MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một hệ thống những cơ chế được thực hiện
bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục
đích, hiệu quả. Kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm kiểm soát phạm vi hoạt
1
động của quyền lực nhà nước; kiểm soát quá trình thông qua và sửa đổi Hiến pháp;
kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; kiểm soát những người thực
thi quyền lực nhà nước và có thể kiểm soát từ bên ngoài và bên trong nhà nước.
Kiểm soát từ bên ngoài nhà nước là sự kiểm soát của nhân dân và xã hội; kiểm soát
từ bên trong là sự kiểm soát do nhà nước thực hiện. Góp phần làm sáng tỏ vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay em xin chọn đề
tài “Vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước và kiểm soát quyền lực tại Việt Nam
hiện nay” để đi sâu tìm hiểu vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước.
NỘI DUNG
1.
1.1.
Vấn đề kiểm soát quyền lực Nhà nước
Quan niệm về hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung và là trung tâm của quyền lực
chính trị, được hình thành thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ
chức nhà nước và thực hiện chức năng thống trị xã hội.
Kiểm soát quyền lực nhà nước: là hoạt động có chủ đích của nhà nước và xã
hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình thức
hoạt động như giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán, tài phán nhằm hạn
chế nguy cơ xảy ra sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền, chuyên quyền,
độc đoán của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức nhà nước đảm bảo cho
quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể của các yếu tố thể chế,
thiết chế và các điều kiện bảo đảm có mối quan hệ hữu cơ, tương tác lẫn nhau
nhằm xác lập những quyền và khả năng để nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực
nhà nước có hiệu quả. Cơ chế đó ở một số nước dân chủ, pháp quyền tư sản có
những điểm chung sau đây:
- Thứ nhất, hiến pháp ở hầu hết các nước đều khẳng định nhân dân là chủ thể của
quyền lập hiến, quyền thiết lập nên quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực
nhà nước.
1.2.
2
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và là chủ thể duy nhất
của quyền lập hiến, quyền thiết lập nên nhà nước. Hiến pháp được xem là đạo luật
gốc của mọi quốc gia dân chủ, pháp quyền, là phương tiện để nhân dân giao quyền,
ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho nhà nước. Chủ quyền nhân dân được
đề cao và khẳng định trong hiến pháp là cơ sở hiến định để xác lập nhân dân là chủ
thể kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Thứ hai, kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng các đảng phái chính
trị đối lập (đảng phái không cầm quyền)
Nhà nước, xét đến cùng vẫn là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị mà ở
đó lực lượng nào có năng lực tổ chức thống nhất được lợi ích của giai cấp, của
nhân dân, của dân tộc bằng con đường hợp pháp, hợp lý thì có thể nắm được quyền
lực nhà nước. Việc thay đổi chính phủ, nghị viện hay chế độ phụ thuộc vào sự tiến
bộ hay tha hoá quyền lực nhà nước do chính đảng phái cầm quyền đó nắm giữ.
Đảng đối lập vừa là đặc điểm vừa là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà
nước ở các nước dân chủ tư sản trên thế giới. Khi đảng nào được lòng dân thì đồng
nghĩa với thắng cử trong cuộc bầu cử cạnh tranh và giành được quyền lực nhà
nước, trở thành đảng cầm quyền. Vì thế, đảng chính trị luôn đại diện cho giai cấp,
tầng lớp, nhóm lợi ích trong xã hội và việc thu hút sự ủng hộ của cử tri thì luôn là
mục tiêu càng nhiều càng tốt, thậm chí việc tranh giành sự ủng hộ của cử tri đảng
đối lập cũng là ưu tiên của bất kỳ đảng phái nào. Sự ra đời và phát triển của các
đảng phái chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của các nhóm lợi ích
khác nhau trong xã hội, các nhóm lợi ích hoặc hậu thuẫn hoặc kiểm soát, chi phối
lãnh đạo và hạn chế quyền của đảng cầm quyền tùy theo mục đích của mối quan hệ
ấy. Các đảng phái chính là các lực lượng chính trị đại diện cho các bộ phận nhân
dân đấu tranh, tranh giành quyền lực nhà nước với nhau và với đảng cầm quyền.
