệm vụ thể hiện mọi mặt
phong phú của trí tƣởng tƣợng loài ngƣời, của hiện thực khách
quan. Nó có khả năng tập trung hòa hợp nhiều hình thức nghệ thuật,
không gian và thời gian kể cả các loại hình sân khấu khác. Nó phục
vụ mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thiếu nhi. Múa rối có rất nhiều
loại. Nhân vật rối là trung tâm. Ngƣời diễn viên điều khiển thƣờng
đƣợc che giấu kín, sân khấu của nó và bản thân nó cần phù hợp với
kích thƣớc, với tính chất của ngƣời và rối chứ không phải cơ bản do
hóa trang ngƣời thật hoặc máy móc quyết định [110, tr.17].
Định nghĩa của Tô Sanh cho thấy, múa rối còn bao hàm cả kỹ thuật

điều khiển và nghệ thuật tạo tác quân rối. Một quan niệm nhƣ vậy là hoàn chỉnh.
Trên thế giới có nhiều loại nghệ thuật múa rối nhƣ múa rối tay, múa rối
que, múa rối dây, múa rối bông, múa rối sân khấu đen, múa rối máy,… Ở
nƣớc ta, nhân dân và các nhà nghiên cứu lấy sân khấu làm tiêu chí phân thành
hai loại: múa rối nƣớc là loại dùng sân khấu mặt nƣớc; múa rối cạn là loại sân

9


khấu dựng trên mặt đất. So với thế giới, múa rối nƣớc là nghệ thuật độc đáo
của nƣớc ta, các nƣớc khác hầu nhƣ không có. Bởi vậy, trong phần tổng quan,
chúng tôi chủ yếu trình bày về việc nghiên cứu múa rối nƣớc ở nƣớc ta nói
chung và ở Thái Bình nói riêng.
1.1.1. Về việc nghiên cứu múa rối nước ở nước ta nói chung
Năm 1974, Nxb Văn hóa công bố cuốn sách Nghệ thuật múa rối Việt
Nam của Nguyễn Huy Hồng. Trong sách này, tác giả viết về múa rối nói
chung (bao gồm cả rối cạn và rối nƣớc). Tác giả phân tích đặc trƣng về nghệ
thuật múa rối, trình bày sơ bộ về lịch sử múa rối Việt Nam. Ở phần phụ lục,
tác giả giới thiệu tám phƣờng rối cạn và ba phƣờng rối nƣớc trong cả nƣớc [55].
Nếu cuốn sách của Nguyễn Huy Hồng viết về nghệ thuật múa rối nói
chung thì năm 1976, trong cuốn sách Nghệ thuật múa rối nước, tác giả Tô
Sanh chuyên bàn về loại hình múa rối độc đáo của nƣớc ta. Ông viết về cách
biểu diễn, quan hệ giữa múa rối và đời sống con ngƣời, bàn về nguồn gốc lịch
sử và quá trình phát triển của nghệ thuật múa rối nƣớc. Tác giả chứng minh
múa rối nƣớc không phải là một loại hình nghệ thuật đƣợc du nhập từ bên
ngoài. Ông cũng đã bàn đến một vấn đề rất hóc búa là ở miền Nam có múa rối
nƣớc hay không? Nếu trong cuốn sách Nghệ thuật múa rối Việt Nam, tác giả
Nguyễn Huy Hồng chỉ giới thiệu ba phƣờng múa rối nƣớc ở hai tỉnh thì trong
sách này, nhà nghiên cứu Tô Sanh giới thiệu bảy phƣờng múa rối nƣớc ở bảy
tỉnh, thành trong cả nƣớc [110].

