Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Triết học phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo với việt nam tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.79 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Phật giáo xuất hiện ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên.
Tính từ đó đến nay đã trải qua gần 2000 năm có lúc thịnh suy, mạnh yếu nhưng
Phật giáo đã tự khẳng định mình như một thành tố không thể tách rời của nền
văn hoá Việt.
Theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện nay cả nước có
26.268 tăng ni với 18.227 tăng ni Bắc Tông, 7.309 chư tăng Nam Tông và hàng
triệu tín đồ Phật tử. Mặt dù với số lượng đông đảo như vậy nhưng có nhiều lý
do khiến chokhả năng nhận thức và tầm hiểu biết của quần chúng về đạo Phật
còn nhiều sai lầm và thiếu sót.
Thứ nhất, nhiều người đã nhận thức đạo Phật qua các đạo giáo khác, nhất
là các đạo giáo thần quyền. Mà đạo Phật lại bác bỏ các thần quyền lẫn giáo
quyền, bác bỏ các khái niệm Thượng đế tạo thế và linh hồn bất tử, chống mọi
hình thức cuồng tín và mê tín.
Thứ hai, một số nhà nghiên cứu về đạo Phật nhận thức đạo Phật một cách
sai lầm, nghiên cứu kinh sách Phật theo kiểu tầm chương trích cú, rất công phu,
tỉ mỉ nhưng chính lại bỏ rơi mất tinh thần căn bản của đạo Phật là đòi hỏi một sự
thể hội qua cuộc sống, là đạo rất khó tiếp cận trên bình diện học thuật đơn
thuần.
Thứ ba, bản thân đạo Phật là đạo thâm sâu, khó hiểu, khó tu mà tâm lý
con người ta thường thiên về cái dễ, cái vui thú dễ dàng, cái hợp với tâm tình
sâu kín của mình. Người đời coi trọng nhất là bản thân mình, là cái ta, nhưng
đạo Phật lại giảng thuyết Vô ngã, tức là không có cái ta. Nhiều tôn giáo tồn tại
được là nhờ dựa vào khái niệm linh hồn bất tử. Nhưng đạo Phật lại bác bỏ
thuyết đấng tạo hóa và thuyết linh hồn. Đạo Phật nói đấng tạo hoá hay linh hồn
cũng đều là những biến tướng của cái “ta” mà thôi. Con người vì bản năng tự vệ
đã tạo ra khái niệm Thượng đế để che chở phù hộ mình, lại vì bản năng tự tồn
nên tạo ra khái niệm linh hồn bất tử để an ủi mình.
Người đời ít ai không đam mê “ngũ dục và tứ khoái” nhưng đạo Phật lại
giảng thuyết ly dục, xem đó như là một biện pháp cứu cánh để đảm bảo một đời
sống thật sự an lạc. Đạo Phật nói người đam mê nhục dục cũng như người khát


nước mà còn ăn mặn, lại càng thêm khát.
1


Hơn nữa, kinh sách của Phật giáo lại quá nhiều, phần lớn bằng tiếng nước
ngoài, các bản dịch đã ít lại khó hiểu. Đạo Phật có lắm Tông, nhiều phái, dễ gây
ấn tượng ban đầu một cái gì lộn xộn, thiếu quy củ, do đó mà khó nghiên cứu đào
sâu.
Mặc dù những khó khăn trùng điệp kể trên nhưng chúng ta nên tổ chức,
nghiên cứu đạo Phật theo quan điểm khoa học. Nghiên cứu không chỉ vì mục
đích hiểu biết. Đạo Phật xuất hiện ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ 2 sau công
nguyên. Từ đó đến nay, đạo Phật đã cống hiến cho đất nước ta, dân tộc ta,
những giá trị văn hoá, đạo đức gì cần được bảo tồn và phát huy và những ảnh
hưởng tiêu cực của đạo Phật cũng cần được xác định rõ ràng và phê phán
nghiêm túc. Ngược trở lại dòng thời gian, đất nước ta, dân tộc ta qua bao nhiêu
thế hệ Thiền sư và Tăng Ni đạo cao, đức trọng, học hành uyên bác, qua các bậc
minh quân và sĩ phu sùng đạo đời Lý, đời Trần.v.v... đã cống hiến gì cho đạo
Phật, đem lại cho đạo Phật những bản sắc văn hoá Việt, làm nên một Phật giáo
Việt Nam với nhiều nét độc đáo. Nghĩa là chúng ta sẽ nghiên cứu sự cống hiến
hai chiều. Đạo Phật cống hiến gì cho dân tộc Việt Nam? Và dân tộc Việt Nam đã
cống hiến gì cho đạo Phật?
Không ai có thể nghiên cứu, tìm hiểu Phật giáo Việt Nam bằng người Việt
Nam chúng ta, thay chúng ta, hơn chúng ta. Trong việc nghiên cứu tìm hiểu này,
quan điểm khoa học Mác - Lênin sẽ cho chúng ta một phương pháp luận sắc
bén. Cuộc vận động đi lên chủ nghĩa Mác là cuộc vận động biện chứng, nó
không phủ định mà thâu nạp có phê phán. Sự tiếp xúc của chủ nghĩa Mác với
các hệ tư tưởng khác khiến cho chủ nghĩa Mác càng thêm phong phú và sống
động. Như Lênin nói: “Qua tranh luận, bùng ra tia sáng chân lý”.
Có người nói: “Cuộc đàm thoại giữa đạo Phật và chủ nghĩa Mác là cuộc
đàm thoại giữa hai người điếc”. Đó là một lời nói chia rẽ, nó chứng tỏ người nói

không hiểu gì về đạo Phật, cũng không hiểu gì về chủ nghĩa Mác. Đạo Phật
trước nay vốn tiêu biểu cho một hệ tư tưởng bao dung, rộng rãi, chống mọi chấp
nê và giáo điều, nên có thể khẳng định đạo Phật sẵn sàng đàm thoại, sẵn sàng

2


học hỏi, nghiên cứu mọi tự trào mới, đặc biệt là chủ nghĩa Mác phong phú và
đầy sức sống.
Hiện nay ở Việt Nam, Phật giáo có một lực lượng quần chúng đông đảo.
Chúng ta hy vọng họ sẽ là một lực lượng tích cực tham gia xây dựng quốc gia
phú cường trên nền tảngmột nước Việt Nam thống nhất. Muốn vậy chúng ta phải
tìm hiểu cốt tuỷ của giáo lý đã chinh phục trái tim và khối óc của họ. Thực tế đã
cho thấy tuyệt đại đa số Phật tử, Tăng Ni cũng như các cư sĩ đều tích cực, ủng
hộ cách mạng và hết lòng hết sức đóng góp vào sự nghiệp chung. Trong lĩnh vực
sản xuất, một cuộc vận động kinh tế tự túc đang diễn ra sôi nổi trên khắp các
Tùng lâm, chùa chiền, thiền viện.
Về mặt quốc tế đối ngoại, Phật giáo Việt Nam có khả năng giúp nhiều vào
sự nghiệp làm cho các dân tộc thông cảm hiểu biết lẫn nhau, đặc biệt là các dân
tộc châu Á vốn tín ngưỡng phật giáo.
Vì vậy, tiếng nói Phật giáo rất có thể là tiếng nói cộng đồng của nhiều dân
tộc, nhất là ở Á châu. Một thứ tiếng nói ngoại giao mang nhiều hình thức phong
phú của nghệ thuật, kiến trúc, văn học.
Chỉ với bấy nhiêu lý do đấy thôi, chúng ta nên chú ý tới đạo Phật và đặt
vấn đề nghiên cứu đạo Phật một cách nghiêm túc và khoa học.

