MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
I. MỞ ĐẦU
2
2
1. Lí do viết chọn đề tài
2
3
2. Mục đích nghiên cứu
3
4
3. Đối tượng nghiên cứu
3
5
4. Phương pháp nghiên cứu
3
6
II. NỘI DUNG
4
7
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
4
8
2. Thực trạng
4
9
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
6
10
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
15
12
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
16
13
1. Kết luận
16
14
2. Kiến nghị
17
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do viết chọn đề tài
Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt tiểu học là dạy cho học sinh
một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng Việt như một công
1
cụ giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải biết đặt câu đúng tiếng Việt. Từ
là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn từ của một
ngơn ngữ thì khơng thể sử dụng được ngơn ngữ đó để học tập cũng như trong giao
tiếp. Ngoài ra, vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ
càng chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, đặc sắc bấy nhiêu. Vì
vậy số lượng từ, tính đa dạng, tính năng động của từ được xem là điều kiện hàng
đầu để phát triển ngôn ngữ. Từ đó, bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng
là một yêu cầu quan trọng để các em có thể vận dụng nói và viết thành câu đúng.
Từ đó, học sinh sẽ u thích và sử dụng Tiếng Việt một cách văn hóa.
Mặt khác, trong mục tiêu của phân mơn Luyện từ và câu lớp 2 thì việc hướng
dẫn học sinh luyện tập đặt câu là rất quan trọng. Nó là cơ sở, là tiền đề để học sinh
vận dụng tốt trong phân môn Tập làm văn và học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp
học trên. Đối với học sinh lớp 2 thì việc đặt câu là giúp học sinh lần lượt làm quen
với các kiểu câu kể cơ bản như : Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?, các bộ phận trả
lời câu hỏi (Ai?, Là gì ?, Khi nào ?, ở đâu ?, Như thế nào ?,Vì sao ?, Để làm gì ?)
và các dấu câu (chấm, chấm hỏi, chấm than, chấm phẩy ). Nhưng trong thực tế
giảng dạy thì việc hướng dẫn học sinh luyện tập đặt câu không phải là chuyện dễ,
không phải tất cả các đối tượng HS đều thực hiện được điều đó. Trong những năm
trước được phân cơng giảng dạy lớp trên tôi thấy học sinh viết một đoạn văn hay
làm một bài văn mà cả bài chỉ có một số dấu chấm, dấu phẩy, câu cú khơng rõ
ràng, sắp xếp lộn xộn, lủng củng. Tôi cũng đã hết sức cố gắng sửa lỗi nhưng cũng
chỉ khắc phục được một ít đối với HS khá mà thơi. Năm nay, được trực tiếp giảng
dạy Lớp 2, tôi mới phát hiện ra lỗi sai của các em lớp trên mắc phải bắt nguồn từ
Lớp 2 các em học dùng từ đặt câu cịn yếu. Vì vậy, theo tơi ngay từ lớp 2, việc
giúp các em luyện tập đặt câu là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Đó cũng chính là những lí do thúc đẩy tơi chọn, nghiên cứu và viết giải pháp
hữu ích “ Một số biện pháp rèn kĩ năng đặt câu cho học sinh lớp 2 trong phân
môn Luyện từ và câu” này .
2. Mục đích nghiên cứu:
2
Nâng cao hiệu quả của việc dạy đặt câu cho học sinh lớp 2. Từ đó rút ra
những kết luận sư phạm ứng dụng vào việc dạy đặt câu trong phân mơn Luyện từ
và câu nói riêng và các mơn học khác nói chung.
Cải tiến các phương pháp, hình thức dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy
đặt câu cho học sinh lớp 2.
Giúp học sinh biết đặt câu đúng và giàu hình ảnh. Từ đó, học sinh sẽ học tốt
phân mơn luyện từ và câu nói riêng và các mơn học khác nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Rèn kĩ năng đặt câu đúng cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Hermann
Gmeiner Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tham khảo tài liệu, thơng tin
đại chúng ....
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát: Thông qua việc dự giờ thăm lớp và quan sát việc
học tập của các em của lớp tôi chủ nhiệm.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với đồng nghiệp, tổ chuyên môn, học
sinh, phụ huynh để tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục.