Năm 1992 Hoàng Kim Dung phân tích mối quan hệ giữa “nghệ thuật
múa rối và vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em” [25]
Năm 1996, tác giả Nguyễn Huy Hồng công bố cuốn sách Rối nước Việt
Nam tại Nxb Sân khấu. Ông tiếp tục khẳng định rối nƣớc là nghệ thuật độc
đáo của Việt Nam gắn liền với cƣ dân trồng lúa nƣớc, với làng Việt. Ông
cũng đã bàn đến các yếu tố: nhà hát (buồng trò, sân khấu), quân rối, nhân vật,
trò và tích trò, văn học, âm nhạc, diễn xuất, nghệ nhân. Trong phần phụ lục,
10


ông giới thiệu một số trò rối nƣớc, một số bài giáo rối nƣớc và thống kê các
phƣờng hội rối nƣớc dân gian [57].
Năm 1997, Hoàng Kim Dung giới thiệu chung về múa rối nƣớc ta trong
cuốn sách Múa rối nước Việt Nam những điều nên biết [26].
Năm 2005, Nguyễn Huy Hồng công bố cuốn sách Lịch sử nghệ thuật
múa rối Việt Nam, tại Nxb Sân khấu. Bên cạnh ƣu điểm là tƣ liệu thực địa dồi
dào, trong việc trình bày về lịch sử nghệ thuật múa rối, tác giả đã ít thành
công, nhất là phần viết về nghệ thuật múa rối từ năm 1945 đến năm 1975 [59].
Năm 2006, tác giả Nguyễn Thành Nhân cho ra mắt cuốn sách Nghệ
thuật rối và một số đặc trưng của sân khấu rối Việt Nam. So với các tác giả đi
trƣớc, điểm mới của cuốn sách là đã bàn về những hạn chế của nghệ thuật sân
khấu rối nƣớc ta, nêu ra một số giải pháp nhằm tiếp tục gìn giữ và phát triển
nghệ thuật sân khấu rối. Tác giả cũng đề xuất việc thành lập đoàn rối nƣớc
thực nghiệm [90].
Cũng trong năm 2006, cuốn sách Nghệ thuật rối nước Việt Nam của Lý
Khắc Cung đƣợc Nxb Văn hóa - Thông tin công bố. Sau khi viết về múa rối
nƣớc phản ánh tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời Thăng Long - Hà Nội, phân tích
tính ngẫu hứng, độc đáo của múa rối nƣớc, tác giả mô tả các tích, trò múa rối
đang lƣu truyền ở các phƣờng rối dân gian [21].
Năm 2007, Nxb Sân khấu công bố cuốn sách Nghệ thuật múa rối của

Nguyễn Huy Hồng [61]. Nội dung cuốn sách không có gì mới, bởi cuốn sách
này là sự tập hợp và in lại 3 cuốn sách mà tác giả đã công bố trong các năm
1974, 1987, 1996 [55], [56], [57]. Đây là cụm công trình đƣợc nhận giải
thƣởng Nhà nƣớc về văn học nghệ thuật năm 2006. Khi tái bản, tác giả không
sửa chữa.
Năm 2012, trong cuốn sách Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, tác giả
Hoàng Chƣơng khẳng định múa rối nƣớc có nguồn gốc bản địa, không phải từ
Trung Quốc truyền sang, phân tích giá trị mỹ thuật, đề xuất một số giải pháp
11


nhằm giữ gìn, bảo tồn phát triển nghệ thuật này [20].
Năm 2012, nghiên cứu sinh Vũ Tú Quỳnh bảo vệ thành công luận án
tiến sĩ Văn hóa học, với đề tài Sự phục hồi của rối nước đồng bằng Bắc Bộ từ
Đổi mới đến nay [108]. Năm 2014, bản luận án đƣợc in thành sách [109].
Theo tác giả, khoảng chục năm trƣớc Đổi mới, rối nƣớc đồng bằng Bắc Bộ
lâm vào cảnh suy tàn vì đời sống kinh tế đói nghèo, vì sự suy giảm của văn
hóa truyền thống. Từ cuối năm 1986 đến nay, múa rối nƣớc đƣợc phục hồi.
Sở dĩ nhƣ vậy là vì kinh tế phát triển, trong đó kinh tế tƣ nhân ngày càng đƣợc
khẳng định, vì tác động từ những chính sách, hoạt động phát triển văn hóa của
nhà nƣớc và các tổ chức tài trợ. Tác giả cũng bàn đến những vấn đề đặt ra đối
với rối nƣớc từ Đổi mới đến nay. Đó là mối quan hệ giữa truyền thống và đổi
mới, giữa rối nƣớc và vấn đề kinh doanh nghệ thuật, vấn đề khán giả, vấn đề
tính đa dạng của nghệ thuật.
Năm 2014, tại Hà Nội, tác giả Lê Thị Thu Hiền bảo vệ thành công luận
án tiến sĩ Văn hóa học, với đề tài Cơ sở hình thành và giá trị văn hóa của múa
rối nước Việt Nam [49]. Bản luận án đã hệ thống hóa ý kiến của các tác giả đi
trƣớc về lịch sử múa rối nƣớc Việt Nam và phân tích cơ sở tự nhiên, cơ sở xã
hội hình thành múa rối nƣớc Việt Nam. Điểm mới của bản luận án là đã trình
bày một cách có hệ thống về các giá trị nhận thức, giáo dục, giải trí và thẩm

