Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Vấn đề bản thể luận trong triết học của Cantơ. Đóng góp và hạn chế của tư tưởng này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.74 KB, 16 trang )

Vấn đề bản thể luận trong triết học của Cantơ. Đóng góp
và hạn chế của tư tưởng này
I.Nội dung cơ bản của bản thể luận trong triết học Cantơ (Kant)
1.1: Thời kỳ tiền phê phán( 1746 – 1770)
Thời kỳ này Kant chú trọng nghiên cứu các vấn đề khoa học tự nhiên và
triết học tự nhiên. Ban đầu ông chịu ảnh hưởng quan điểm duy tâm và thần học của
Laibnitxơ và Vônphơ. Về sau, ông đứng về phía các quan niệm duy vật máy móc
của Niutơn và Đềcáctơ để xây dựng thế giới quan độc lập của mình. Thế giới quan
của Kant thời kỳ này, về cơ bản, thể hiện như một nhà duy vật về tự nhiên.
Nét tiêu biểu về triết học của Kant thời kỳ tiền phê phán là những quan niệm
biện chứng về thế giới và các yếu tố của phép biện chứng thể hiện trong hai tác
phẩm: “Lịch sử tự nhiên và lý luận về vũ trụ” (1755) và “Kinh nghiệm đưa đại
lượng phủ định vào triết học” (1763). Kant cho rằng, thế giới của chúng ta là thế
giới vật chất luôn vận động và biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ và tác
động qua lại lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Ông viết: “Hãy cho tôi vật
chất, tôi sẽ xây dựng thế giới vật chất từ nó, nghĩa là hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ
chỉ ra cho các bạn thấy, thế giới phải ra đời từ vật chất như thế nào”.
Trong công trình “Lịch sử tự nhiên và lý luận về vũ trụ”, Kant cho rằng từ
thời xa xưa, cả thế giới nằm trong trạng thái hỗn độn, nhờ lực vạn vật hấp dẫn, các
hạt vật chất tụ lại thành những khối tinh vân. Thông qua lực hút và đẩy trong lòng
những khối tinh vân mà xuất hiện những cơn gió xoáy làm cho các khối tinh vân
kết đông lại tạo thành các hành tinh độc lập nhau. Trên cơ sở định luật vạn vật hấp
dẫn của Niutơn và từ các công trình nghiên cứu về trái đất, đại dương, Kant đã
khám phá ra sự ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng dẫn đến hiện
tượng thuỷ triều. Đồng thời, Kant còn nêu lên giả thiết về sự tồn tại của các đại
1


thiên hà, thuyết về tính tương đối của vận động và đứng im. Các công trình trên
gắn với nhau bằng tư tưởng duy vật về sự phát triển tự nhiên của vũ trụ. Trong
công trình “Kinh nghiệm đưa lại đại lượng phủ định vào triết học” (1763), ông rút


ra kết luận sự có mặt của các lực đối lập là quy luật phổ biến của tự nhiên. Lý luận
về mâu thuẫn này là cơ sở cho hệ thống biện chứng của các nhà triết học Đức sau
này.
Như vậy, trong thời ký trước phê phán, Kant đã có hai phát minh quan trọng,
bao gồm: (1) Giả thuyết khoa học về sự hình thành vũ trụ từ những hạt bụi vũ trụ;
(2) Giả thuyết khoa học về sự lên xuống của nước thủy triều do ảnh hưởng của lực
hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng. Hai phát minh này của Kant đã được Ph. Ăng
ghen đánh giá cao.
1.2: Thời kỳ phê phán (sau 1770)
Thời kỳ này triết học của Kant chịu ảnh hưởng nhiều của triết học Hium và
Vônphơ. Cách đặt vấn đề của Kant là đặt vấn đề triết học trên lập trường phê phán.
Cách phê phán của Kant triển khai theo 3 hướng và cũng chính là tên của ba tác
phẩm nổi bật của ông trong thời kỳ này, đó là: “Phê phán lý tính thuần túy” (1781),
“Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và “Phê phán năng lực thực tiễn” (1790). Trong
ba tác phẩm này, Kant thể hiện sự dao động của mình khi chỉ rõ chỉ rõ nhiệm vụ
hàng đầu của triết học là phải xác định bản chất của con người, hướng nhiệm vụ
vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con
người mà bất cứ ai cũng băn khoăn trong cuộc đời mình; nghĩa là phải lý giải được
các vấn đề: “Tôi có thể biết được cái gì?”, “Tôi cần phải làm gì?”, “Tôi có thể hy
vọng cái gì?”
-

Tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” (1781) nhằm lý giải cho câu hỏi:

“Tôi nhận thức được cái gì?” qua quan niệm về “tri thức tiền nhiệm” và “vật tự
nó”. Theo ông, trước khi nhận thức thế giới phải xác định đối tượng nhận thức và
nghiên cứu giới hạn của tri thức con người trên tinh thần phê phán quan điểm siêu

2



hình và quan điểm duy tâm duy lý. Nhưng thực tế, Kant đã kết hợp hai thứ triết học
trong hệ thống triết học của mình.
+

Khi bàn về sự hình thành của thế giới, Kant coi các sự vật của thế giới là

“vật tự nó” tồn tại ở bên ngoài ý thức của con người. “Vật tự nó” tác động lên các
giác quan cho ta những cảm giác về chúng, những cảm giác ấy không phải là hình
ảnh sự vật mà là những hiện tượng của “Vật tự nó”, trong trường hợp này “vật tự
nó” được hiểu những gì thuộc về hiện tượng. Thế giới hiện tượng này liên quan
đến kinh nghiệm cảm tính, đây là thế giới khả giác, khả nghiệm. Còn “vật tự nó”
với cách hiểu là bản chất của mọi sự vật khách quan tồn tại ngoài ta là thuộc thế
giới siêu nghiệm, về nguyên tắc con người không nhận thức được chúng. Như vậy,
học thuyết “vật tự nó” của Kant là mâu thuẫn, “nó dung hòa chủ nghĩa duy vật và
duy tâm”(1). Các nhà triết học đã phê phán Kant từ hai phía: các nhà duy tâm và
phái hoài nghi “đã bác bỏ học thuyết của Kant về “vật tự nó”, coi đó là một nhân
nhượng không nhất quán đối với chủ nghĩa duy vật”. Còn triết học duy vật biện
chứng đã kết luận rằng “Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác
nhau nào về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái
đã nhận thức và cái chưa được nhận thức”. Lý luận về “vật tự nó” là cánh cửa đi
vào triết học phê phán của Kant . Từ đây Kant coi đối tượng của lý luận nhận thức
không phải là nghiên cứu giới tự nhiên như chính bản thân nó mà là nghiên cứu
năng lực của nhận thức, khả năng nhận thức của con người.
+

Kant chia tri thức của loài người thành 2 loại: tri thức kinh nghiệm cảm giác

và tri thức tiên nghiệm. Tri thức kinh nghiệm cảm giác khiến con người chỉ nắm
được hiện tượng riêng biệt lộn xộn còn tri thức tiên nghiệm đem lại những mối

quan hệ nhân quả tất nhiên, tính phổ quát và tính tất yếu của thế giới hiện tượng.
Kant cho rằng triết học và khoa học phải coi trọng tri thức tiên nghiệm để tạo ra tri
thức mới.
-

Tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) nghiên cứu vấn đề đạo đức

nhằm lý giải cho câu hỏi: “Tôi cần phải làm gì?”. Ông viết: “Các nguyên lý cảm
3


tính nói chung không thích hợp để có thể xây dựng các quy luật đạo đức vào
chúng”. Theo ông, chỉ có lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và
chuẩn mực đạo đức.
+
Các chuẩn mực này đòi hỏi mọi người sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng
mình và tôn trọng mọi người, sống theo lẽ phải và tôn trọng sự thật; sống bình
đẳng trong cộng đồng. Mọi người đều phải bình đẳng với nhau về quyền lợi và
được tạo điều kiện để thực hiện quyền đó. Mọi người cần phải có quyền ngăn chặn
những người khác hành động trái với các chuẩn mực đạo đức. Trong đạo đức học
thì tự do giữ vị trí trung tâm. Quan niệm của ông về tự do đạo đức đã phản ánh sự
mong mỏi và khát vọng chung của giai cấp tư sản và bối cảnh xã hội Đức thế kỷ
XVIII.
+
Các quan điểm chính trị xã hội của Kant được coi là đạo đức ứng dụng.
Theo ông xã hội là phương thức tồn tại của con người như một chủ thể, trong đó,
bằng hoạt động của mình, con người ngày càng phát triển khả năng và thực hiện lý
tưởng đại đức của mình. Cũng theo ông, mâu thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy xã
hội phát triển. Sự xung đột giữa các tầng lớp, các đẳng cấp trong xã hội là phù hợp
với quy luật khách quan của lịch sử. Chính vì lẽ đó mà Kant hết sức đề cao Cách

mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) và phê phán các thế lực chống lại sự kiện này.
Theo ông, chỉ có hình thức nhà nước cộng hòa là phù hợp với nhu cầu phát triển xã
hội. Sứ mệnh của nhà nước, luật pháp, đạo đức phải hướng tới phục vụ con người.
Mặc dù tư tưởng chính trị xã hội của Kant còn hạn chế là chưa nhận thấy nền tảng
kinh tế của sự phát triển xã hội nhưng đã hàm chứa nhiều tư tưởng chính trị sâu
sắc, đặt nền móng cho quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác sau này.
Tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán” (1790) nghiên cứu về vấn đề mỹ
học nhằm trả lời cho câu hỏi: “Tôi có thể hi vọng cái gì?”. Học thuyết về mĩ học là
sự phát triển trên nền tảng “tri thức tiên nghiệm” và “vật tự nó”. Ông đề cập khả
năng thưởng thức và đánh giá sự vật tự nhiên của con người. Cái đẹp là phạm trù
trung tâm của thẩm mỹ học. Tuy nhiên, cái đẹp, theo Kant cũng có mâu thuẫn: một
mặt, cái đẹp là một phạm trù mang tính phổ quát và tất yếu; mặt khác cái đẹp mang
4


tính cá biệt bởi vì đó là kết quả thường thức của từng cá nhân. Kant khẳng định:
Chỉ có con người mới có thể là lý tưởng của cái đẹp.
II. Đóng góp và hạn chế trong triết học Kant về bản thể luận
1. Đóng góp của Kant về bản thể luận
1.1. Học thuyết về vũ trụ
Khi xây dựng học thuyết về vũ trụ, Kant thể hiện như là một nhà duy vật
khoa học tự nhiên với luận điểm chủ yếu “hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế
giới từ nó, nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế giới phải
ra đời từ vật chất như thế nào”. Thế giới chúng ta theo Kant được cấu tạo từ vật
chất luôn vận động và biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ và tương tác
với nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Từ những công trình nghiên cứu về trái đất
và đại dương, Kant là người đầu tiên đã khám phá ra ảnh hưởng của lực hấp dẫn
giữa trái đất và mặt trăng với các hiện tượng thủy triều. Ông khẳng định thế giới
hiện nay là kết quả của quá trình lịch sử phát triển lâu dài theo hướng ngày càng
hoàn thiện của tự nhiên. Ông cho rằng, không chỉ mọi sự vật trong thế giới chúng

ta mà cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằmtrong quá trình phát sinh, phát triển và
diệt vong như một quy luật sắt đá của tự nhiên. Từ đây, dù không bác bỏ những
mặt hợp lý của vũ trụ học Descartes nhưng ông đã xây dựng nên giả thuyết vân
tinh học - giả thuyết về sự hình thành vũ trụ.
Tất cả các hành tinh, và cả vũ trụ chúng ta không phải ngay từ đầu đã có
được trạng thái tồn tại như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới chúng ta đều
nằm trong trạng thái hỗn độn. Nhờ lực vạn vật hấp dẫn, các hạt vật chất khuếch tán
khắp không gian đã dần dần tụ lại thành những đám mây lớn. Thông qua lực hút và
lực đẩy, trong lòng các đám mây đó xuất hiện những luồng gió xoáy làm cho các
hạt vật chất kết đông lại theo hình cầu. Do ma sát khi va chạm nên chúng bị nóng.
Vì lực hút chiếm ưu thế hơn nên các hạt vật chất kết lại với nhau tạo thành mặt trời
và các hành tinh có độ nóng khác nhau tùy thuộc mức độ ma sát. Nhưng vì khoảng
5


không vũ trụ quá lớn do ảnh hưởng của lực đẩy nên lực hấp dẫn không đủ sức hút
tất cả lượng vật chất của vũ trụ thành một khối, mà tồn tại nhiều hành tinh độc lập
với nhau. Do lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng, cho nên những hành tinh ở
gần mặt trời thì nặng hơn so với các hành tinh ở xa và nhân của các hành tinh thì
nặng hơn so với lớp vỏ của chúng. Vũ trụ là một chỉnh thể thống nhất, cho nên “nó
sẽ tạo ra những thế giới mới để bù đắp những tổn thất mà nó gánh chịu ở một nơi
nào đó”.
Việc Kant lý giải nguồn gốc và sự hình thành vũ trụ cho thất trong tư tưởng
của ông chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật và hoàn chỉnh hơn so với các học thuyết
vũ trụ học trước đó đồng thời nó đem lại một cách nhìn mới - cách nhìn phát triển
lịch sử về thế giới. Nó khẳng định không chỉ trái đất mà cả vũ trụ, đánh tan quan
niệm siêu hình thống trị thời đó cho rằng một khi thế giới chúng ta đã tồn tại thì nó
vẫn mãi như thế từ xưa đến nay. Với giả thuyết này, Kant bước đầu đã xây dựng
nền tảng cho quan điểm phát triển biện chứng về tự nhiên.
1.2 Học thuyết phân đôi thế giới