- Phương pháp điều tra: tìm hiểu thực trạng ở trường, ở lớp.
Ngồi ra cịn sử dụng một số phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh ...
trong q trình bản thân viết SKKN.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ở nước ta , môn Tiếng Việt ở tiểu học giữ vai trị đặc biệt quan trọng, nó góp
phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở tiểu học theo đặc
3
trưng bộ mơn của mình. Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường nhằm tạo cho học
sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học
tập. Thông qua việc học Tiếng Việt, nhà trường rèn luyện cho các em năng lực tư
duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục các em những tư tưởng lành mạnh, trong
sáng, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.
Bên cạnh đó, phân mơn Luyện từ và câu ở lớp 2 cịn góp phần quan trọng
giúp học sinh biết đặt câu và sử dụng câu phù hợp trong giao tiếp và cuộc sống. Từ
đó, học sinh sẽ hình thành thói quen nói và viết thành câu: có ý thức sử dụng Tiếng
Việt văn hóa trong học tập, giao tiếp và thích học Tiếng Việt. Do đó người giáo
viên dạy lớp 2 ( hay dạy bậc Tiểu học ) cần phải hội đủ các yếu tố như: Có kiến
thức sâu rộng và chính xác của phân mơn này; nắm vững mục tiêu chung cũng như
mục tiêu của từng bài dạy; có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, về ý đồ
của sách giáo khoa và về cấu trúc của từng bài theo các thông tin thể hiện ở sách
giáo khoa; có năng lực giảng dạy nhất định, biết xử lý và linh hoạt sáng tạo trong
q trình dạy – học. Đây chính là cơ sở vững chắc để giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức một cách tốt nhất, các em biết vận dụng thành công vốn từ trong học tập và
giao tiếp.
2. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy: Khi đặt câu theo mẫu câu Ai là
gì ? thì khoảng hơn một nửa số em đặt câu rất tốt nhưng hầu hết các em rập khn
hồn tồn theo câu mẫu mà giáo viên đưa ra.
Ví dụ: Bài Từ chỉ sự vật. Câu kiểu: Ai là gì? – TV2 tập 1 – Trang 27
Bài 3: Đặt câu theo mẫu
Ai ( hoặc cái gì, con gì)
Là gì?
Bạn Vân Anh
là học sinh lớp 2A
HS đặt:
Mẹ em là công nhân.
Bố em là thợ xây.
Em là học sinh lớp 2B …
4
Thực ra những câu học sinh đặt như trên là hoàn toàn đúng, đúng cả về nội
dung, đúng cả về cấu trúc ngữ pháp. Nhưng nếu học sinh cứ đặt câu theo mẫu như
thế thì câu văn vơ cùng khơ khan, khơng có hình ảnh và cảm xúc. Thực trạng này
cũng trả lời cho câu hỏi vì sao mà học sinh ở các lớp trên viết văn khô khan, cả bài
văn chỉ có vài dấu chấm dấu phẩy, câu từ không hợp lý, diễn đạt vụng về. Ngôn
ngữ của học sinh còn nghèo nàn, vốn Tiếng Việt của các em còn hạn chế nên việc
sử dụng từ để đặt câu còn kém.
- Một số em chưa hiểu rõ thế nào là câu, hiểu lẫn lộn mẫu câu Ai là gì ? với
Ai làm gì ?
Ví dụ : Tìm mẫu câu Ai là gì? Thì đặt câu: Em đang đọc sách
Tìm mẫu câu: Ai làm gì? thì lại đặt: Bố em làm nghề xây dựng.
- Một số khác thì ý thức học và tự học của các em còn hạn chế, chưa vận
dụng từ vào để sắp xếp thành câu hợp lí . . .