mỹ của múa rối nƣớc Việt Nam. Tác giả cũng nêu ra những giải pháp nhằm
bảo tồn và phát huy múa rối nƣớc Việt Nam.
Ngoài ra, còn có những cuốn sách dành một phần nội dung nói về múa
rối nƣớc nhƣ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do Lê Chí Quế chủ biên
[106], tập sách tập hợp các bài viết mang tên Những sắc màu tình yêu của
Hoàng Kim Dung [27].
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về múa rối nƣớc Việt Nam nói
chung, còn có cuốn sách Nghệ thuật múa rối cổ truyền đất Thăng Long của
tác giả Văn Học xuất bản năm 2009 [52].
12


Nếu năm bài viết công bố từ năm 1962 đến năm 1969 của Trần Văn
Nghĩa trên tập san Văn hóa , báo Văn nghệ có tác dụng quảng bá nhận thức về
lịch sử, giá trị của múa rối nƣớc Việt Nam [41, tr.343] thì các bài nghiên cứu
của Trần Quốc Vƣợng, Phạm Đức Dƣơng, Trần Lâm, Vƣơng Duy Biên lại
phân tích sâu một vấn đề cụ thể của múa rối nƣớc. Trần Quốc Vƣợng chỉ ra
rằng múa rối nƣớc nói chung mang bản sắc độc đáo của ngƣời Việt ở châu thổ
Bắc Bộ, hệ thống sông - hồ - ao - đầm - ruộng nƣớc chính là hệ sinh thái nhân
văn của nghệ thuật này nằm trong tổng thể hệ sinh thái nông nghiệp Việt Nam
[147]. Phạm Đức Dƣơng nhấn mạnh yếu tố tâm linh trong rối nƣớc [30]. Trần
Lâm, Vƣơng Duy Biên chú ý đến giá trị mỹ thuật của nghệ thuật này [78], [13].
Không ít học viên cao học chọn múa rối nƣớc làm đề tài luận văn thạc
sĩ: Nguyễn Hoàng Minh Vân (2011) với Hoạt động của các phường hội rối
nước ở châu thổ sông Hồng thực trạng và giải pháp [139], Trần Thị Minh
(2012) với Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch [83], Lê Quỳnh Trang
(2013) với Phát huy vai trò của nghệ thuật múa trong múa rối nước Việt
Nam [130].
Để quảng bá múa rối nƣớc với bạn đọc nƣớc ngoài, năm 1986 Nhà xuất

bản Ngoại văn (hiện nay là Nhà xuất bản Thế giới) công bố hai cuốn sách
tiếng Anh (56 trang), tiếng Pháp (58 trang) về nghệ thuật này do Nguyễn Huy
Hồng chấp bút [73, tr.171]; năm 2006, Nhà xuất bản Ngoại văn công bố cuốn
sách mỏng dƣới dạng hỏi đáp bằng hai thứ tiếng Việt-Anh do Hữu Ngọc và
Lady Borton chủ biên [153].
Trong các công trình viết về múa rối và múa rối nƣớc Việt Nam, cuốn
sách Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam [55] của Nguyễn Huy Hồng và cuốn
sách Nghệ thuật múa rối nước [110] của Tô Sanh có giá trị hơn cả. Chúng
chẳng những đƣợc công bố sớm mà còn trình bày vấn đề một cách có hệ
thống, với tƣ liệu cụ thể, xác đáng, với dung lƣợng đáng kể. Nhiều tác giả đi
13