Vì thế, cơ chế đảng đối lập chính là một phương thức để nhân dân kiểm soát
quyền lực nhà nước ở các nhà nước dân chủ pháp quyền tư sản.
Hiến pháp Cộng hoà Pháp năm 1958 quy định: “Các đảng phái và các nhóm
chính trị giành quyền lực qua kết quả bầu cử. Các đảng phái và các tổ chức chính
trị được tự do thành lập và hoạt động trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về chủ
quyền quốc gia và dân chủ". Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước Pháp, địa
vị pháp lý của các chính đảng được ghi nhận nhưng đó chỉ là “góp sức vào việc thể
hiện ý chí của số đông dân chúng”. Nước Pháp coi các đảng và các nhóm chính trị
3
là "thành quả của loài người trong việc đi tìm những phương thức thực hành dân
chủ ".
Ở Mỹ, hiến pháp, pháp luật buộc mọi đảng phái chính trị, kể cả đảng cầm
quyền, nhóm lợi ích phải tuân thủ, thực hiện pháp luật, hoạt động cạnh tranh, tranh
giành ảnh hưởng và sự ủng hộ của cử tri phải trong khuôn khổ quy định của pháp
luật, của "luật chơi" đã thoả thuận; mọi vi phạm đều bị tố cáo, bị cử tri phản ứng và
pháp luật trừng phạt bất kể là ai. Hoạt động đảng phái chính trị rộng rãi, cạnh tranh
theo luật cùng với cơ chế bầu cử dân chủ người đứng đầu nhà nước, nghị sĩ Quốc
hội ... là những nội dung có ý nghĩa quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước
có hiệu quả.
Tại Nga, Điều 13 Hiến pháp năm 1993 quy định: " Ở Liên bang Nga thừa
nhận sự đa dạng về tư tưởng; Không một hệ tư tưởng nào được coi là chính thức và
bắt buộc" và "Ở Liên bang Nga thừa nhận sự đa nguyên, đa đảng". Có thể nói, từ
một nước theo mô hình Xô viết, có xu hướng độc tôn tư tưởng một cách cực đoan,
Liên bang Nga đã có sự thay đổi quan trọng về đường lối chính trị, tư tưởng theo
mô hình phổ biến của nhân loại. Cùng với nước Nga, nhiều nước thuộc Đông Âu
và Liên Xô cũ cũng thay đổi thể chế chính trị, pháp lý.
Ngoài chính phủ đang cầm quyền, các đảng chính trị không cầm quyền có
vai trò rất quan trọng. Pháp luật nước Anh cho phép thành lập “Nội các trong bóng
tối” của các đảng đối lập, có nhiệm vụ tìm ra những khiếm khuyết trong chính sách
của đảng cầm quyền, giám sát những người đang làm nhiệm vụ cai trị đất nước
dưới sự hướng dẫn của đảng cầm quyền. Đây được gọi là sự đối lập có trách
nhiệm, chúng có tác dụng nhất định giúp nhà nước tư sản thận trọng hơn khi đưa ra
các quyết định của mình.
Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua cơ chế đảng đối lập là hiện thực
phổ biến trên thế giới và hiệu quả của cơ chế đó luôn thuộc về các nước dân chủ tư
sản phát triển. Loại trừ những điểm hạn chế, bất cập của mỗi nước trong thực hiện
thì nhân tố hợp lý của cơ chế đó là buộc đảng cầm quyền phải nỗ lực nhiều hơn
trong thực thi quyền lực công.
- Thứ ba, cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhiều nước được thực
hiện thông qua các tổ chức xã hội dân sự.
Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự được coi là ba trụ
cột của sự ổn định và phát triển trong mỗi quốc gia, là xu hướng chung ở nhiều
4
quốc gia trên thế giới hiện nay. Tổ chức xã hội dân sự được hiểu là tổ chức của
những người hoạt động phi nhà nước, phi lợi nhuận, không tìm kiếm quyền lực
quản lý. Cốt lõi của tư tưởng về xã hội dân sự là lý thuyết về dân chủ, quyền con
người, quyền công dân, về bản chất tự do của xã hội và mỗi cá nhân trong mối
quan hệ với nhà nước và thị trường. Các tổ chức xã hội dân sự tập hợp, đoàn kết
mọi người nhằm thúc đẩy các mục tiêu chung và lợi ích chung. Các tổ chức này
hiện diện trong đời sống công cộng, đại diện thể hiện lợi ích, giá trị của mình
(thành viên, tổ chức) và của người khác được thành lập theo pháp luật và dựa trên
cơ sở đạo đức, văn hoá, tôn giáo hoặc từ thiện...Các tổ chức xã hội dân sự bao
gồm: các tổ chức phi chính phủ (NGO), hiệp hội nghề nghiệp, các quỹ, các viện
nghiên cứu độc lập, các tổ chức cộng đồng (CBOs) , các tổ chức tín ngưỡng, các tổ
chức nhân dân, các phong trào xã hội và công đoàn.
Quan điểm phổ biến của phương Tây coi các tổ chức xã hội dân sự là một bộ
phận cấu thành xã hội, không hoàn toàn tách biệt với nhà nước, không hẳn đối lập
với nhà nước. Các nhà nước dân chủ tư sản luôn đề cao, nhấn mạnh vai trò của xã
hội dân sự trong bảo vệ tự do cá nhân, dân chủ trước sự can thiệp của quyền lực
nhà nước. Tổ chức xã hội dân sự có vai trò thúc đẩy các công dân tham gia vào các
vấn đề công cộng, cụ thể là tham gia vào quá trình hình thành và thực thi chính
sách của nhà nước. Đó cũng là cơ chế để người dân chủ động tham gia vào công
việc của chính phủ nhằm kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước
với xã hội.
Ở Mỹ, các hội, hiệp hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các chính sách của
Chính phủ: Hiệp hội nghề nghiệp là một hình thức của các nhóm lợi ích trong xã
hội, bao gồm Hiệp hội y tế, Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, Hội nhà báo, Hội
những người về hưu v..v. , các nhóm lợi ích có vai trò nhất định trong sự tham gia
và giám sát hoạt động của quyền lực nhà nước, và là công cụ đắc lực giúp người
dân tham gia quản lý xã hội. Nhóm lợi ích đại diện cho các hội viên dựa trên lợi
ích chung và bảo vệ lợi ích đó. Thông qua các nhóm lợi ích góp phần giám sát
quyền lực nhà nước.
Ở Nhật Bản, các tổ chức xã hội dân sự rất phát triển, đó là những hội, hiệp
hội và tổ chức khác nhau hoặc liên kết hoặc độc lập luôn tác động, giám sát quyền
lực nhà nước; nhà nước trên cơ sở pháp luật luôn mở rộng và tạo điều kiện để các
tổ chức xã hội dân sự phát triển. Chính phủ Nhật Bản luôn coi trọng, lắng nghe,
5
tiếp thu những tham gia, đòi hỏi, yêu cầu hợp lý của các tổ chức xã hội dân sự và
coi đó là một trong những biện pháp để Chính phủ phải có ý thức về trách nhiệm
hơn trong sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc ban hành và thực hiện chính
sách của mình.
Các nước Bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch, Aixơlen, Phần Lan
đều là những nước phát triển. Ngoài tự do, dân chủ, các đất nước trên đều đề cao
tính công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước và coi trọng phát triển
các tổ chức xã hội dân sự. Ở Thuỵ Điển, hệ thống chính trị tạo điều kiện để các lực
lượng xã hội tích cực tham gia các hiệp hội, đảng phái và thông qua đó sẽ tác động
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chính trị của quốc gia. Các tổ chức xã hội dân sự
có vai trò bổ sung và đóng góp quan trọng vào quan điểm của Chính phủ, được coi
như trường học cho dân chủ và quyền công dân và là công cụ để nhân dân tham gia
hoạt động chính trị, chia sẻ trách nhiệm xã hội với nhà nước.