Từ thực trang trên, tơi thấy nếu khơng có biện pháp luyện tập cách đặt câu
cho học sinh thì chất lượng dạy học phân mơn nói riêng và các môn học khác sẽ
không cao. Trong năm học trước, khi đánh giá chất lượng bài thi, các giáo viên
đều có chung nhận định: Các em viết câu lủng củng, câu văn thì nghèo nàn, khơ
khan. Những hạn chế trên một phần là do giáo viên chưa chú ý đúng mức đến
khâu hướng dẫn đặt câu cho học sinh. Khi các em đặt câu chưa chính xác , hoặc
chưa hay giáo viên không chú ý sửa ngay , giáo viên chỉ chú trọng sửa cách đặt
câu đúng, chứ không chú trọng đến sửa cách đặt câu hay cho học sinh. Một số giáo
viên vốn từ tiếng Việt còn hạn chế. Trong q trình dạy học, có bài tập cần phải sử
dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên lại tổ chức làm việc chung cả lớp, có
bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo viên lại tổ chức
trị chơi học tập tập trung đối tượng học sinh khá giỏi. Thời gian bố trí cho từng
hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa
đảm bảo yêu cầu, chưa phân loại đối tượng học sinh để bồi dưỡng học sinh khá
giỏi và giúp đỡ học sinh yếu kém trong tiết học
5
Sau khi dạy xong phần Luyện tập đặt câu theo mẫu Ai là gì ? tơi tiến hành
khảo sát lớp 2A, 2B của trường và cho kết quả như sau:
Lớp Tổng
số
Đặt câu đúng mẫu,
Đặt câu đúng mẫu, đầy
Đặt câu chưa đúng mẫu
đầy đủ nội dung, có đủ nội dung .
hình ảnh và cảm
xúc.
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A 32 em
8 em
25 %
9 em
28,2 %
15 em
46,8 %
2B 32 em
8 em
25 %
9 em
28,2 %
15 em
46,8 %
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã áp dụng một vài biện pháp luyện tập cách
đặt câu cho học sinh lớp 2 trong : “ Một số biện pháp rèn kĩ năng đặt câu cho học
sinh lớp 2”
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Việc HS đã biết đặt câu theo mẫu như đã đưa ra ở phần thực trạng là hồn
tồn chính xác. Nhưng nếu như HS chỉ đặt câu dừng lại ở mức độ đó thì vơ tình
dẫn các em vào một tình trạng máy móc, rập khn. Câu văn mà các em đặt rất
khô khan, sáo rỗng, không có cảm xúc. Luyện tập đặt câu là giúp các em nắm
vững cấu trúc câu để vận dụng vào giao tiếp (nói và viết). Nhưng nói viết như thế
nào để người nghe hiểu được cảm xúc và tâm trạng của mình mới là việc khó. Bởi
vậy ngay từ đầu năm lớp 2, GV phải chú trọng rèn luyện kĩ năng đặt câu cho HS
để trau dồi vốn tiếng Việt cho các em. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ đưa ra
một số kinh nghiệm nhỏ về hướng dẫn HS lớp 2 đặt câu theo mẫu Ai là gì và Ai
làm gì ? mà nếu như GV dạy tốt đặt câu theo mẫu này thì chắc chắn HS sẽ đặt câu
tốt với các mẫu câu còn lại.
Biện pháp 1. Rèn kĩ năng đặt câu theo mẫu:
Sau mấy tuần dạy HS luyện tập đặt câu theo mẫu Ai là gì ? tôi thấy hiệu quả
chưa cao, hầu hết các em đã biết đặt câu theo mẫu nhưng câu văn của các em chưa
có hình ảnh, cịn khơ khan.
6
Ví dụ: Khi dạy bài tập 2 – Từ ngữ về tình gia đình. Câu kiểu: Ai làm gì?
( TV2 – Tuần 14- Trang 116). Tôi đã thực hiện như sau:
Chọn và sắp xếp các từ ở ba nhóm sau thành câu:
1
2
3
Anh
khun bảo
anh
chị
chăm sóc
chị
em
trơng nom
em
chị em
giúp đỡ
nhau
anh em
Ai
làm gì?
M: Chị em
giúp đỡ nhau.
Sau khi đưa câu mẫu ra, tôi cho HS nhận xét và rút ra kết luận với hệ thống
câu hỏi sau:
Hỏi: Câu mẫu trên thuộc mẫu câu nào?
HS trả lời: Mẫu câu Ai làm gì?
Hỏi: Bộ phận trả lời câu hỏi Ai? là những từ thuộc nhóm nào?
HS trả lời: Những từ thuộc nhóm 1.
Hỏi: Bộ phận trả lời câu hỏi Làm gì ? là những từ thuộc nhóm nào?
HS trả lời: Những từ thuộc nhóm 2 và nhóm 3.