3


Chương I:

CÁC VẤN ĐỀ PHẬT HỌC
PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ TÔN GIÁO HAY KHÔNG?
I - CÁC ĐỊNH NGHĨA KHÁC NHAU VỀ TÔN GIÁO:
Đối với người trí thức Việt Nam am hiểu tiếng Pháp, tiếng Anh khi nói
đến tôn giáo thì lập tức họ nghĩ đến từ Religion. Mà từ Religion này lại không
có một từ có nghĩa tương đương trong bất cứ một thứ ngôn ngữ Á châu nào.
Giáo sư Rhys Bavid trong cuốn David Rhys - Buddhism cho rằng Religion bắt
nguồn từ chữ “re” và “lego” có nghĩa là đọc đi đọc lại các lời tán tụng và cầu
nguyện. Một kiểu giải thích khách cho rằng từ Religion nghĩa là gắn bó thường
xuyên với các thiên thần. Theo một kiểu giải thích thứ ba thì Religion là tinh
thần tôn trọng luật với một ý thức tỷ mỉ, đầy đủ. Nói chung các học giả phương
Tây hiểu Religion như một hệ thống tín ngưỡng và lễ nghi; tín ngưỡng có những
lực lượng siêu nhiên và nếu thực hành một số nghi lễ nhất định thì sẽ được
những lực lượng siêu nhiên đó che chở, phù hộ. Truyền thống tế đàn của đạo Bà
la môn chính dựa trên khái niệm tôn giáo này. Tổ chức tế đàn và những lễ nghi
phức tạp nhằm mục đích kêu gọi sự gia hộ của các thần linh.
Các nhà nhân chủng học phương Tây khi nghiên cứu các hình thức tôn
giáo nguyên thuỷ đều có quan điểm tương tự. Ví dụ: Tylor, trong cuốn “Văn hoá
Nguyên Thuỷ” cho rằng một định nghĩa tối thiểu về tôn giáo như sau: “Tôn giáo
là tín ngưỡng ở thần linh”. Một số tác giả khác nhận xét rằng, điều quan trọng
đối với tôn giáo nguyên thuỷ không phải là tín ngưỡng và giáo điều mà là hành,
tức là lễ nghi.
Tóm lại, theo quan điểm tương đối nhất trí của các học giả tây phương thì
tôn giáo là một hệ thống tín ngưỡng và lễ nghi, vì lễ nghi ngày càng nhiều và
phức tạp cho nên sinh ra một lớp người trong xã hội chuyên lo việc tổ chức lễ
nghi và cúng bái, như đẳng cấp Bà-La-môn ở Ấn Độ cổ đại. Bertrand Russell
trong cuốn “Khoa học và Tôn giáo” đưa ra định nghĩa sau: “Một tôn giáo lớn
bao giờ cũng gồm có một hệ thống tín điều, một hệ thống đạo đức và một Giáo
hội”. Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được mà phải sống theo
4



những khuôn phép đạo đức, hợp với tín điều của tôn giáo mình. Hành đạo không
phải chỉ là thực hành nghi lễ mà còn sống theo những quy tắc đạo đức nhất định.
Đạo đức trở thành một bộ phận cấu thành của tôn giáo.
Vì tôn giáo nào cũng có một số huyền thoại nhiều hay ít, có sức hấp dẫn
lớn đối với quần chúng đông đảo nên có tác giả cho rằng một tôn giáo lớn
thường có ba dấu hiệu:
Một hệ triết lý đạo đức
Một hệ huyền thoại
Các hình thức lễ nghi.
Từ Trung Quốc “tôn giáo” có nghĩa là giáo lý theo một tông chỉ nhất định.
Trong nội dung từ này người ta thấy không có hàm nghĩa rõ rệt tín ngưỡng và lễ
nghi. Tuy nhiên, người ta có thể suy luận rằng, muốn đi theo một con đường,
muốn theo một giáo lý thì trước hết phải có lòng tin, phải có tín ngưỡng.
Tóm lại nếu định nghĩa tôn giáo như một cơ cấu gồm 3 bộ phận cấu thành
là một hệ thống triết học đạo đức, một hệ huyền thoại và các hình thức lễ nghi,
thì đạo Phật là một tôn giáo, tuy rằng huyền thoại và nghi lễ ở đạo Phật có sắc
thái và ý nghĩa đặc biệt, khác với các tôn giáo khác.
Riêng về định nghĩa của Betrand Russell thì đạo Phật tuy thừa nhận mình
có một hệ đạo đức, một Giáo hội nhưng tuyệt đối không chấp nhận mình có một
hệ tín điều, nghĩa là một số nguyên lý mà Phật tử bắt buộc phải tin, không qua
suy xét, phân tích, vì vậy mà Phật giáo trước sau vẫn tuyên bố mình là một tôn
giáo có tín điều.
II- ĐẠO PHẬT KHÔNG CÓ TÍN ĐIỀU:
Phật giáo có một hệ nguyên lý triết học cơ bản, nhưng Phật giáo không có
tín điều. Tín điều hiểu theo nghĩa là giáo lý phải được tuyệt đối chấp nhận,
không cần và không qua suy xét, lập luận. Phật giáo chống mê tín và cuồng tín
dưới mọi hình thức. Chúng ta biết đức tín là một sức mạnh. Còn cuồng tín là sức
mạnh của kẻ điên, một sức mạnh phá hoại ghê gớm. Mê tín cuồng tín dẫn tới

hẹp hòi, cứng nhắc và tàn nhẫn, chúng có thể dẫn tới xung đột và chiến tranh
tôn giáo, dẫn tới các phiên toà tôn giáo và kết thúc bằng cực hình thiêu sống,
5


lăng trì, tùng xẻo, chặt đầu... Trong lịch sử nhân loại có hàng triệu người tử vì
đạo, nhưng lại có một số người lớn hơn thế phải chết vì tội không tin đạo. Thế
nhưng trong hơn 2500 năm Phật giáo tồn tại không ghi nhận một chiến tranh
truyền đạo nào cả. Điều này chứng tỏ sức mạnh thuyết phục trái tim và khối óc
của đạo phật, không phải ở gươm giáo, súng đạn mà đạo Phật cũng không thể bị
khuất phục bằng gươm giáo, súng đạn.
Có sử gia nói cuộc xâm lăng của đạo quân Hồi giáo vào thế kỷ 12 đã tiêu
diệt đạo Phật ở Ấn Độ. Không đúng như vậy. Nguyên nhân cơ bản khiến cho
Phật giáo suy vong ở Ấn Độ bắt đầu từ thế kỷ 12 là sự thoái hoá của bản thân
Tăng đoàn Phật giáo ở Ấn Độ, thời bấy giờ và có những nguyên nhân phụ là sự
phản kích của Bà-la-môn giáo và sự xâm lăng của các đạo quân hồi giáo.
Đạo Phật xuất hiện như một tự trào cách mạng vào thế kỷ thứ V trước
Tây lịch ở Ấn Độ- Bác bỏ Thánh điển Veda và khái niệm Brahma là đấng tạo thế
tối thượng.
Đạo Phật đã xuất hiện ở ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ v trước Công
Nguyên như một tự trào cách mạng chống lại quyền uy đối tượng lúc bấy
giờ của đạo Bà-la-môn và đẳng cấp Bà-la-môn.
Đức phật Thích ca không thừa nhận cái gọi là “Thánh điển Veda” như là
sưu tập những lời nói của Thánh, và bởi vì là lời nói của Thánh, cho nên là chân
lý, là khó hiểu, tối nghĩa, chỉ có giới Tăng sỹ Bà-La-Môn là có thể “hiểu” và giải
nghĩa được và tất nhiên, họ đã giải nghĩa “Thánh điển Veda” theo chiều có lợi
cho rằng cấp Bà-La-Môn. Rằng, bà Bà-La-Môn là do từ miệng của đấng Phạm
thiên “Brahma” sinh ra, còn Sát-đế-lị (đẳng cấp vua chúa, quý tộc, địa chủ) sinh
ra từ rốn, Vệ xá (đẳng cấp thương nhân) sinh ra từ bên hông; còn Thủ-đà-la,
đẳng cấp thấp nhất sinh ra từ ở dưới bàn chân của Phạm thiên. Những tu sỹ BàLa-Môn còn đặt ra bộ luật Manu rất khắt khe nhằm vĩnh viễn duy trì chế độ,