Triết học Kant là nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại. Tuy
quan điểm triết học của ông có những dao động giữa duy tâm và duy vật, đồng thời
vẫn còn tồn tại vài hạn chế, song điều đó không làm lu mờ công lao to lớn của triết
học Kant.
Ông xem vật chất và ý thức là hai nguyên thế song song tồn tại, không cái nào
có trước, chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Từ thế giới quan như vậy, Ông
đã đưa ra quan điểm của mình về sự hình thành thế giới vật chất thông qua học
thuyết về sự phân đôi thế giới.
Theo ông, thế giới bao gồm: thế giới “vật tự nó” và thế giới hiện tượng (thế giới
cảm tính).
Về thế giới “vật tự nó” được ông hiểu như sau:
- Thứ nhất, đó là sự thể hiện những gì thuộc về lĩnh vực các hiện tượng (được
ông đồng nhất với kinh nghiệm) mà chúng ta chưa nhận thức được.
6


- Thứ hai, đó là bản chất của mọi sự vật khách quan tồn tại bên ngoài chúng ta
và theo ông chúng thuộc về các lĩnh vực siêu nghiệm tức là về nguyên tắc
chúng ta không thể nhận thức được.
- Thứ ba, “vật tự nó” ám chỉ những lí tưởng chuẩn mực của mọi sự hoàn hảo
tuyệt đối mà con người không đạt tới được, nhưng đây là điều mà nhân loại
hằng mơ ước (chúa, sự tự do, sự bất diệt của linh hồn). Đây là những đối
tượng của tín ngưỡng, của niềm tin của loài người. Ông coi Chúa – tự dolinh hồn bất diệt là những cái không thể biết, ông không phủ nhận sự tồn tại
của chúa như nhiều nhà vô thần trước đó mà ông coi đó là vật tự nó.
Còn về thế giới hiện tượng (thế giới cảm tính) thì ông qua niệm đó là sản phẩm
của sự tác động của thế giới “vật tự nó” vào chủ thể. Ông thừa nhận các sự vật cảm
tính có được là do các sự vật bên ngoài tác động vào các giác quan của chúng ta từ
đó ta sẽ biết được các sự vật đó nhưng đó đều chỉ là hiện tượng, là hình ảnh, là
quan niệm của chúng ta về chúng chứ không phải bản thân sự vật trên thực tế. Ông
tách rời những fi mà con người khám phá về sự vật với bản chất của những sự vật

này. Kể cả những điều con người hiện chưa biết, nhưng sẽ biết về sự vật cũng bị
ông quy về lĩnh vực hiện tượng luận, tức kinh nghiệm cảm tính. Chúng được gọi
là những kinh nghiệm khả năng. Không gian và thời gian không phải là hình thức
tồn tại của “vật tự nó”, mà là nhữung hình thức tồn tại của cảm tính.
Nếu như ở thời kỳ tiền phê phán ông coi không gian và thời gian là hình thức
tồn tại của “vật tự nó”, thì giờ đây, ông coi không gian là hình thức bên ngoài, còn
thời gian là hình thức bên trong của kinh nghiệm. Chúng đều thuộc về lĩnh vực
hiện tượng luận. Các thuật ngữ “cảm tính”, “kinh nghiệm”, “giới tự nhiên”, “hiện
tượng luận” được ông xem là đồng nhất về nội dung, đối lập với “vật tự nó”. Nếu
tế giới hiện tượng mang tính hữu hạn vì sự vật của nó tồn tại trong không gian và
thời gian, do đó nó là cái tạm thời, thì thế giới “vật tự nó” là cái tồn tại vĩnh viễn