Sau khi HS trả lời tốt các câu hỏi trên tôi cho các em trực tiếp vận dụng sắp
xếp các từ ở 3 nhóm trên để tạo thành câu.
Ví dụ:
Anh khuyên bảo em.
Chị em giúp đỡ nhau.
Anh em chăm sóc nhau.
7
Như vậy với những từ ở trên, HS dễ dàng ghép mỗi từ ở mỗi nhóm để tạo
thành các câu có nghĩa.
Tơi tiếp tục cho các em nhắc thành thạo bằng miệng các câu trên nhất là HS
trung bình và yếu để các em định hình và làm quen với cách đặt câu. Tôi hỏi tiếp:
- Vậy các em thấy đầu câu được viết như thế nào ? Cuối câu có dấu gì ?
HS dễ dàng trả lời và nhận ra một quy tắc là đầu câu bao giờ cũng phải viết
hoa và cuối câu bao giờ cũng có dấu chấm.
Bằng hệ thống câu hỏi hợp lý tôi tiếp tục khai thác giúp các em đặt được
nhiều câu với những từ đã cho sẵn ở trên . Cụ thể như một từ ở nhóm 1 có thể
ghép được với nhiều từ ở nhóm 2 và nhóm 3 để tạo thành câu mới mang một nội
dung khác như:
Anh khuyên bảo em.
Anh chăm sóc em.
Anh trơng nom em.
Anh giúp đỡ em.
Chị em khun bảo nhau.
Chị em chăm sóc nhau.
Chị em trơng nom nhau.
Chị em giúp đỡ nhau.......
Vậy là, chỉ với 3 nhóm 12 từ, bằng cách khai thác hợp lý tôi đã giúp các em
đặt được rất nhiều câu có nội dung hết sức phong phú. Tiết học tăng buổi tôi cho
các em tiếp tục đặt câu dựa vào nội dung bài tập trên và các em đã đặt được rất
nhiều câu, ví dụ như: Em cho gà ăn. Em đang học bài. Mẹ em đang cắt cỏ....Như
vậy, từ những kiến thức có sẵn trong sách tơi đã giúp các em vượt xa ra ngoài thực
tế và thực tế ở đây lại hết sức sát thực và gần gũi với các em .
Sau khi học sinh nắm chắc mẫu câu Ai làm gì ? tơi đưa ra một số câu khác .
8
Ví dụ :
Chị em là học sinh trường Tiểu học Hermann Gmeiner .
Bạn Phương Vy là học sinh lớp 2B.
Nguyên là học sinh giỏi .
- Tôi hỏi: Câu cô vừa nêu có phải mẫu câu ta vừa học khơng ? Sau đó tơi tiếp
tục khắc sâu kiến thức về mẫu câu Ai là gì ?
Ví dụ :
Trường em là trường Tiểu học Hermann Gmeiner .
Cô giáo là người mẹ thứ hai của em .
Bố em là một người thợ giỏi .
Để học sinh không lẫn lộn giữa hai mẫu câu này tôi hỏi để học sinh nắm chắc
và khắc sâu hơn .
Hỏi: Hai mẫu câu Ai làm gì? và Ai là gì? Khác nhau chỗ nào ?
HS trả lời: Câu Ai làm gì ? là nêu hoạt động của người và vật
Câu Ai là gì? dùng để giới thiệu, nhận xét về người và vật.
Từ đó cho học sinh nhận biết rằng
Mẫu câu: Ai làm gì? Là nêu hoạt động của người và vật .
Mẫu câu: Ai là gì? dùng để giới thiệu, nhận xét về người và vật .
Biện pháp 2. Rèn kĩ năng đặt câu có cảm xúc, hình ảnh.
Câu văn có hình ảnh là câu văn mà ngồi hai bộ phận chính làm nịng cốt cịn
có thêm một số bộ phận phụ đi kèm mà lên lớp trên cịn có khái niệm là bổ ngữ và
định ngữ. Mục đích hướng cho HS đặt câu có hình ảnh và cảm xúc là bước đầu
giúp các em cảm nhận được lời nói của mình đối với người nghe, để vận dụng tốt
trong phân môn Tập làm văn và các môn học khác. Bước đầu giúp các em chuyển
ngôn bản nói thành ngơn bản viết để tả ngắn về biển, tả ngắn về cây cối, loài vật
…thành một đoạn văn ngắn từ 3 - 5 câu sắp xếp hợp lý, có hình ảnh và cảm xúc.