đẳng cấp và địa vị xã hội độc tôn của họ.
Theo quan điểm của họ, Phạm thiên là đấng chúa tể tạo ra vạn vật, muôn
loài, và đích cao nhất của người tu đạo Bà-La-Môn là hoà hợp với Phạm thiên.

6


Đức Phật Thích ca không những bác bỏ Thánh điển Veda, mà còn bác bỏ
luôn khái niệm Phạm thiên là đấng sáng tạo ra muôn vật, muôn loài. Phật cho
rằng: Phạm thiên chỉ là một giống sinh vật cao cấp hơn người, tuy sống hạnh
phúc và thọ mạng lâu hơn người nhưng vẫn ở trong vòng sống chết luân hồi.
Bản thân Phạm thiên, chính vì thiếu trí tuệ, cho nên tự cho mình là Thượng đế,
là đấng tạo thế, còn những người tu đạo Bà-La-Môn, tuy tự đặt cho mình cái
đích cao nhất là hoà mình vào Phạm thiên nhưng từ trước tới nay chưa từng có
một tu sĩ Bà-La-Môn nào dám mạo nhận mình đã hoà hợp được với Phạm Thiên
cả. Đức Phật Thích ca ví đoàn giáo sĩ Bà-La-Môn như một đoàn người mù, ôm
lưng nhau mà đi trong bóng tối, người trước dẫn người sau, nhưng không đi tới
đâu cả.
Đạo Phật cho rằng khái niệm Đấng tạo thế tối thượng là một biến tướng
của khả năng tự vệ của con người. Chính bản năng tự vệ đó tha hoá mà thành
Đấng tạo thế. Con người cần tự vệ chống lại các lực lượng thù địch trong tự
nhiên và xã hội cho nên con người sáng tạo Đấng tạo thế cũng như các vị thần
linh khác để cầu mong sự phù hộ, che chở (chúng ta nghĩ đến quan điểm của
Fơbach:" Thượng đế là sản phẩm tha hoá của con người").
Đồng thời, đạo Phật cũng bác bỏ khái niệm linh hồn như là một biến
tướng của bản năng tự tồn của con người. Con người vốn sợ chết. Con người
vốn cầu mong trường sinh bất tử. Các tôn giáo đều biết “đầu cơ” bản năng tự
tồn đó của con người, cho nên đều khẳng định trong con người ngoài phần xác
có sinh diệt, còn có phần hồn bất tử. Sau khi người chết đi, linh hồn của người
có thể bay lên Thiên đàng sống mãi mãi với Chúa, hoặc sa xuống địa ngục sống

mãi mãi với quỷ.
Đạo Phật chủ trương thuyết Vô ngã đối với mọi sự, mọi vật, kể cả con
người. Vô ngã nghĩa là không có chủ thể, vạn vật đều do nhân duyên hợp thành.
Nhân duyên hoà hợp thì gọi là sinh, nhân duyên ly tán thì gọi là diệt, là chết.
Chính vì lẽ đó mà mọi sự, mọi vật trong vũ trụ, từ cái lớn và có vẻ vững chắc
như núi cao, biển rộng, sông dài đến những cái nhỏ nhiệm nhất, tất cả đều biến
động không ngừng, đều kinh qua các chu kỳ nối tiếp: Thành, trụ, hoại, không.
Mà sở dĩ như vậy là vì thuyết nhân duyên, một thuyết cơ bản của đạo Phật. Đạo
7


Phật bác bỏ thuyết tự nhiên sinh, ngẫu nhiên sinh cũng như thuyết nhất nguyên
sinh, dù cho cái nhất nguyên đó là một Đấng tạo thế nhân cách hoá hay là một
đại ngã theo kiểu Atman của Ấn Độ giáo. Thuyết nhân duyên sinh cũng gọi là
thuyết nhân quả là một bước tiến lớn so với bối cảnh tư tưởng đương thời. Theo
thuyết nhân duyên sinh, mọi sự việc xảy ra trong xã hội và tự nhiên đều do quy
luật nhân quả chi phối chứ không phải do một Thượng đế nào an bài, cũng
không phải do một trò chơi nào của ngẫu nhiên. Đấy là quy luật hoàn thiện và
công bằng nhất. Quy luật này tác động đối với tự nhiên, xã hội cũng như đối với
cá nhân mỗi người. Tuy nhiên vì cơ chế tác động của quy luật này vô cùng phức
tạp, đặt biệt trong lĩnh vực xã hội, trong khi đó thì sự hiểu biết của con người là
có hạn, cho nên có những sự việc xảy ra tựa hồ như là phản quy luật, ngẫu
nhiên. Vì vậy cầu Trời, khấn Phật để thay đổi quy luật nhân quả là vô lý và trái
ngược với tinh thần của đạo Phật

(1)

. Một quy luật sao gọi là hoàn thiện được,

nếu cứ luôn phải có Trời và Phật điều chỉnh nó?

Đạo Phật không phải là một hệ giáo điều mà là phương pháp tìm tòi
chân lý- Ehi Passikoo: mời đến và nhận thức lấy.
Đạo Phật trước hết và chủ yếu là một phương pháp tầm cầu chân lý, một
phương pháp khoa học bởi vì chính đức Phật nói là chúng ta chỉ được tin những
điều mà chính chúng ta nhận định là đúng đắn và hợp với lẽ phải và qua kinh
nghiệm của bản thân chúng ta (2). Trước đó Phật khuyên chúng ta không nên vội
tin. Vì vậy mà Phật pháp được mệnh danh là “Ehi passikoo” một từ Pải có nghĩa
là “mời mọi người đến và tự mình nhận thức lấy”. Nói là phương pháp tầm cầu
chân lý hay con đường dẫn tới chân lý cũng được. Con đường mà đức Phật vạch
ra và chỉ có thể vạch ra mà thôi. Còn chúng sinh phải tự mình đi lấy đức Phật
không đi thay chúng sinh được. Đức Phật nói trong kinh Dhammapada (Pháp
cú): “Sai lầm hay tội ác đều do tự bản thân mình, rời bỏ tội ác, trở nên trong
sạch cũng là do tự bản thân mình. Trong sạch và không trong sạch cũng đều do
bản thân mình. Không ai có thể làm trong sạch được ai cả”.
Đạo Phật thường được biểu trưng như ngón tay chỉ mặt trăng (3) chân lý là
mặt trăng. Ngón tay là đạo Phật, là kinh sách. Nếu chấp:

8


1- Kinh pháp cú nói: “Ở trên trời cũng như ở giữa biển cả, cũng như
trong núi thẳm hâng sâu, không có nơi nào trên thế giới này có thể thoát khỏi
hậu quả của hành động tội lỗi do mình gây ra”.
2- Trong Kinh lalama Sutta, khi bộ tộc Kalama hỏi Phật hỏi Phật về thái
độ nên có đối với các nhà truyền giáo đến giảng đạo, người nào cũng tự cho
mình là phải, là chân lý thì Phật trả lời.
-----------------------------------------------------------------------------------------(3)
Kinh viên Giác “Nhất thiết Tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ: (Tất cả các giao
lý trong kinh sách như ngón tay chỉ mặt trăng)
“Tất cả những gì mà theo sự thể nghiệm trực tiếp của bản thên và sau một

sự suy nghĩ sâu sắc mà thấy hợp với lý trí của bản thân, đem lại hạnh phúc cho
các người và cho hết thảy mọi người khác thì hãy thừa nhận những điểm ấy là
chân lý và hãy sống theo chân lý đó. Chính vì vậy mà ta nói với các ngươi rằng,
các ngươi chớ vội tin một điều gì vì đó là truyền thống, vì được ghi trong sách
hoặc được suy luận ra theo logic đơn giản hoặc là do hiẻu biết hời hợt, hoặc là
do các ngươi hứng thú về học thuyết nào đó hoặc là dì điều ấy dường như có vẻ
thích hợp, hoặc là vì các ngươi kính trọng một vị Đạo sư nào đó... nhưng nếu
các ngươi thấy rằng những điều ấy là không có lợi, đáng chê trách, không hợp
với lẽ phải nếu thực hiện sẽ đem lại đau khổ cho các ngươi cũng như cho mọi
người khác, thì các ngươi hãy vứt bỏ điều ấy đi”, đạo Phật là chân lý thì sẽ
không bao giờ thấu đạt chân lý.
Đạo Phật cũng được biểu trưng bằng hình tượng chiếc bè được kết bằng
cỏ cây dùng để vượt qua những khúc sông rộng rồi sẽ được bỏ đi. Như thế Phật
pháp mà chúng ta nương tựa để vượt qua dòng sông sinh diệt đến bên bở bên
kia, đến cõi nút bàn chẳng phải là mục đích mà là một phương tiện để đạt đến
mục đích. Nói theo cách nói ngày nay, chức năng của nó chỉ là chức năng của
một công cụ thuần tuý, cho nên chỉ có giá trị tương đối mà thôi. Dĩ nhiên, điều
này không có nghĩa là pháp luật không cần thiết. Khi đã an toàn vượt qua đến
bờ bên kia thì chiếc bè quả thực có thể bỏ đi, nhưng chừng nào chúng ta còn
đang ở bên bờ này hoặc đang lặn ngụp giữa dòng sinh diệt thì không thể thiếu 1
chiếc bè như thế.
9


Trong kinh sách Phật cũng nhắc đến tám vạn bốn nghìn pháp môn. Pháp
môn là cửa pháp. Ý nói có thể thấu đạt chân lý bằng 84.000 con đường khác
nhau. Tất nhiên con số này chỉ dùng để biểu trưng cho số nhiều mà thôi.
Từ những điều nói trên, có thể rút ra 2 kết luận rất quan trọng để chúng ta
có thể nắm được tinh thần, cốt tuỷ của đạo phật.
1- Đức phật không phải là Thượng đế cứu rỗi, xuống trần gian để tuyên

cáo chân lý bất di, bất dịch. Đức phật chỉ là một ông “Thầy” vạch ra cho chúng
ta biện pháp thoát khổ và giác ngộ.
2- Phật pháp không phải là 1 hệ tín điều, mà chỉ là phương pháp, biện
pháp thoát khổ và giác ngộ chân lý rốt ráo.
Có hiểu tinh thần đạo phật như vậy mới hiểu được:
1- Vì sao trong đạo phật lại chia ra lắm tông, nhiều phái, vì sao đạo phật
không bài xích các đạo khác, tín ngưỡng khác?
2- Vì sao đạo phật không đề cập đến những vấn đề lý thuyết “Hình nhi
thượng” mà hay đưa người học trở về với thực tại (4). Bởi lẽ chân lý không phải
là nói suông mà lĩnh hội được mà phải học, phải hành.
Tất nhiên phải học rồi mới hành được. Phải hoài nghi và phải học, tu để
đoạn nghi. Nghi mà chỉ nghi suông, không chịu học hành để đoạn nghi, thì đó là
lối hoài nghi vô bổ. Đạo phật cho rằng hoài nghi suông là một trong những năm
trở ngại cho sự hiểu biết chân lý. Nhưng nếu có hoài nghi mà tiến lên học, hành
để đoạn nghi thì đó là hoài nghi tích cực.
Kinh phật có câu: Nghi lớn thì giác ngộ lớn, nghi nhỏ thì giác ngộ nhỏ,
không nghi thì không giác ngộ.
4- Một học trò của đực phật là Malunkyaputta, một hôm chất vấn đức
phật bằng một loạt vấn đề như vũ trụ do đâu mà có, mãi mãi tồn tại hay cũng
hoại diệt, sau khi nhập diệt đức Phật còn tồn tại hay không.v.v... Malunkyaputta
còn nói nếu đức Phật không giải thích thì anh ta sẽ rời bỏ Tăng đoàn mà đi. Anh
nói “Nếu đức Phật thật sự không biết thì hãy nên nói thẳng ra, ta không biết, ta
không thấy rõ! Đức phật trả lời: Giả sử một người bị trúng tên độc, họ hàng mời
y sĩ đến nhổ mũi tên và bằng thuốc. Người bị thương nói. Ta sẽ không rút mũi

10


tên ra nếu ta không biết người bắn là ai, thuộc đẳng cấp nào, gia đình nào, da
đen, da nâu hay vàng, từ làng, tỉnh, thành phố nào đến v.v....mà người đó sẽ chết