7


ngoài không gian và thời gian. Thế giới hiện tượng tuân theo quy luật mang tính
nhân quả thì thế giới “vật tự nó” không theo quy luật mà nó ngoài nhân quả.
Theo ông, thế giới hiện tượng là thường nhiệm, là thế giới của những cái tương
đối, còn thế giới “vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là những cái tuyệt đối.
Có thể thấy, trong quan điểm của ông mọi sự vật đều mang tính hai mặt, có sự
đối lập với nhau. Nói cách khác, đó là những tư tưởng biện chứng về những cái đối
lập, chính từ sự tác động qua lại lẫn nhau giưuã các mặt đối lập mà đưa đến sự phát
triển của sự vật. Và ông quan niệm rằng: vì nhu cầu vận động, phát triển không
ngừng, nên con người luôn có khát vọng xâm nhập vào lĩnh vực “vật tự nó”, trong
khi khả năng của con người chỉ nhận thức được thế giới hiện tượng luận. Cũng
chính vì vậy mà nảy sinh các nghịch lí, mâu thuẫn. Các mâu thuẫn này hầu như
không thể khắc phục được vì nó nằm ngay trong lí tính con người. Nhờ những mâu
thuẫn này mà lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã xem các mặt đối lập là
những đối lập về chất và ông khẳng định tồn tại 4 mâu thuẫn cơ bản và cũng chỉ
tồn tại 4 mâu thuẫn cơ bản này mà thôi. Mỗi mâu thuẫn đuề được ông trình bày từ

hai luận đề đối lập nhau là chính đề và phản đề. Phía chính đề thì thể hiện lập
trường của các nhà duy tâm và quyết định định. Còn về phía phản đề thì thể hiện
lập trường của các nhà duy vật và vô định. Nhưng ông vẫn coi những mâu thuẫn
này là những mặt đối lập biện chứng, chính vì vậy mà tùy từng trường hợp chúng
có thể đúng có thể sai.
Và đây là 4 mâu thuẫn duy nhất được ông cho là cơ bản và tồn tại duy nhất
cùng các cặp chính đề và phản đề của chúng:
- Sự trọn vẹn tuyệt đối về cấu tạo của cái toàn thể của mọi hiện tượng.
o Chính đề: Thế giới có điểm đầu trong thời gian và bị hạn chế về
không gian.
o Phản đề: Thế giới là vô cùng vô tận cả về không gian và thời gian

8


- Sự trọn vẹn tuyệt đối về sự phân chia của cái toàn thể trong hiện tượng
o Chính đề: Thế giới là một chỉnh thể phức tập được cấu thành từ những
bộ phận đơn giản.
o Phản đề: Thế giới không thể phân chia được. Không có gì trên thế
gian là đơn giản.
- Sự trọn vẹn tuyệt đối về nguồn góc ra đời của một hiện tượng nói chung
(mâu thuẫn về quan hệ nhân quả).
o Chính đề: Trong tự nhiên tồn tại cả quan hệ nhân quả và tự do.
o Phản đề: Không có tự do. Mọi vật diễn ra theo những quy luật của tự
nhiên.
- Sự trọn vẹn tuyệt đối về sự phụ thuộc để tồn tại của những gì có thể biến đổi
trong hiện tượng
o Chính đề: Trong thế giới tồn tại quan hệ tất yếu.
o Phản đề: Không ở đâu tồn tại quan hệ tất yểu cả.
Ông đã đưa ra các nghịch lí của quá trình nhận thức, của quan hệ giữa thế giới

khách quan và tư duy login nhận thức thế giới khách quan ấy. Ông coi các mâu
thuẫn là những dạng đối lập biện chứng. Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể, có thể
cả hai mặt đối lập cùng đúng hoặc cùng sai. Qua học thuyết về sự phân đôi thế giới
của mình, Kant đã đưa ra nền tảng tư tưởng về mối quan hệ biện chứng giữa những
mặt đối lập, một nên tảng mà để những người kế thừa đã phát triển học thuyết mâu
thuẫn biện chứng lên tầm cao mới và được thể hiện trong quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập trong triết học Mác –Lê nin sau này.
1.3 Tư tưởng về con người
9


Theo Kant, con người phải hành động tuân theo những quy luật bắt buộc, vô
điều kiện, thoát ly khỏi mọi cơ sở vật chất, tình cảm, dục vọng. Đó chính là
mệnh lệnh tuyệt đối . Trong Đặt cơ sở cho siêu hình học về đức lý, Kant trình
bày nội dung mệnh lệnh tuyệt đối như sau:
1) Mệnh lệnh tuyệt đối là nguyên lý phổ quát quy định mọi hành vi của con
người. Nó đòi hỏi mỗi người "hãy hành động như thể những châm ngôn của
hành vi của bạn thông qua ý chí phải trở thành những định luật tự nhiên phổ
biến"
2) Mệnh lệnh tuyệt đối yêu cầu mỗi người "hãy hành động sao cho tính người
không những nơi nhân cách của bạn mà cả trong nhân cách của bất cứ ai lúc nào
cũng được bạn sử dụng như là mục đích chứ không bao giờ chỉ như là phương
tiện" và
3) Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi mỗi người "hãy hành động theo ý chí tự do
của riêng mình, nhưng ý chí đó không vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp chế
phổ biến" .Điều này có nghĩa là khi đề cao ý chí tự do của mình, mỗi người đồng
thời cũng phải tôn trọng quyền tự do ý chí của người khác.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần tránh hiểu lầm Kant. Kant không muốn "phát
minh" hay "thiết lập" nguyên lý đạo đức nào cả. Kant không phải là người đưa ra yêu
sách mệnh lệnh tuyệt đối cho con người, mà thực ra ông chỉ khảo cứu phương thức