sau đã tham khảo, trích dẫn chúng. Thí dụ, trong cuốn sách của Tô Sanh có
chi tiết cụ lang Cơ (phƣờng rối Chàng Sơn) mù cả hai mắt vẫn gọt đẽo quân
rối nhanh và đẹp [110, tr.153]. Chi tiết này, 38 năm sau đƣợc sử dụng trong
cuốn sách của Hoàng Kim Dung [27, tr.72].
Từ năm 1995 trở lại đây có nhiều bài của tác giả nƣớc ngoài nhƣ
Contreras Gloria, Robert Horwitt, Valerie Hill, Thesdore Bale, Kathy
Foliy,...viết về múa rối nƣớc Việt Nam [46, tr.21-22]. Đây chƣa phải là những
nghiên cứu chuyên sâu. Đáng kể nhất là bản luận án tiến sĩ về múa rối nƣớc
Việt Nam, công bố năm 1996 của Margot A.Jones [155].
1.1.2. Về việc nghiên cứu về múa rối nước Thái Bình
Năm 1974, trong cuốn sách Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, tác giả
Nguyễn Huy Hồng dành 37 trang giới thiệu múa rối nƣớc làng Nguyễn và
múa rối thùng làng Đống Thái Bình. Về múa rối làng Nguyễn, tác giả giới
thiệu 26 trò cổ truyền, và 5 trò mới: “Bình dân học vụ”, “Đánh đƣờng 10”,
“Đánh trận sông Lô”, “Trâu phá cày”, “Thi hóa rồng”. Về phƣờng rối làng
Đống, tác giả chỉ ra những nét riêng của phƣờng này và giới thiệu một số trò
đặc biệt: “Trò đu”, “Chém Tá rơi đầu, Tá ôm đầu chạy”, “Cá nhảy ra xa”,

“Tào Tháo cắt tu phế bào” (Tào Tháo cắt râu, cởi bỏ áo bào) [55, tr.152-189].
Năm 1976, trong cuốn sách Nghệ thuật múa rối nước, nhà nghiên cứu Tô
Sanh dành ít trang viết về múa rối nƣớc Nguyên Xá và rối nƣớc Đông Các
(làng Đống). Ngoài những thông tin đã thấy ở cuốn sách xuất bản năm 1974
của Nguyễn Huy Hồng, cái mới ở đây là tài trí của trùm phƣờng và nghệ nhân
Nguyên Xá khi phƣờng gặp sự cố bất ngờ [110, tr.176-177]. Năm 1977,
Nguyễn Huy Hồng xuất bản cuốn sách Nghệ thuật múa rối nước Thái Bình.
Đây là chuyên khảo đầu tiên và duy nhất về múa rối nƣớc Thái Bình. Ngoài
việc miêu thuật khá kỹ về sân khấu, buồng trò, quân rối, máy điều khiển, nghệ
nhân, phƣờng hội, nhân vật Tễu, cách thức biểu diễn, văn học, âm nhạc, giới
thiệu rối nƣớc làng Nguyễn và rối nƣớc làng Đống, tác giả còn viết về phƣờng
14


rối nƣớc làng Tuộc. Tuộc là tên nôm của làng Duyên Tục, xã Phú Lƣơng,
huyện Đông Hƣng. Phƣờng Tuộc ít hoạt động, ngày xƣa khoảng từ một đến
hai năm mới tổ chức diễn một lần phục vụ bà con trong làng. Lần diễn cuối
cùng là vào năm 1944. Qua lời kể của nghệ nhân Phạm Văn Bàn, tác giả đã
phục hồi đƣợc chƣơng trình biểu diễn thời trƣớc và cung cấp một số lời giáo
trò mà một số ngƣời còn nhớ.
Năm 1981, trong cuốn sách Văn học dân gian Thái Bình do Phạm Đức
Duật chủ biên, tác giả Nguyễn Huy Hồng đã giới thiệu các lời giáo trò của
múa rối nƣớc Thái Bình [24].
Năm 1987, Nghệ thuật múa rối nước Thái Bình đƣợc tái bản, có bổ
sung [56].
Về múa rối nƣớc Thái Bình, đến nay đã có hai bản luận văn thạc sĩ đề
cập đến. Đó là Tìm hiểu nghệ thuật múa rối nước cổ truyền làng Nguyễn
(1997) của Phạm Trọng Toàn. Sau khi tìm hiểu bản sắc làng Nguyễn, nghệ
thuật múa rối của làng, tác giả đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp kế thừa,
phát huy những giá trị đặc sắc của nghệ thuật này [127]. Đó là Nghệ thuật