trước khi được trả lời xong những câu hỏi đó. Cũng như vậy, nếu một người nói.
Ta sẽ không chịu sống đời trong sạch gần đức phật, nếu phật không trả lời những
câu hỏi như vũ trụ từ đâu mà có, trường tồn hay là cũng tiêu diệtv.v... thì người
đó sẽ chết trước khi được giải đáp v.v....
Nói chung lại, đạo phật không phải là chân lý mà là con đường dẫn tới
chân lý, bởi vì chân lý không thể nói bàn được, không được khái niệm hoá. Cho
nên đạo phật dùng hình ảnh ngón tay chỉ mặt trăng, cái bè qua sông. Đạo phật
dùng các từ như, “Thể nhập”, “tri kiến, như thực,” “tu chứng”, chứ không dùng
các từ ngữ như diễn đạt, suy nghĩ về chân lý, về thực tại và “thể nhập”, “thể
hội”, “tri kiến như thực”, “tu chứng”....là gì đó chính là thực nghiệm trực tiếp,
chứ không có gì khác hơn. Như chúng ta biết, thực nghiệm trực tiếp là một công
cụ khoa học của nhận thức. Nó là công cụ chủ yếu bởi vì nếu chỉ có thực
nghiệm trực tiếp mà thôi không có sự hệ thống hoá kèm theo, thì sẽ chỉ có cảm
giác mà không có khoa học.
Công cụ mà đạo phật dùng để thể hội chân lý tuyệt đối là trí tuệ Bát-nhã,
nghĩa là cái trí tuệ cứu cánh, không phải chỉ học nhiều mà có được, không phải
suy nghĩ nhiều mà có được, không phải chị học nhiều mà có được, không chỉ
suy nghĩ nhiều mà có được, mà còn phải học hành, phải tu mới có được. Vì vậy,
mà khi nói Tuệ, đạo phật phân biệt có văn tuệ (tức là nghe giảng mà có tuệ). Tư
tuệ (suy nghĩ, phân biệt mà có tuệ) và Tu tuệ (nhờ thực hành mà có tuệ).
Nếu chỉ nghe, chỉ suy nghĩ mà không hành, không tu thì cũng như người
nghèo, ngồi đếm tiền bạc của người khác, bản thân mình không bao giờ giàn lên
được.
Các điểm kết luận ghi trên đây đều gắn bo hữu cơ với nhau. Sự gắn bó
hữu cơ đó cần đưa phân tích 1 cách sáng to, để 1 lần cuối cùng, khẳng định: Đạo
phật không phải là một tôn giáo theo như người phương tây hiểu thông qua từ
Religion.
Vì sao đức phật bác bỏ quyền uy tối thượng của sách Veda?

11



Đó là vì trong sách Veda có nhiều nội dung vô lý, thực tế là do 1 bà la
môn bịa đặt ra để duy trì địa vị xã hội độc tôn của mình. Nhưng để tránh sự
phản đối có thể xảy ra từ những đẳng cấp khác, họ bèn suy tôn Veda là Thánh
điển do chính Phạm thiên nói ra. Nhưng đức phật nói rằng: “ tất cả những gì mà
theo sự thể nghiệm trực tiếp của bản thân và sau khi suy nghĩ sâu sắc mà thấy
hợp với lý trí của bản thân, đem lại hạnh phúc hết thảy cho mình và cho mọi
người khác thì hãy thừa nhận những điều ấy là chân lý và sống theo chân lý
đó”.
Tóm lại, đối với đạo phật, tiêu chuẩn của chân lý không phải là sự phù
hợp với sách vở mà là sự phù hợp với lý trí, với kinh nghiệm của bản thân và
của những người khác. Nhờ quan điểm này mà đạo phật không bị lúng túng như
các tôn giáo khác, một khi các “Thánh điển” của họ nghi những điều mà khoa
học và thực nghiệm khách quan không chấp nhận được. VD: Nếu thánh điển
ghi: Mặt trời xoay quanh trái đất, nhưng quan sát và thực nghiệm khoa học lại
cho biết “Trái đất xoay xung quanh mặt trời!”. Đạo phật không bị những lúng
túng như vậy. Hơn nữa, các học giả phương Tâyđều thừa nhận những phát hiện
mới nhất của khoa học đều không mâu thuẫn vơí những giáo lý căn bản của đạo
phật.
Ý nghĩa cách mạng của việc đức phật Thích - ca bác bỏ quyền uy tối
thượng của cái gọi là “Thánh điển Veda” chính là ở chỗ đó. Tức là khôi phục và
khẳng định giá trị của trí tuệ, của con người nhưng việc bác bỏ quyền uy tối
thượng của Thánh điển Veda kèm theo 2 hệ quả lớn nữa là:
1- Bác bỏ quyền uy xã hội tối thượng của đẳng cấp Bà-la-môn.
2- Bác bỏ tín ngưỡng ở 1 đấng tạo thế sáng tạo và ngự trị muôn loài. Đẳng
cấp bà la môn thâm thù đức phật Thích ca là ở chỗ, do đức phật bác bỏ “Thánh
điển Veda” mà một cách tự nhiên, đức phật cũng bác bỏ luôn địa vị độc quyền
của đẳng cấp Bà la môn trong việc giải thích sách Veda và tổ chức tế đàn. Đức
phật nói người ta không phải do cha mẹ sinh mà thành Bà la môn hay thành Thủ

đà la. Mà chính do hoạt động của bản thân mình mà trở thành 1 Bà la môn hay
Thủ đà là. Người có địa vị cao nhất là người có giới hạnh và trí tuệ đầy đủ, chứ

12


không phải do xuất thân ở giai cấp này hay giai cấp khác. Có người giải thích sự
xuất hiện của đạo phật như là một sự phản ứng đẳng cấp sát - đế - ly (đẳng cấp
vua chúa, tức là đẳng cấp xuất thân của đức phật Thích - ca) chống lại đẳng cấp
Bà-la-môn. Đó là một sự giải thích không đúng. Theo đức Phật Thích ca, mọi
đẳng cấp đều bình đẳng trước chân lý và Tăng đoàn mở rộng cửa đón người
thuộc mọi đẳng cấp, mọi nghề nghiệp. Khi đức phật còn tại thế, trong số những
người tham gia Tăng chứng và chứng Thánh quả, có vua chúa, có Bà-la-môn,
nhưng cũng có người thợ cạo, dâm nữ, người đổ phân và thậm chí có cả một
tướng cướp từng giết người không ghê tay như A9 Angulimala. Tất nhiên, khi
đức phật bác bỏ quyền uy thiêng liêng của Thánh điển Veđa và quyền uy xã hội
tối thượng của đẳng cấp Bà-la-môn thì đức phật cũng bác bỏ luôn thần tượng
một đấng phạm thiêm tạo ra và làm chủ muôn loài, và là xuất xứ của Thánh
điển.
Nói tóm lại, đức phật Thích ca đạo Phật sở dĩ có sức thuyết phục lớn đối
với chúng ta, chúng vì đức Phật xuất hiện như một con người chứ không phải
như một Thượng đế hau, Thần linh, vì đạo Phật trước hết là đạo nhân bản, đạo
của tình thương và trí tuệ, một đạo khẳng định, khả năng của con người, dựa
trên nghị lực bản thân, có thể đạt tới chân lý cứu cánh và hạnh phúc hoàn toàn.
Toàn bộ kinh Phật giáo Nguyên thuỷ có thể xem như một bản hùng ca về tình
thương và trí tuệ của con người. Đạo Phật là đạo rắt “người”.
Đức Phật dạy: “Người là nơi nương tựa của chính mình, còn ai khác nữa
làm nơi nương tựa”. Như vậy là đức Phật xác định trách nhiệm và khả năng cá
nhân của mọi người đối với sự tiến bộ và hạnh phúc bản thân, ngài khuyên mọi
người đều nên tự ý thức lấy trách nhiệm và khả năng cá nhân đó trong sự nghiệp

tầm cầu giải thoát. Cũng chính vì vậy mà đức Phật chống mọi thái độ giáo điều,
cứng nhắc, tuyệt đối hoá. Một hôm đức Phật khuyên một nhóm người Bà-lamôn: (Những người Bà-la-môn cho rằng những điều ghi trong Thánh Veda của
họ mới là chân lý, mọi điều khác là sai lầm).
“Một người có trí bảo vệ chân lý không đi đến kết luận, chỉ ở đây có là sự
thật, và mọi điều khác là sai lầm”.