Như vậy, so với các quốc gia khác ở Tây Âu, Đông Âu và Nhật Bản sự khác
biệt giữa nhà nước và xã hội dân sự ở Thuỵ Điển rất nhỏ. Các lực lượng xã hội dân
sự được tổ chức hiệu quả đã tác động đến quá trình ổn định chính trị, xã hội của đất
nước. Điều này cho thấy xã hội dân sự có vai trò rõ nét trong hoạt động kiểm soát
quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác thúc đẩy phát triển xã hội dân sự là một
trong những giải pháp để kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài có hiệu quả.
- Thứ tư, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng các phương
tiện truyền thông đại chúng
Truyền thông đại chúng là một biện pháp để công khai, minh bạch hoạt động
quyền lực nhà nước trước nhân dân. Trong thời đại ngày nay, với khoa học công
nghệ vượt trội, truyền thông đại chúng có ưu thế rõ rệt, ngoài các chức năng phổ
biến khác thì truyền thông đại chúng: "thực hiện hai chức năng chính: Thứ nhất,
thông báo cho công chúng biết các nhà lãnh đạo của mình đang làm gì. Thứ hai,
giám sát các hành động của Chính phủ". Cung cấp thông tin nhanh, rộng, toàn diện
và công khai chính là truyền thông đã thể hiện một khía cạnh của mình đó là kiểm
soát quyền lực nhà nước. Thể chế chính trị, pháp lý có vai trò quan trọng đối với
tác dụng và sự phát triển của truyền thông đại chúng và ngược lại truyền thông đại
chúng cũng có vai trò tạo lập và thúc đẩy dân chủ, là một trong những biểu hiện
của dân chủ, đồng thời là phương tiện bảo đảm dân chủ và minh bạch hoá mọi hoạt
động của quyền lực nhà nước. Một mặt, nhà nước sử dụng truyền thông để thực
6
hiện quyền lực và mặt khác, nhân dân sử dụng phương tiện truyền thông để kiểm
soát quyền lực nhà nước. Khi phân loại theo tính chất chủ thể thì đó là một thiết
chế (lực lượng) mang tính nhân dân (xã hội). Khi xem xét vai trò thông tin thì đó là
phương tiện. Nó được quan niệm là hoạt động chuyển giao các thông tin có tính
phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi và công khai đến công chúng.
Các phương tiện truyền thông đại chúng ở các nước dân chủ tư sản vô cùng
đa dạng, phong phú về chủng loại, về sở hữu, về khả năng thông tin, khả năng tác
động đến công chúng và chúng được sử dụng cho các mục đích khác nhau, đặc biệt
là sử dụng cho mục đích chính trị và xã hội. Là thiết chế rộng rãi và hoạt động tự
do nên chúng được coi như ngọn đèn pha soi rọi mọi ngóc ngách xã hội, phơi bày,
mổ xẻ hiện thực xã hội, kết quả đó làm cho công luận phản ứng buộc các chính
phủ phải nghiêm túc thực thi pháp luật và các chính sách hợp lòng dân. Nó không
đơn thuần chỉ là công cụ, phương tiện của đảng cầm quyền, chính phủ hay giới chủ
mà nó còn là diễn đàn xã hội, diễn đàn của nhân dân, là công cụ, phương tiện hữu
hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước. Một thực tế cho thấy các nước phát triển
đều là những nước dân chủ mà ở đó các phương tiện truyền thông đại chúng được
tự do thành lập và hoạt động với nhiều hình thức sở hữu trên cơ sở quy định của
pháp luật.