9
Ví dụ: Với bài tập 3 (trang 108): Chọn và sắp xếp các từ ở ba nhóm sau thành
câu:
1
2
3
em, chị em,
quét dọn, giặt,
nhà cửa, sách vở,
Linh, cậu bé
xếp, rửa
bát đũa, quần áo.
Ai
làm gì?
M: Em
quét dọn nhà cửa.
HS đặt:
Em giặt quần áo.
Chị em quét dọn nhà cửa.
Linh xếp sách vở.
Cậu bé rửa bát đũa.
Sau khi luyện tập đặt câu theo mẫu tương đối thành thạo tôi tiếp tục khai thác
thêm các em trong tiết thực hành trong buổi chiều ngày hôm đó, cụ thể tơi hỏi HS:
Từ câu: Em qt dọn nhà cửa. Ai hãy thêm một số từ nữa để câu văn này
hay hơn ? Các em sơi nổi trình bày ý kiến của mình như:
Em quét dọn nhà cửa rất sạch sẽ.
Em quét dọn nhà cửa rất gọn gàng.
Em quét dọn nhà cửa gọn gàng và sạch sẽ.
Em rất thích quét dọn nhà cửa.
Em quét dọn nhà cửa sạch sẽ làm bố mẹ rất vui lòng.
Em quét dọn nhà cửa sạch sẽ làm sao !...
Hoặc với câu: Chị em xếp quần áo. Tôi cũng gợi ý tương tự và giúp HS đặt
được một số câu như :
Chị em xếp quần áo đẹp quá!
...
10
Ôi ! Chị em xếp quần áo mới đẹp làm sao!...
Với cách khai thác như trên tôi đã giúp HS đặt được vô số câu được chuyển
thể từ những câu theo mẫu. Rõ ràng những câu văn mà các em vừa hình thành đều
mang đậm hình ảnh và giàu cảm xúc. Trong thực tế giảng dạy không phải bất kỳ
HS nào cũng biết đặt câu như thế mà chủ yếu chỉ dừng lại ở HS khá giỏi. Nhưng
GV cũng phải khai thác đến mức tối đa tiềm năng sẵn có ở các em và nếu như GV
khai thác một cách khéo léo, kiên trì thì tơi tin chắc rằng dần dần HS trung bình và
yếu cũng sẽ đặt được những câu như trên rất tốt. Bởi vì GV chỉ chuyển thể từ ngơn
bản viết sang ngơn bản nói mà ngơn bản nói thì trong thực tế các em thường xun
sử dụng. Vì vậy, việc chuyển từ ngơn bản nói sang ngôn bản viết đối với các em
hết sức dễ dàng .
Ví dụ: Bài 3 - Tuần 2- TV2 Tập 1 – Trang 12
Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu
chuyện.
HS kể: “ Lan và các bạn đi chơi trong công viên. Lan ngắm hoa và định ngắt
hoa. Tùng nhìn thấy và khuyên bạn đừng ngắt hoa.”
Tôi cho HS quan sát kĩ tranh, gợi ý thêm để học sinh đặt được những câu có
nhiều hình ảnh và cảm xúc hơn : “ Một buổi sáng đẹp trời, Lan và các bạn dạo
chơi trong công viên. Ở đây, khung cảnh thật là lãng mạn. Lan đang say sưa ngắm
những bông hoa hồng. Em định đưa tay ngắt một bơng hoa thì bỗng một bạn nam
ngăn lại. Bạn nói: Bạn đừng ngắt hoa, hãy để nóa khoe sắc hương để mọi người
cùng thưởng thức nhé. Lan hiểu ra và hai bạn cùng nhau ngắm những bông hoa
thật đẹp.”
Biện pháp 3. Thêm một số câu hỏi phụ vào mẫu câu.