13


Đối với học trò của mình, đức Phật cũng nói lại lời khuyên đó: Một hôm,
đức Phật giảng lý nhân quả, các học trò nghe và thưa lại rằng họ đã hiẻu rõ điều
ấy, ngài liền nói:
“Hỡi các tỳ-kheo, ngay cả điều ấy, minh bạch và rõ ràng như thế, nhưng
nếu các Thầy bám chặt vào nó, quý trọng nó, nếu các Thầy cất giữ nó, ràng buộc
nó thì tức là các Thầy không hiểu rằng giáo lý cũng như chiếc bè, cốt dùng qua
sông, chứ không phải để ôm giữ lấy”.
Đạo Phật không phải chỉ để nghiên cứu, học hỏi, quan trọng hơn nữa là
đạo để tu hành, thực nghiệm, thực chứng. Vì vậy, thực hiểu lầm đạo Phật khi
buộc tội đạo Phật là tiêu cực, bị động, thụ động. Đạo Phật coi trọng “hành”, cho
nên đạo Phật là đạo của hành động tích cực, lạc quan. bản thân đức Phật thường
vì người học rộng không tu hành như một đoá hoa không có mùi hương.
Chính vì các lẽ trên mà đạo Phật là một tôn giáo đặt biệt, chống mọi biểu
hiện mê tín và cuồng tín, một tôn giáo của lòng thương và trí tuệ, một tôn giáo
hướng tới hành động và thực chứng, một tôn giáo không tín điều và giáo điều.
Đạo Phật và huyền thoại, nghi lễ:
Đạo Phật có huyền thoại, nghi lễ, cho nên nếu định nghĩa tôn giáo là sự
tập hợp của 3 bộ phận: Hệ triết học - đạo đức, huyền thoại và nghi lễ thì đạo
phật đúng là tôn giáo.
Nhiều kinh sách hật chứa đầy huyền thoại, thí dụ kinh “Bổn sanh” kể lại
nhiều câu truyện về tiền thân của đức Phật Thích Ca, khi người còn tu hạnh Bồ

Tát. Đó là huyền thoại, rất đẹ, rất gợi cảm, Phật giáo mà không có huyền thoại,
thì rất khó đi sâu vào quần chúng đông đảo. Huyền thoại là những truyện có tính
chất thần bí, nói lên những sự kiện không phải chỉ xảy ra với người ở thế gian
này, mà còn xảy ra ở cõi tâm linh, thần bí. Nếu xét kỹ thì huyền thoại bao giờ
cũng nói lên một sự thật nào đó hoặc một chân lý đạo đức hay triết học, hoặc sự
kiện lịch sử có thật. Nói một cách khác, huyền thoại là một hình thức văn học thi ca, giàu hình ảnh nghệ thuật, được dùng để nói lên những chân lý đạo đức triết học nhất định hoặc một sự kiện lịch sử nào đó. Nếu hiểu ý nghĩa của huyền
thoại là như vậy khi đọc sách phật, thấy có nhiều huyền thoại, ta không nên vội

14


cho đạo Phật là mê tín “Tấm Cám” cũng là một huyền thoại, trong đó có nhân
vật ông Bụt Phù Đổng Thiên vương cũng là một truyện huyền thoại và còn có
nhiều truyện huyền thoại như thế nữa mà văn học dân gian Việt Nam tự hào như
là hạt, viên ngọc của mình. Phải chăng đấy chỉ là mê tín châu, nên vứt bỏ? Tôi
nghĩ chúng ta không nên vứt bỏ mà nên sưu tập đặc biệt là những truyền huyền
thoại của phật giáo Việt Nam, nhưng truyện Tấm Cám chẳng hạn.
Bây giờ chúng ta sẽ nói về các nghi lễ trong đạo phật và ý nghĩa của nó.
Phật tử có tụng kinh, lần tràng hạt, dâng hương hoa trước tượng phật.
Nhưng phật tử cũng có thể không làm tất cả những việc đó mường vẫn là Phật
tử chân chính.
Lần tràng hạt và gõ mõ nhịp là biện pháp giúp chúng ta định tâm vào
những ý niệm thiện. Lời kinh cũng giúp cho sự định tâm, bản thân những lời đó
là đối tượng tư duy và định tâm.
Dâng hương hoa kèm theo lời tán dương phật, cũng là có một giá trị
tương tự như vậy, một vị đại sư đã dẫn chứng đoạn văn tán dương Phật như sau:
“Những hương hoa này tôi dâng lên Phật, đấng Thánh, đấng Giác ngộ tối
cao. Những hương hoa này bày giờ có hình dáng đẹp đẽ, rực rỡ màu sắc, thơm
tho hương vị. Nhưng rồi đây, tất cả sẽ chóng tàn, hình dáng đẹp đẽ sẽ trở nên
héo hon, màu sắc tươi sáng sẽ phai nhạt, hương vị cũng bay mất. Mọi sự vật rồi

đây cũng đều sẽ như vậy, nghĩa là vô thường, đau khổ và không thực. Hiểu điều
này, chúng ta sẽ đạt tới Niết-bân, là sự bình tịnh hoàn thiện chân thực và vĩnh
hằng (1).
Trong cuốn “Khoá thư Lục” của Trần Thái Tông cũng có các bài tán
dương đức phật với nội dung tương tự.
Có thể nói rằng, những hình thức trên đây là không cần thiết đối với
những người có khả năng tập trung tư tưởng và định tâm dễ dàng, thế nhưng đối
với quần chúng đông đảo thì chúng lại có tác dụng rất lớn.
Vì sao đạo Phật lại không đề cao việc cầu nguyện. Đó là vì đạo Phật cho
rằng vũ trụ, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ này đều được chi phối bởi những
quy luật vô cùng hoàn thiện mà không một lời cầu đảo, thỉnh nguyện nào có thể

15


thay đổi được. Vì không hiểu biết những quy luật đó mà phạm lỗi lầm, lỗi lầm
tạo ra đau khổ? Muốn thoát đau khổ, chúng ta phải nhận thức được những quy
luật đó và sống một cách hài hoà và thuận chiều với chúng. Nếu sống trái với
quy luật rồi bằng cầu nguyện mà tưởng rằng bằng cầu nguyện cúng dường mà có
thể tránh được hậu quả thì lầm to.
Phật Thích-Ca luôn luôn nhấn mạnh trách nhiệm của đệ tử mình là phải tự
mình học và sống theo lời Phật . Phật nói: “Tự các ngươi phải tiến tới, bởi vì
đấng tối thiện chí vạch ra con đường đạo mà tôi. Nếu các người tiến theo con
đường đó, các ngươi sẽ chấm dứt mọi đau khổ...”
Tinh thần tự lụt ấy đó, Phật đã nhắc lại lần cuối cùng với người học trò
thân cận là Anam trước khi Ngài qua đời: “Hãy sống một đời sống thanh tịnh
các người sẽ chấm dứt mọi đau khổ. Ánh sáng chính là ở trong bản thân các
người, nơi nương tự chính là bản thân các Người. Phật pháp sẽ là ngọn đèn soi
sáng cho các Người, nơi nương tự duy nhất của các Người và sẽ không có ánh
sáng nào khác, nơi nương tựa nào khác.