Hệ thống truyền thông đại chúng của nước Mỹ rất phát triển, nó là một hệ
thống đồ sộ, phức tạp và hùng mạnh nhất thế giới. Chính vì vậy, nó luôn đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động chính trị, xã hội của nước Mỹ, nó tác
động, ảnh hưởng sâu sắc đến cả chính quyền và người dân, đặc biệt nó là công cụ
xã hội có quyền lực mà các chủ thể chính trị luôn phải kiêng dè. Tại nước Mỹ,
phần lớn cơ quan truyền thông đại chúng thuộc sở hữu tư nhân, nó vừa có mục
đích kinh doanh vừa có mục đích chính trị và được coi là «quyền lực thứ tư » sau
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mặc dù không thực hiện quyền lực theo phân
công của hiến pháp nhưng truyền thông đại chúng có thể định hướng được công
chúng và điều này khiến nó trở thành nhân tố quan trọng trong đời sống chính trị
xã hội của nước Mỹ.
Ở Vương quốc Anh, truyền thông báo chí có lịch sử lâu đời và có xu hướng
phát triển ổn định, 70% nhật báo là thuộc về các tập đoàn truyền thông. Truyền
thông đại chúng ở Anh ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, xã
7
hội của đất nước, là chủ thể đồng thời là phương tiện quan trọng kiểm soát quyền
lực nhà nước của nhân dân.
Ở Cộng hoà Pháp, báo chí là sản phẩm ra đời sớm và luôn phát triển mạnh,
đa dạng, trong đó báo của các đảng phái chính trị, các tôn giáo, các ngành, giới,
hội, hiệp hội nhằm tuyền truyền tư tưởng, quan điểm, đường lối đến công chúng,
thu hút, vận động công chúng được hoạt động tự do. Điều khác biệt với phương
tiện truyền thông đại chúng của các nước Anh- Mỹ (sở hữu tư nhân là chủ yếu) thì
là ở Pháp, nhà nước trực tiếp quản lý một số hãng thông tấn, cơ quan báo chí và chi
phối thông tin trên cả nước.
Các phương tiện truyền thông đại chúng luôn gắn liền với tự do ngôn luận,
tự do báo chí. Vấn đề chung trên thế giới là các phương tiện truyền thông đại
chúng và hoạt động truyền thông đều phải chịu sự quản lý của nhà nước theo pháp
luật. Quản lý ở đây không theo nghĩa là chủ quản, chỉ đạo mà chính là xác lập thể
chế, khung pháp lý và là trọng tài bảo đảm cho hoạt động truyền thông đại chúng
không vượt ra ngoài khôn khổ, giới hạn mà pháp luật quy định. Mặt khác, tự do
ngôn luận và tự do báo chí luôn gắn liền với thể chế chính trị, pháp lý của mỗi
quốc gia, thể chế đó chi phối và quyết định mặt tích cực hay tiêu cực của truyền
thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò đến đâu trong
hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước tùy thuộc vào vị trí của thiết chế đó trong
cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước. Nếu cơ chế tự do, dân chủ
thì truyền thông có tác dụng rất mạnh mẽ đến công luận, đến chính phủ, các nhà
chính trị, các đảng phái ... và đó là một hình thức đồng thời là một phương tiện hữu
hiệu để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Thứ năm, bầu cử tự do và giới hạn nhiệm kỳ được xem là một phương thức để
kiểm soát quyền lực nhà nước
Bầu cử tự do và giới hạn nhiệm kỳ là những yếu tố để công khai, minh bạch
hoạt động quyền lực nhà nước được các nước dân chủ tư sản hết sức coi trọng. Nó
là yếu tố cơ bản để thực hiện việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. Bầu
cử là hình thức uỷ quyền từ nhân dân tới những người đại diện. Chính vì vậy mà
nó được xem là một phương thức để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.