Sau khi HS đã đặt câu thành thạo với hai dạng trên tôi vận dụng liên tục vào
trong các giờ học Luyện từ và câu khi có bài tập đặt câu và thực tế thì các em đặt
câu rất tốt. Tơi tiếp tục tìm thêm một phương án nữa giúp HS đặt câu hay hơn và
câu văn có ý nghĩa cụ thể hơn. Đó là bước sang học kì II HS tiếp tục làm quen với
11
việc đặt và trả lời câu hỏi Khi nào ? Vì sao ? ở đâu ? Như thế nào ? Để làm gì ? .
Dựa vào sự hiểu biết của các em về cách đặt và trả lời các câu hỏi này tôi áp dụng
gợi ý thêm cho các em bằng cách thêm một số câu hỏi phụ vào các câu mà các em
đã đặt được như các câu ở trên . Cụ thể trong câu:
" Anh chăm sóc em ." Tơi hỏi các em:
Hỏi: Anh chăm sóc em như thế nào ?
HS trả lời: Anh chăm sóc em rất tận tình và chu đáo.
Hỏi: Vì sao anh chăm sóc em?
HS có thể trả lời: Vì u thương em và ln muốn cho em mạnh khỏe nên
anh ln chăm sóc em rất tân tình.
Như vậy, với việc có thể thêm một số câu hỏi phụ vào một số câu đã đặt sẵn
tơi đã giúp các em hình thành được một số câu mới có cảm xúc, giàu hình ảnh và
rất cụ thể,cụ thể về thời gian, về không gian, về mục đích… Các em đã biết đặt
câu rất tốt.
Biện pháp 4. Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để tạo môi trường
giao tiếp cho học sinh đặt câu.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó dưới sự
hướng dẫn của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi,
thảo luận, chất vấn và chia sẻ lẫn nhau.
Cách thực hiên:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong bài dạy đạt hiệu quả,
giáo viên phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị ở nhà
- Giáo viên chuẩn bị kỹ bài dạy, nghiên cứu kỹ nhiệm vụ của bài dạy. Xác
định bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
- Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi
thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập xây dựng nghĩa từ
đối với những từ học sinh chưa hiểu nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức của
12
lớp mình, giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu cầu của bài
tập (đối với học sinh yếu, kém, trung bình ) tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều
được hoạt động hết khả năng của mình.
- Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh ghi
kết quả theo thảo luận nhóm…
Bước 2: Cách sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
- GV chia nhóm học sinh
Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh thảo
luận theo những cách khác nhau như: Chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia nhóm
theo hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ nắm vốn
từ của học sinh…. Mỗi cách chia nhóm đều có ưu và nhược điểm nhất định, khi
lựa chọn giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình thức để tránh nhàm
chán cho học sinh.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm vụ thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập ( hoặc phiếu
giao việc) cho cả nhóm.
Ví dụ: Luyện từ và câu ( Tuần 5)
Bài: Tên riêng và cách viết tên riêng. Câu kiểu: Ai là gì?
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 3, đặt câu:
a, Giới thiệu về trường của em: ……………………………………………….
b, Giới thiệu môn học em u thích:………………………………………….
c, Giới thiệu về làng ( phố, ấp, xóm) nơi em đang ở: ………………………
- Học sinh thảo luận nhóm
Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo viên
quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết, đảm bảo mọi nhóm đều
thảo luận sơi nổi, hiệu quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả.
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các
nhóm khác nhận xét, bổ xung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng của lớp.
13
- Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần nhớ sau khi thảo luận nhóm và
tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, phê bình nhắc nhở những nhóm,
những cá nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kỹ năng
hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh còn được học
từ bạn và tất cả học sinh đều được tham gia hoạt động giao tiếp.
Biện pháp 5. Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh rèn kĩ năng đặt câu
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ yếu
là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua trò
chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người
cùng hợp tác với mọi người, cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc tiểu học cũng như các bậc học khác, sử dụng trị chơi trong q trình
học tập làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự
khơ khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh
tăng lên.
Ví dụ: Đối với bài tập 3, Câu kiểu Ai là gì? (Tuần 3 – TV2 – Trang 27)
GV có thể tổ chức trị chơi: TRUYỀN ĐIỆN Thi đặt câu theo mẫu: ( Ai là gì?)
a, Mục đích:
- Rèn kĩ năng nói, viết câu đúng mẫu: Ai là gì?