Trong toàn bộ Phật giáo toát lên niềm tin rằng mỗi người đều có khả năng
giác ngộ chân lý, tự cứu mình ra khỏi vòng đau khổ, không cần dựa vào sự che
chở, phù hộ của một đấng thiêng liêng nào. Đối với chúng sinh đang đau khổ,
Phật không khác gì thầy thuốc, Phật pháp không khác gì thuốc, chúng sinh muốn
khỏi bệnh thì phải uống thuốc, không một đấng thiêng liêng nào có thể uống
thuốc thay để cho chúng sinh khỏi bệnh được.
Người Phật tử chân chính không phải chỉ có lòng từ bi, mà còn phải có
đầy đủ đức tin và dũng mãnh phấn đấu, không biết mệt mỏi, không biết sợ,
không chịu nửa đường lùi bước, kỳ cho đén ngày đạt được mục đích tối hậu là
giác ngộ hoàn toàn mới thôi. Thái độ núp bóng dưới một đấng Thượng đế nào
đó chỉ làm yếu lòng tin, dẫn tới một tình trạng tinh thần nô lệ và trì trệ nguy
hiểm mà thôi. hào hùng thay thái độ tự lực tự cường như vậy. Một thái độ như
vậy, sao gọi là tiêu cực chán đời, thụ động được”.

16


-----------------------------------------------------------------------------------------(1)
The Path of Bu ddha của Kenneth Magran (con đường của đức Phật)
Trong nhiều năm cuốn kinh, Phật thường nhấn mạnh sự vô ích của cầu
đảo để mong được phúc tránh hoạ. Cái quyết định cuộc sống hiện nay và tương
lai của chúng ta, chính là hành động thân, khẩn, ý hằng phút, hằng giờ, hằng
ngày của chúng ta, chứ không phải là sự can thiệp của một thần linh nào, qua lời
cầu khẩn của chúng ta. Người nào hiểu điều này thì sẽ trở thành một con người
tự do, tự tại sẽ không hối tiếc chuyện quá khứ, sẽ không lo lấy đến tương lai, bởi
vì người ấy thấy rõ cuộc sống hiện tại là quan trọng nhất, bởi vì nó chi phối và
tạo tác tương lai, vì vậy mà Phật tử sống trọn vẹn giờ phút hiện tại, sống tỉnh
táo, năng động và lạc quan.
“Tương ứng Bộ kinh”., tập I có trích dẫn bài kệ của phật:
Không tham việc đã qua.

Không mong việc sắp tới
Sống ngay với hiện tại.
Nhờ vậy, sắc thù diệu
Do mong việc sắp tới,
Do tham việc đã qua,
nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xnah rời cành.
Cuộc sống trọn vẹn trong hiện tại, chính là cuộc sống có cống hiến lớn đối
với xã hội và đối với bản thân, cũng là kiểu sống tốt đẹp nhất, an lạc nhất.
Bốn nhiếp pháp:
- Bố thí (tức giúp đỡ người, mọi chúng sinh)
- Ái ngữ (lời êm dịu)
- Lợi hạnh (giúp ích cho mọi người, mọi chúng sinh)
- Đồng sự (cùng làm với người khác để giúp họ)
Lục độ (6 phép tu hoàn thiện):
- Bố thí (tức giúp đỡ mọi chúng sinh)
- Trì giới (sống đạo đức)
17


- Nhẫn nhục (tức bình thản trước mọi nghịch và thuận cảnh
- Tinh tấn (tức siêng năng)
- thiền định (tức định tâm)
- Trí tuệ (tức trí sáng thấu đạt chân lý)
Hình thức đạo Phật dự vào đức tin:
Như chúng ta đã biết, Phật giáo Nguyên thuỷ xuất hiện ban đầu là một
đạo thuần lý trí, dựa vào sự tự lực, sự cố gắng của bản thân. Theo thời gian và
sự ảnh hưởng của các nhân tố khách quan và chủ quan, đạo Phật đã dần dần
chuyển hoá và trở thành một đạo dựa chủ yếu vào đức tin, dựa vào tha lực, tức
là sự gia hộ bên ngoài của các vị phật và Bồ tát. Ngay từ năm 400 trước Công

nguyên, mầm mống của hình thức đạo Phạt “tông giáo” đã hình thành và lan
tràn trong quần chúng, đến đầu công nguyên thì nó lại càng phát triển mạnh, như
là một nhánh của Phật giáo đại thừa. Nó thể hiện tính quần chúng của phật giáo.
Một mục đích của Phật giáo là phổ cập chính pháp tới những tầng lớp quần
chúng đông đảo nhất, lẽ nào, cửa giác ngộ và giải thoát chỉ mở rộng cho một
thiểu số.
Nếu lòng từ bi của Phật là vô biên, nếu tất cả chúng sinh đều có cái mầm
mống giác ngộ ở bên trong mình tức là phật tính thì tất cả chúng sinh đều có cơ
hội được giác ngộ và giải thoát. Đó là cơ sở để thiết lập một hình thức đạo phật,
chủ yếu dựa vào đức tin, vào tha lực, một hình thức đạo phật có thể lôi cuốn
quần chúng đông đảo. Hiện nay, đại biểu mạnh mẽ nhất, phổ biến nhất cho hình
thức này của đạo phật là tông Tịnh độ. Người thu theo tông này thường niệm
danh hiệu phật A-di-đà để cầu vây sanh về cõi phật A-di-đà, gọi là Tịnh độ.
Phép Tịnh độ không khó chỉ cần lòng tin là đủ.
Như vậy Phật giáo Đại thừa đã và đang khẳng định sức mạnh gia hộ
thường trực của các vị phật và Boò - tát trong bốn cõi, mười phương đối với tất
cả chúng sinh niệm danh hiệu và chí thành cầu mong sự che chở của các vị đó, ở
đây rõ ràng, chúng ta đi sâu vào địa hạt tôn giáo, địa hạt của những sức mạnh
siêu nhiên, khó hiểu.

18


Như chúng ta đã biết, một đặc sức của đạo Phật là tinh thần bao dung,
rộng rài. Bởi vì đạo phật quan niệm chânlý và hạnh phúc tối thượng nhưng một
trung tâm mà chúng ta có thể hướng từ nhiều phía, nhiều ngả, bằng nhiều
phương tiện. Rất ít khi người phật tử nói với đạo hữu rằng “Tu như tôi mới là
đúng, tu như nha là sai”, mà họ sẽ nói: “Hãy xem trong nhận thức của hai chúng
ta, có tất cả những cái gì nhất trí, thì hãy nêu ra mà khẳng định, còn những điểm
gì khác nhau chúng ta hãy tạm gác sang một bên đã”. Đối với người Phật tử xuất