Việc bầu cử các chức danh nguyên thủ quốc gia, nghị sĩ quốc hội ở các nước
dân chủ tư sản luôn là cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các ứng cử viên trong các
đảng phái với nhau, giữa ứng cử viên của các đảng phái chính trị với nhau và giữa
8
đảng cầm quyền với đảng đối lập. Nhân dân trên cơ sở pháp luật, qua phương tiện
thông tin đại chúng, qua tiếp xúc với ứng cử viên...có thể tự do biểu đạt ý chí của
mình bằng quyết định lựa chọn bầu hay không bầu cho ứng cử viên nào. Để bầu cử
được tự do, dân chủ thể hiện trọn vẹn ý chí của người dân vào sự lựa chọn đại diện
cho mình thì phải có một cơ chế pháp lý bảo đảm được điều đó.
Cách thức vận hành của các cuộc bầu cử ở Mỹ rất phức tạp và đôi khi còn
khó hiểu nhưng đảm bảo mọi công dân Mỹ, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử.
Cứ bốn năm một lần, người Mỹ lại đi bầu tổng thống và phó tổng thống. Cứ hai
năm một lần, người Mỹ đi bầu lại tất cả 435 thành viên Hạ viện và khoảng 1/3
trong số 100 thành viên của Thượng viện. Nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ kéo dài
6 năm. Điều bổ sung sửa đổi thứ 22 của Hiến pháp Mỹ được phê chuẩn năm 1951
cấm Tổng thống Mỹ không được nắm quyền quá hai nhiệm kỳ. Tuy nhiên, Hiến
pháp không áp đặt thời hạn nhiệm kỳ đối với hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ.
Ở Anh, 5 năm 1 lần, cử tri lựa chọn đại biểu của mình vào Hạ viện. Nhân dân kiểm
soát nhà nước bằng lá phiếu của mình nếu đảng cầm quyền và những người đại
diện cho đảng đó không còn uy tín hay lạm dụng quyền lực cho lợi ích riêng thì
các cử tri sẽ bỏ phiếu cho đối lập vào cuộc bầu cử tới. Như vậy, bầu cử tự do, dân
chủ và giới hạn nhiệm kỳ người giữ chức vụ trong bộ máy quyền lực nhà nước
được coi là một phương tiện pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.
Điều này không chỉ diễn ra ở Anh mà còn là xu hướng chung của nhiều nước dân
chủ tư sản trên thế giới.
1.3.
Nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của
tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Tính phức
tạp đó, một mặt do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự lạm
dụng nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào.
Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước mà lại không
làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc nhà
nước. Cái khó nhất trong thiết kế một chính quyền nhà nước trước hết là làm cho
bộ máy nhà nước có khả năng kiểm soát được xã hội và sau nữa - không kém phần
quan trọng - là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm
soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi
quyền lực nhà nước sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu
9
quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những
phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó, Nhà nước và xã hội có thể ngăn
chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát
hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực
nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Vì thế,
quyền lực nhà nước chỉ có thể kiểm soát được khi có cơ chế xác định và các điều
kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm kiểm soát
bên ngoài, lẫn kiểm soát bên trong quyền lực nhà nước.
Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, là
loại bỏ những điều kiện xã hội đã sản sinh ra Nhà nước và giai cấp. Đây chính là
quá trình khắc phục sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước
trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân, quyền lực thực hiện chức
năng công quản xã hội. Vì thế, có thể nói, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà
nước là: đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích; và đảm
bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả.