- Luyện óc so sánh, liên tưởng, tác phong nhanh nhẹn.
b, Chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị một số từ ngữ phù hợp với đối tượng học sinh lớp 2
phục vụ cho bài đặt câu theo mẫu: Ai là gì?
c, Cách tiến hành:
Các bạn chơi chia thành từng cặp( 2 người) hoặc 2 nhóm(A, B): HS ở nhóm 1
nêu vế đầu, HS còn lại sẽ nêu vế sau. Nếu người nào nêu đúng sẽ được 1 ngôi sao
may mắn, người nào không nêu được sẽ mất lượt chơi. Hết giờ, đội nào được
nhiều ngôi sao hơn sẽ chiến thắng. Sau trò chơi, giáo viên và học sinh sẽ tuyên
dương những học sinh nêu đúng và nhiều từ.
( Các kiểu câu khác có thể tiến hành tương tự)
14
Ưu điểm của loại trò chơi này là tạo điều kiện cho học sinh được nói câu. Nói
cách khác, giúp học sinh được hoạt động với nhiều từ hơn để ghi nhớ câu hiệu quả
hơn.
Những trò chơi này theo dạng rất đơn giản, giáo viên không phải chuẩn bị, dể
tổ chức và khơng gây ồn ào nhưng lại có tác động tích cực đến việc ghi nhớ từ ngữ
của học sinh. Nếu giáo viên tổ chức tốt 2 trò chơi thì ngồi tác dụng củng cố kiến
thức của bài học, trị chơi cịn có tác dụng trở lại với bài học mới để ghi nhớ kiến
thức của bài học. Học sinh phải cố gắng để khi chơi được nhiều từ nhất. Từ đó,
hiệu quả của giờ học được nâng cao, số lượng câu và chất lượng câu sau mỗi bài
học sẽ được chuyển biến rõ rệt.
Trò chơi học tập rất hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, giáo viên khơng
nên lạm dụng trị chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi gây nhàn chán đối
với học sinh. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo , chặt chẽ về điều kiện vật chất và
cách thức thể lệ chơi. Trong lúc chơi, giáo viên cần hướng dẫn, động viên hồn
thành tốt bài tập, tạo sự hưng phấn, thích thú trong tiết học. Tổ chức trò chơi trong
giờ mở rộng vốn từ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: thời gian ngắn, nội dung
kiến thức thay đổi theo từng bài học… Vì vậy, tổ chức trị chơi phải linh hoạt,
khéo léo, không làm ảnh hưởng đến thời gian và đảm bảo chất lượng dạy học.
Biện pháp 6. Vận dụng hợp lý các hình thức thi đua, khen thưởng nhằm
khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong giờ học.
Thi đua gắn với khen thưởng là một động lực khơng thể thiếu được trong q
trình học của học sinh. Hình thức ti đua khen thưởng rất phù hợp với đặc điểm tâm
lý của học sinh tiểu học. Các em cố gắng phấn đấu vì động cơ rất đơn giản: Cố
gắng để được cô giáo khen, được bạn bè mến phục, cố gắng để làm vui lịng ơng
bà, bố mẹ… Trong mỗi tiết hoc, nhờ khơng khí thi đua, học sinh sôi nổi hơn, hăng
say hơn. Nếu được khen đúng lúc, học sinh sẽ cảm thấy tự tin và phấn đấu hơn.
Hiện nay, giáo viên ít sử dụng khen thưởng nên giờ học trầm, không sôi nổi và
chất lượng dạy học cũng bị hạn chế do lý do này.
- Hình thức khen thưởng đua ra phải mang tính cụ thể, chủ yếu về mặt tinh
thần để khuyến khích học sinh: cộng điểm “tốt” 1 tràng vỗ tay…
15
- Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần kịp thời khen những cá nhân tiêu biểu
xuất sắc và những cá nhân có tiến bộ vượt bậc trong tiết học. Từ đó học sịnh cả lớp
có thể noi gương để phấn đấu, phấn đấu để được cô giáo khen và phấn đấu để
không kém bạn bè.
Khi rèn kĩ năng đặt câu nói riêng và tất cả các giờ học khác nói chung, giáo
viên phải ln tạo được khơng khí thi đua sôi nổi, hào hứng trong giờ học. Khi học
sinh đạt thành tích, giáo viên cần khen thưởng kịp thời để khuyến khích, động viên
các em. Tuy nhiên, trong q trình sử dụng, giáo viên không lạm dụng quá nhiều
gây nhàm chán đối với học sinh.