gia, kỵ nhất là lòng kiêu mạn, tự cho mình là hơn người, tư cho mình là đúng
còn mọi người khác là sai nữa, ai đúng ai sai, đó là vấn đề cần được chứng minh
qua thực tế, qua cuộc sống chứ không phải qua phiếm luận, nhân đàm. Nếu chưa
bàn lý lẽ mà trong thái độ vội tỏ ra kiêu mạn, cố chấp thì tức là phép tu của
mình đã lệch lạc và sai sót rồi.
Theo tôi, đó là lý do căn bản vì sao hình thức đạo phật dựa vào lý trí và tự
lực vẫn có thể cùng tồn tại và phát triển song song với hình thức đạo phật chủ
yếu dựa vào lòng tin và thư lực. Có thể nói tông Tịnh độ chính là một biếm
tưởng thoái hoá của đạo Phật nguyên thuỷ, các nhà tâm lý học đều cho rằng,
niềm tin tác động như một chất xúc tác, giúp cho sự tập trung tư tưởng, giúp cho
một cuộc sống đức hạnh và có hiệu năng. Tin như vậy không gọi là mê tín được.
VD: Tin ở Phật tức là tin ở khả năng của mình, tương lai cũng sẽ được
giác ngộ hoàn toàn và giải thoát hoàn toàn như phật - Tin ở Phật nghĩa là tin ở trí
tuệ sáng suốt, ở đức hạnh vô lượng (từ bi, trí, dũng, hưởng xá). Người tin Phật
phải sống đời sống trong sạch luôn luôn hướng thượng. Bởi vì chỉ có như vậy
phép tu niệm phật mới mang lại hiệu quả, càng nghiên cứu sâu vào lý luận của
tông Tịnh độ, người ra càng thấy giữa tông Tịnh độ và các tông phái khác của
đạo phật không có sự khác nhau gì về căn bản.
Một lòng tin hợp với đạo đức lý trí:
Một con người nếu thấy trọn vẹn và hiểu biết đầy đủ rồi mới tin thì đó
không còn là lòng tin nữa, mà đấy là hiểu và thấy mà thôi. Lòng tin của người
theo đạo Phật cũng vậy. Họ không phải đã hiểu và thấy trọn vẹn nhưng họ vẫn
tin, miễn là niềm tin ấy hợp với suy xét của lý trí và nó khuyến khích một cuộc

19


sống tích cực và hướng thượng. VD: Phật tử tin rằng có các vị phật giác ngộ và
hạnh phúc hoàn toàn, và người nào nếu tu học đúng đắn và tinh tốn theo đúng
lời dạy của phật thì cũng sẽ thành phạt. Tôi cho rằng đó là một niềm tin tích cực

và hướng thượng. Một thí dụ khác là nếu ta tin ở thuyết nhân quả nhiệp báo, để
luôn tự rãn mình, tránh xe mọi điều ác, làm mọi điều lành, thì chính ta chứ
không phải một vị thần linh nào khác làm chủ cuộc sống và vận mệnh của mình,
nhờ đó mà ngày đêm phấn đấu không biết mệt, để hướng tới một tương lai tươi
sáng hơn mãi.
Con người ta nếu tin ở thuyết tái sinh nghĩa là tính bắt diệt của sự sống và
sinh, tử chỉ là những điểm nối tiếp nhau mãi của một quá trình sống dài vô tận,
vô thỉ vô chung thì họ sẽ được bình thản vô cùng trước sự chết, bởi vì chết đối
với họ chỉ là điểm khởi đầu cho một cuộc sống mới đẹp đẽ hơn.
Lòng tìn ở trong đạo phật chính là như vậy. Một lòng tin như thế không
gọi là mê tín được.
Đạo phật với câu:
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
Đạo phật và phật tử nên trả lời thế nào trước câu thời danh: “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân ” (1).
Theo tôi, trong kinh sách phật đã chỉ dẫn sẵn cho chúng ta những câu trả
lời:
Kinh Phạm Võng kể lại câu chuyện về một thầy ngoại đạo đã công kích
mạnh mẽ phật, pháp, Tăng côn học trò của ông ta là Branhmadath thì trái lại đã
tán dương phật, pháp, Tăng hết lời. Tăng chúng đem chuyện này hỏi phật, phật
khuyên:
“Khi có ai huỷ bán công kích phật, pháp, Tăng mà các ngươi sanh lòng
phiền muộn, công phần, tức tối thì sẽ có hại cho chính các ngươi. Bởi vì làm
như vậy, các ngươi phải bình tĩnh, phải nói rỗ những điều không đúng sự thật là
không đúng sự thật”. Ngược lại nếu có ai tán thán, cơ ngợi phật, pháp, Tăng, các
ngươi cũng không nên khoái trá, thích thú, bởi vì làm như vậy sẽ có hại cho

20



chính các ngươi. Các ngươi phải bình tĩnh suy xét những điểm nào đúng, những
điểm nào không đúng”.
Như vậy, thấm nhuồn lời dạy của đức phật, trước mọi sự khen chê, thái
độ của đạo phật và phật tử đều phải thản nhiên, bình tĩnh suy xét. Đối với câu
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” phật tử nên nghiên cứu xem:
Thứ nhất, Mác nói tôn giáo ở đây là mọi tôn giáo, không phân biệt hay là
ám chỉ một tôn giáo đặc biẹt nào.
Thứ hai, nếu thật sự Mác không muốn ám chỉ Phật giáo, thì Phật tử cũng
nên bình tĩnh suy xét xem lời buộc tội đó có phù hợp hay không với đạo phật.
Về vấn đề thứ nhất, qua nghiên cứu các tác phẩm của Mác và Anghen,
chúng ta có thể khẳng định các ông khi nói tới tôn giáo là nói tới nhất thần giáo,
chủ yếu là Thiên chúa giáo. Tuy rằng trong cuốn “chồng During”, Anghen có nói
tới Veda giáo nhưng chỉ là nói qua để so sánh, nhưng mọi người đều biết là phật
giáo bác bỏ dứt khoát “Thánh điển” Veda và đối lập với Bà-la-môn, tôn thờ
thánh điển cổ điển Đức” Anghen ấy có đề cập tới các đa thần giáo Hi Lạp và La
Mã và tới do Thái giáo nhưng ai cũng thấy rõ trọng tâm phên phán của Mác và
Anghen (cũng như hầu hết các tư tưởng gia tiến bộ ở Châu Âu thời bấy giờ,
trong đó có Fơbach, là Thiên chúa giáo, như là trở ngại chính cho mọi cuộc vận
động dân chủ hoá bộ máy nhà nước, như là tấm lá chắn bảo vệ cho chế độ quân
chủ chuyên chế quân phiệt, như là món ăn tinh thần nguy hiểm đầu độc dân
chúng.
Mác và Anghen tỏ ra vô cùng hào hứng khi độc cuốn “Bản chất Thiên
chúa giáo” của Fơbach là bởi vì trong cuốn sách này, Fơbach đã khẳng định
chính con người là cha đẻ ra tôn giáo, ra Thượng đế, chứ hông phải Thượng đế,
tôn giáo sinh ra con người.
Phát triển thêm quan điểm của Fơbach, Mác viết như sau: “Phê bình tôn
giáo đi tới kết luận rằng con người là vật tối cao đối với con người, do đó đi tới
nhiệm vụ tuyệt đối là lật đổ tất cả mọi tình trạng, trong đó con người bị con là
hèm hạ, bị nô dịch, bị bỏ rơi, bị khinh rẻ”.


21


Tất cả những điều Fơbach và Các Mác nói trên ít nhiều đều nhằm vào
Thiên chúa giáo. Trong cuốn “Lutcvich Fơbach và sự cáo chung của nền

-----------------------------------------------------------------------------------------(1)
Cac Mác lời nói đầu của “Phê phán triết học pháp quyền của Heghen” (1843
- 1844)

22



×