hoạt động của lý tính thực tiễn và nhận ra rằng, nguyên lý phổ biến của phương thức
ấy chính là mệnh lệnh tuyệt đối. Và cũng như Kant, mọi người đều có khả năng phát
hiện ra điều đó bất cứ lúc nào, nếu họ biết lắng nghe tiếng gọi của lương tâm trong
bản thân mình và truy tìm nguyên lý thuần tuý của nó. Nhà triết học Đức gọi lương
tâm là "một quan năng diệu kỳ trong bản thân ta".
Mệnh lệnh tuyệt đối không tách rời tự do vì, với Kant, sự tự quyết của ý chí là
nguyên tắc cao nhất của tính chất đạo đức và cũng là tự do. Kant khẳng định: "ý chí tự
do và ý chí tuân theo các quy luật đạo đức là một" Tự do là cơ sở của phẩm giá con


10


người. Nó là điều kiện để con người hành động có đạo đức và ngược lại, nhờ hành
động có đạo đức, con người mới biết mình có tự do. Ta biết ta tự do, vì những hành
động của ta không bị chi phối bởi cảm giác, vụ lợi, tình cảm, dư luận. Như vậy, triết
học lý thuyết nghiên cứu việc ban bố quy luật cho tự nhiên bởi các khái niệm thuần
tuý (các phạm trù) của giác tính trong phạm vi kinh nghiệm, triết học thực tiễn nghiên
cứu việc ban bố quy luật bởi khái niệm tự do của lý tính thuần tuý. Kant gọi khái niệm
"tự do" là "viên đá đỉnh vòm" cho toà nhà hệ thống của lý tính thuần tuý. Qua đây,
chúng ta thấy: sự phân biệt giữa triết học lý thuyết và triết học thực tiễn thực chất là sự
phân biệt về cả phạm vi hoạt động lẫn phạm vi hiệu lực giữa giác tính và lý tính.
Kant đề cao bổn phận luân lý và coi đó là một sức mạnh nâng con người lên
trên chính mình (một bộ phận của thế giới cảm tính). Sức mạnh này không gì khác
hơn là nhân cách con người, nghĩa là, sự tự do và độc lập với cơ chế máy móc của
toàn bộ giới tự nhiên.
Quy luật luân lý là thiêng liêng (bất khả xâm phạm) và, theo Kant, con người
đúng là không có gì thiêng liêng cả, nhưng ta phải xem "nhân tính" ở trong nhân
cách con người là thiêng liêng. Vì thế, sự tôn kính đối với quy luật luân lý là động
cơ luân lý duy nhất và không thể nghi ngờ.

Xét về phương diện bản thể luận thì đóng góp chủ yếu của Kant là tác phẩm
Phê phán lý tính thực tiễn, vì Kant đã chỉ ra cho ta thấy con người, một mặt, là
"công dân" của hai thế giới: thế giới hiện tượng và thế giới vật tự thân. Mặt khác,
Kant lại không "phân tách" con người ra làm hai phần, mà khẳng định rằng, con
người là chỉnh thể toàn vẹn, duy nhất thuộc về toàn bộ thế giới (không bị chia
tách). Trong lĩnh vực hiện tượng, tất cả những gì tạo nên tôi và tất cả những gì tôi
làm chỉ là một mắt xích nhỏ bé trong mối liên hệ tất yếu, nhưng đồng thời tôi lại
thuộc về vương quốc tự do siêu cảm tính, vượt khỏi thời gian và không gian. Có
thể thấy, Kant nhận thấy rất rõ khó khăn trong việc hợp nhất hai thế giới và ông cố
gắng tìm ra giải pháp cho việc hợp nhất ấy. Vì thế, Kant viết những dòng bất hủ
như sau: "Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới
11


mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật
luân lý ở trong tôi".
Theo hai tác phẩm ấy, điều hiển nhiên là không một học thuyết giáo điều nào
có thể chứng minh được niềm tin vào Chúa bằng tri thức.
Mặc dù Kant đã chứng minh tôn giáo là không thể có được bằng tri thức,
song ông đồng thời đem lại cho nó luận cứ mới bằng hành động. Lý tính lý luận
không thể luận chứng được về tự do, sự bất tử, Chúa, cùng lắm thì nó chỉ có thể
coi chúng là những ý niệm điều hành mà thôi và dọn chỗ để cho ta tin vào những ý
niệm ấy. Lý tính thực tiễn còn đi xa hơn: nó thôi thúc ta tin vào những ý niệm đó.
Để đạt được tự do theo nghĩa tuyệt đối, Kant đề xuất ba định đề (Postulat)
đóng vai trò như là giả thuyết tất yếu cho mọi hành vi đạo đức của con người. Đó
là:
1) Tự do tuyệt đối ở thế giới bên kia với tư cách là cơ sở cho mọi hoạt động của
con người;
2) Linh hồn bất tử ở thế giới bên kia phán quyết những hành vi đạo đức của con
người;

3) Chúa ở thế giới bên kia với tư cách là lý tưởng, làm điều kiện cho hạnh phúc
của con người.
Lý tính thực tiễn đem lại cho chúng ta sự xác tín về tồn tại của Chúa, điều mà lý
tính lý luận đã không thể làm được. Bởi vậy, trong Phê phán lý tính thuần tuý, khi
Kant viết: "Tôi phải hạn chế tri thức đi để dành chỗ cho niềm tin" (BXXX) thì "niềm
tin" ở đây là niềm tin của lý tính thực tiễn, biến những đối tượng "bất khả" của lý tính
lý thuyết (Chúa, tự do, sự bất tử) thành những định đề của lý tính thực tiễn. Hành động
luân lý tiên quyết là không thể có được nếu không có niềm tin vào tự do, sự bất tử và
vào Chúa. Người nào hành động có đạo đức, người ấy sẽ cho ta thấy qua hành động
đạo đức của mình rằng, anh ta tin vào chúng - ngay cả khi về lý luận, anh ta có thể bác
bỏ chúng. Theo Kant, hành động đạo đức đồng thời là sự thừa nhận thực tiễn về Chúa.


12


Ở Kant, chúng ta thấy rất rõ ràng là trong mối quan hệ giữa đạo đức và tôn
giáo, đạo đức là cội nguồn, còn tôn giáo là cái được bổ sung vào. Vậy tôn giáo thực
ra đã bổ sung điều gì cho đạo đức? Tôn giáo là sự nhận thức về bổn phận của
chúng ta với tư cách là những điều răn của Chúa. Các bổn phận đã được ấn định
sẵn bởi các quy tắc đạo đức. Tôn giáo lý giải các bổn phận này như là cái đã được
Chúa đặt vào trong lý tính của chúng ta. Nó đã cải trang các bổn phận ấy bằng uy
nghi của ý chí Chúa.
Con người, xét về bản tính của mình, không ngừng đặt câu hỏi: Vậy cái
đang là và cái phải là, tự nhiên và tự do rút cục được nối kết lại với nhau như thế
nào? Kant giải quyết vấn đề này trong tác phẩm phê phán cuối cùng - Phê phán
năng lực phán đoán, trong đó, ông tin tưởng rằng, mình đã tìm ra "nhịp cầu" kết
nối chúng trong năng lực phán đoán phản tư của con người.
2. Hạn chế trong bản thể luận của Kant
Triết học Kant hết sức đa dạng, phong phú, bao trùm nhiều lĩnh vực, song

còn chứa đựng một số hạn chế có thể kể đến như sau:
Thứ nhất: Vấn đề Bản thể luận của Kant với nội dung hết sức đa dạng và
phong phú bao trùm nhiều lĩnh vực nhưng còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn mà
chính ông cũng không tự giải thích được Kant xuất phát từ quan điểm duy vật tự
phát và biện chứng tự nhiên, tập trung nghiên cứu các vấn đề khoa học và triết học
tự nhiên như: giải thích hiện tượng thủy triều, lý giải sự phát triển của vũ trụ, đưa
ra giả thuyết về sự hình thành của vũ trụ là một vụ nổ tự nhiên…Khi dựa trên cơ
học của Newton và vật lý học của Decate – Lepnit, Kant coi giới tự nhiên như một
hệ thống luôn nằm trong quá trình phát triển ngày càng hoàn thiện, từ đó xây dựng
phép biện chứng trên cơ sở quan niệm duy vật về sự vận động, phát triển và mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Điều đó đã chấm dứt quan niệm
duy tâm ở thời kỳ trước. Kant đưa ra quan điểm về mâu thuẫn trong đó cho rằng
các lực đối lập là quy luật phổ biến của tự nhiên. Chính điều này đã đưa Kant đến
13