múa rối nước làng Đống xã Đông Các, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình
(2007) của Nguyễn Văn Định. Tác giả đã hệ thống 14 nội dung tích trò, một
số kỹ thuật thể hiện và các bài bản âm nhạc đƣợc sử dụng trong múa rối nƣớc
làng Đống [42]. Ngoài ra, còn có khóa luận tốt nghiệp đại học Phát triển du
lịch tại phường rối nước làng Nguyễn - Đông Hưng - Thái Bình (2014) của
Ngô Thị Quyên. Sau khi giới thiệu rối nƣớc làng Nguyễn và phân tích giá trị
của nó, tác giả viết về thực trạng hoạt động du lịch tại phƣờng rối này và đề
xuất giải pháp phát triển rối nƣớc làng Nguyễn thành một sản phẩm du lịch
hấp dẫn [107].
Bên cạnh các ấn phẩm viết bằng tiếng Việt, Nghệ thuật múa rối nước
Thái Bình của Nguyễn Huy Hồng còn đƣợc dịch ra tiếng Đức, xuất bản ở
Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1985.
15


Những công trình, những bài viết, những trang sách của các tác giả đi
trƣớc đều là những thành quả lao động cần đƣợc trân trọng. Tuy nhiên, do
mục đích nghiên cứu, chƣa có công trình nào tập trung viết về múa rối nƣớc
Thái Bình từ sau năm 1975 đến nay.
1.2. Lý thuyết vận dụng
Múa rối nƣớc Thái Bình là sản phẩm của cƣ dân làng Việt ở Bắc Bộ.
Múa rối nƣớc ra đời từ khá sớm và đã trải qua nhiều bƣớc thăng trầm. Trong
quá trình thực hiện đề tài luận án, chúng tôi vận dụng hai lý thuyết. Đó là lý
thuyết về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác học; lý thuyết về
biến đổi văn hóa.
1.2.1. Lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn hóa
bác học
Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam thống nhất rằng có hai dòng văn hóa,
một dòng là văn hóa dân gian và một dòng văn hóa không phải là dân gian,
đƣợc gọi là văn hóa bác học, chuyên nghiệp. Dòng văn hóa dân gian là văn

hóa của dân, do ngƣời dân sáng tạo, lƣu truyền và thƣởng thức. Dòng văn hóa
bác học không phải do ngƣời dân sáng tạo. Theo GS Đinh Gia Khánh, dòng
văn hóa bác học là sản phẩm của các tầng lớp trí thức. Riêng về thuật ngữ, có
ý kiến cho rằng các từ chuyên nghiệp, bác học không thật thích hợp với đối
tƣợng, mà nên dùng thuật ngữ “tinh anh” hoặc “cao nhã” [74, tr.30]. Thí dụ,
văn học Việt Nam thời trung đại có hai dòng là văn học dân gian và văn học
thành văn (còn gọi là văn học viết). Nhắc đến văn học thành văn là ngƣời ta
nhớ đến các tác giả nhƣ Pháp Thuận, Viên Chiếu, Mãn Giác, Ỷ Lan, Lý Nhân
Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sƣ Mạnh, Trần Minh Tông,
Sử Ni Nhan, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Cao
Bá Quát, Tự Đức, Miên Thẩm, Miên Trinh, Nguyễn Đình Chiểu,… Nếu gọi

16


Luận án đầy đủ ở file: Luận án full






×