Để khắc phục những nhược điểm của hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước, kiểm soát quyền lực được xem là một nguyên tắc hiến định. Vì thế, kiểm
soát quyền lực cần được ghi nhận và bổ sung vào Hiến pháp và tiếp tục thể chế
trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Việc thể chế nguyên tắc kiểm soát
quyền lực của Cương lĩnh thành nguyên tắc hiến định và tiếp tục cụ thể hóa trong
các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời gian sắp tới, cần tập trung vào
các nội dung sau đây:
- Xuất phát từ bản chất của hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt
động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý, nên kiểm
soát quyền lực nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Đảng lãnh đạo đối
với Nhà nước quản lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối quan hệ tất yếu lịch sử và
khách quan ở nước ta.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất
của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đồng thời, xây dựng
một cơ chế giám sát hữu hiệu để nhân dân kiểm soát được quyền lực nhà nước đã
giao, đã ủy quyền cho Nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện và cụ thể hóa cơ chế nhân
10
dân thực hiện được quyền bãi nhiệm và miễn nhiệm những người do mình bầu ra
khi họ không còn xứng đáng (đã được Hiến pháp quy định nhưng trong thực tiễn,
nhân dân chưa thực hiện được).
- Kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức quyền lực nhà nước (giữa các thành
tố cấu thành quyền lực nhà nước: giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp và giữa
quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương). Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn
quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi
quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của
mỗi quyền.” Từ đó ta có thể thấy rằng đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
2. Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Kiểm soát quyền lực ở nước ta luôn bảo đảm và thể hiện sự thống nhất về
bản chất của mối quan hệ trong hệ thống chính trị. Điều này còn thể hiện tính nhất
quán ngay trong Hiến pháp năm 2013. Đó là: sự lãnh đạo, vai trò cầm quyền chỉ do
một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) nắm giữ.
Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam một
yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói, lần đầu tiên trong văn
kiện của Đảng ta đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất
so với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước tập quyền xã hội chủ
nghĩa. Đó là nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Thể chế hóa nguyên tắc này, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2- Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
11
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức; 3- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”.
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực
nhà nước là nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, bản chất của Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nhân dân là người làm chủ Nhà nước. Nếu không kiểm soát được quyền
lực nhà nước thì quyền lực nhà nước sẽ bị tha hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền,
ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho Nhà nước sẽ bị mất quyền, bị lạm
quyền từ phía Nhà nước.
Thứ hai, nói đến kiểm soát quyền lực nhà nước, điều quan trọng trước tiên là
tổ chức bộ máy nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách đúng đắn,
mạch lạc giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp năm 2013 quy
định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Việc
thừa nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp là một đổi mới quan trọng so với mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước
đây. Nó tạo điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng đắn, mạch
lạc giữa các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và tòa án nhân dân trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây chính là cơ sở để kiểm soát quyền lực
nhà nước và nhân dân có căn cứ để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực
hiện quyền lực nhà nước của mỗi quyền; đồng thời khắc phục được sự trùng lắp,
dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây và xây dựng cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 đã tạo lập cơ sở hiến định để hình thành cơ chế
bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119); đồng thời giao cho“Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”.
Quan hệ kiểm soát quyền lực giữa cơ quan quyền lực với cơ quan chấp hành
dựa trên nền tảng của dân chủ XHCN; hoạt động kiểm soát quyền lực trong hệ
12
thống hành chính (biểu hiện qua quan hệ thứ bậc trên dưới) được thiết lập vững
chắc.
Quan niệm về kiểm soát, thiết kế tổ chức (trong Đảng, Nhà nước, các cơ cấu
bên trong Nhà nước...), triển khai thực thi việc kiểm soát quyền lực đã đạt được
những kết quả đáng ghi nhận:
Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực bảo đảm giữ vững chế độ và ổn định xã
hội, giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Hai là, do không có sự cạnh tranh quyền lực của các lực lượng chính nên sự
giám sát của Đảng đối với Nhà nước được bảo đảm, thể hiện qua việc định ra chủ
trương, đường lối và được cụ thể hóa ở từng giai đoạn. Từ đó, làm cơ sở cho Nhà
nước xây dựng thể chế (Hiến pháp, luật về tổ chức nhà nước và quản lý xã hội trên
các lĩnh vực), thiết kế tổ chức và hoạt động điều hành quản lý xã hội.