việc tấn công phá vỡ quan điểm siêu hình khi xem xét thế giới vật chất. Theo ông
thế giới của chúng ta là thế giới vật chất , luôn vận động và biến đổi không ngừng,
mọi sự vật đều có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau thông qua lực hút và lực
đẩy. Mặt khác, do chưa thoát khỏi quan niệm siêu hình cùng với sự nhìn nhận thế
giới một cách tách rời, Kant còn cho rằng mọi sự vận động ở thế giới bên ngoài
chúng ra chỉ là sự tồn tại dưới dạng đơn giản nhất, ngẫu nhiên.
Thứ hai: Trong triết học thời kỳ phê phán, Kant đã bộc lộ rõ tư tưởng bị dao
động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm cho nhận thức về sự tồn tại
của vật chất chưa được thống nhất và sâu sắc. Khi các vấn đề khoa học tự nhiên
không còn thỏa mãn, nhất là khi trình độ nhận thức với tư duy siêu hình không thể
lý giải được các vấn đề mới mẻ như bản chất của sự sống và lý tính con người,
chính sự bế tắc trong việc lý giải nguồn gốc sự vận động của thế giới vật chất
khiến ông đi đến quan niệm về thế giới “vật tự nó” tồn tại bên ngoài mọi khả năng
nhận thức của con người và cái mà con người nhận thức được thật ra là thế giới

hiện tượng – hay là thế giới khả giác. Theo Kant, nguồn gốc của sự vận động
không phải nằm ở bản thân vật chất mà nằm ở cái đằng sau của vật chất với tính
cách là nguyên nhân đầu tiên. Thuyết động lực của ông thể hiện rõ bước chuyển từ
thế giới quan duy vật tự phát sang thế giới quan duy tâm khi cho rằng cái có trước
không phải là vật chất mà là một thứ lực thuần túy làm cho vật chất vận động. Đây
chính là một trong những điểm hạn chế trong vấn đề bản thể luận của Kant. Tư
tưởng biện chứng của Kant bị dao động giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm làm cho
nhận thức về sự tồn tại của vật chất chưa được thống nhất và sâu sắc. Theo Kant,
vận động đã bị tách ra khỏi vật chất, đối lập với vật chất và có trước vật chất. Động
lực học tuyệt đối đã đuổi nguyên tử luận với tư cách là học thuyếtvề cấu trúc vật
chất, là cơ sở của chủ nghĩa duy vật, ra khỏi khoa học tự nhiên. Kant là một trong
những nhà triết học theo thuyết không thể biết. Ông đặt ra và đã không giải quyết
được là: làm thế nào để biết được rằng những cảm giác, biểu tượng và nói chung ý
14


thức của con người có phù hợp với sự vật mà con người muốn nhận thức hay
không. Bản chất của sự vật là cái ẩn giấu đằng sau vô vàn những hiện tượng được
biểu hiện ra mà con người nhận được bằng cảm giác. Nhưng giác quan của con
người cũng như khả năng nhận biết của mỗi giác quan là có hạn. Ý thức được mặt
hạn chế của nhận thức và tính tương đối của chân lý là bước phát triển của tư duy
triết học. Nhưng Kant lại đi tới phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của tư duy
con người, phủ nhận chân lý khách quan thì đây là điểm sai lầm và rơi vào chủ
nghĩa duy tâm.
Thứ ba: khía cạnh hạn chế của đạo đức Kant là còn mang tính chất duy tâm,
duy lý, chưa đánh giá đúng mực về sự tác động về chế định của kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa đối với hoạt động đạo đức và còn là sự thể hiện không tưởng phi
lịch sử, phi giai cấp khi ông khuyên mọi ngưởi không kể giai cấp, quốc gia, dân
tộc,… hay làm theo mệnh lệnh tuyệt đối. Kant coi lịch sử là phương thức tồn tại
của con người. Một mặt, đó là một quá trình hoạt động, khả năng, bản chất con
người ngày càng phát triển. Mặt khác, đây cũng là lĩnh vực con người thực hiện

mục đích lý tưởng của mình.
Có thể thấy, mặc dù vấn đề bản thể luận trong triết học của Kant còn tồn tại
những hạn chế nhất định nhưng Kant đã đưa ra những tư tưởng mang tính chất nền
móng cho quan niệm biện chứng về giới tự nhiên và lịch sử, đồng thời đặt ra nhiều
vấn đề sâu sắc cho sự phát triển của Triết học phương Tây hiện đại. Chính vì vậy,
không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị to lớn của vấn đề bản thể luận trong triết học
của Kant đối với triết học nhân loại nói chung và triết học Mác – Lê nin nói riêng.

15


16



×