Ba là, đổi mới theo nguyện vọng của nhân dân, trước hết bảo đảm các quyền
cơ bản trong Nhà nước dân chủ, định ra chủ trương phân định chức năng bên trong
Nhà nước (trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp); xây
dựng đường lối phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại theo hướng hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, ngày càng nâng tầm mức của quan hệ với nhiều quốc gia có
chế độ chính trị khác nhau.
*Tồn tại, hạn chế của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của nước ta:
Về nhận thức, thói quen truyền thống của mô hình tổ chức quyền lực nhà
nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được tuyệt đối hóa, trở thành sức
ỳ, cản trở việc thực hiện những tư duy, nhận thức mới. Vì thế, cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước, xét về phương diện nhận thức, còn nhiều vấn đề thiếu nhất
quán, mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, Hiến pháp năm 2013 thừa nhận nhân dân là chủ
thể của quyền lập hiến, là người “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp” (Lời
nói đầu), nhưng chưa ghi nhận cơ chế tài phán các vi phạm Hiến pháp trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, như văn kiện của Đảng đã chỉ
ra. Do đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội chưa có cơ chế kiểm soát. Có thể nói,
nhiều vấn đề rất mới, rất phù hợp với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, như “Phân công, phối hợp và kiểm soát
13
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”... chưa có được nhận
thức hoàn toàn thống nhất, nhất quán và sâu sắc trong các đạo luật, nhất là các đạo
luật về tổ chức bộ máy nhà nước ban hành sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu
lực.
Về thực tiễn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, kể cả
sau khi có Hiến pháp năm 2013 cũng chưa hoàn thiện. Vẫn chưa có thiết chế bảo
vệ Hiến pháp độc lập, như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ ra: “Xây dựng cơ
chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội vẫn nằm ngoài cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp là phương tiện chủ yếu phục vụ
cho quản lý nhà nước, được xem là một thiết chế độc lập thực hành kiểm soát
quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế, Thanh tra Chính phủ và thanh tra của các
cơ quan quản lý nhà nước là những thiết chế phụ thuộc vào thủ trưởng quản lý,
phục vụ cho quản lý nhà nước. Vì thế, thanh tra, kiểm tra trong bộ máy quản lý nhà
nước không phải là chủ thể và là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước theo
đúng nghĩa.
Việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ quan
ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước của viện kiểm
sát nhân dân để chuyển cho các cơ quan dân cử và cơ quan thanh tra, kiểm tra
trong bộ máy hành pháp sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001 dường
như đã làm cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước không được tăng cường, nhiều
biểu hiện tiêu cực, tham nhũng phát hiện và xử lý chậm, không kịp thời.
Đối với nội bộ Đảng, hệ thống ủy ban kiểm tra thực chất cũng làm nhiệm vụ
kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc kiểm tra các cán bộ, đảng viên trong
bộ máy nhà nước. Nhưng ủy ban kiểm tra của các tổ chức đảng lại chỉ hoạt động
khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu chủ động và không mang tính toàn diện của
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò quan trọng trong việc góp
phần kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa được phát huy một cách đầy đủ.
KẾT LUẬN
14
Kiểm soát quyền lực nhà nước (thanh tra, kiểm tra, giám sát) được thực hiện
bằng công cụ pháp luật hiệu quả nhất, là phương thức thực hiện quyền lực Nhà
nước, nhằm duy trì bản chất một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân, và phải tiến hành đồng bộ với sự đổi mới từng bước thuộc
hệ thống chính trị ở nước ta. Cần coi trọng hiệu quả của hai hệ thống kiểm soát
quyền lực: từ bên trong bộ máy nhà nước và từ xã hội công dân; thực hiện giám
sát, kiểm soát hai chiều từ dưới lên và trên xuống. Đây cũng là nội dung cơ bản và
là mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng ở nước ta hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác-Lênin (dùng trong các trường
2.
đại học, cao đẳng), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, 2007.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
VII, VIII, IX, X, Nxb. CTQG, Hà Nội.
15
3.
/>
4.
%20Huong.pdf
/>
16