Trên đây là những biện pháp tôi đã áp dụng để rèn kĩ năng đặt câu cho học
sinh lớp 2. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đặt được các
câu theo chủ điểm, phát huy khả năng giao tiếp và vốn sống của học sinh, tôi dùng
biện pháp thảo luận nhóm. Để học sinh hứng thú hơn trong việc học, tơi sử dụng
hình thức thi đua khen thưởng. Để thay đổi hình thức dạy học, tơi dùng trị chơi
trong giờ học. Đồng thời, không phải khi nào giáo viên cũng tổ chức thảo luận
nhóm hoặc trị chơi học tập, sẽ có thời gian học sinh phải độc lập làm bài tập cá
nhân nên giáo viên phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ý thức tự học .
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Nhờ áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng đặt câu trong phân môn Luyện từ và
câu lớp 2 mà học sinh cuả lớp tôi tiếp thu bài tốt, phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Từ đó chất lượng học tập môn Tiếng Việt nâng cao rõ
rệt. Câu văn của các em ít dùng sai hơn và có hình ảnh hơn.
Đến nay đã sang tuần 29 khi đặt câu cho học sinh tôi gợi ý và nhắc lại
theo các bước trên các em làm rất tốt quả như sau : lớp 2B (sử sụng biện
pháp rèn kĩ năng đặt câu cho học sinh ) và lớp 2A( không sử sụng biện pháp
rèn kĩ năng đặt câu cho học sinh):
16
Lớp Tổng
số
Đặt câu đúng mẫu,
Đặt câu đúng mẫu, đầy
Đặt câu chưa đúng mẫu
đầy đủ nội dung, có đủ nội dung .
hình ảnh và cảm
xúc.
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A 32 em
12em
37,5 %
16 em
50 %
4 em
12,5 %
2B 32 em
22 em
68,8 %
10 em
31,2 %
0 em
0%
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận
Để luyện tập đặt câu có hiệu quả , thật sự có chất lượng và phát huy tối đa
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên cần lưu ý:
- Phải có sự đầu tư nghiên cứu, phân tích sư phạm bài dạy chu đáo, xác định
đầy đủ mục tiêu cần đạt về kiến thức và kỹ năng ở từng bài tập đối với từng đối
tượng học sinh.
- Cần hướng dẫn HS đọc kĩ, nắm được yêu cầu của đề bài. Đặt câu như thế
nào? Đặt câu theo mẫu nào? Đặt câu nhằm mục đích gì?
- Cần hướng dẫn HS khá giỏi làm mẫu tốt trước khi cho cả lớp thực hành đặt
câu, biết cách gợi mở để kích thích HS sáng tạo khi đặt câu.
- Tổ chức cho HS thực hành đặt câu thơng qua hoạt động nhóm để các em có
cơ hội thể hiện mình, có cơ hội rèn kĩ năng giao tiếp. Đây cũng là cơ hội để các em
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập .
- Cần chữa ngay những lỗi của học sinh cũng như động viên kịp thời những
HS đặt được những câu văn hay, đầy đủ ý và có hình ảnh.
- Ln ln tạo khơng khí thoải mái, nhẹ nhàng trong các tiết học để HS tự
tin, học tập có hiệu quả hơn.
2. Kiến nghị
17
- Giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để nâng cao
hiệu quả dạy học phân mơn Luyện từ và câu như: thảo luận nhóm, trị chơi học
tập và các hình thức thi đua khen thưởng.
- Giáo viên phải chú ý tự trau dồi vốn từ cho mình. Đọc tài liệu để có những
hiểu biết, vốn từ sâu sắc để đặt và hướng dẫn học sinh đặt câu văn có hình ảnh và
cảm xúc.
- Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo đầu tư mua sắm đầy đủ sách tham khảo,
tài liệu, các thiết bị công nghệ hiện đại phục vụ môn Tiếng Việt để giáo viên mượn
và sử dụng trong giảng dạy có hiệu quả hơn.
- Các cấp lãnh đạo mở các chuyên đề dạy phân môn Luyện từ và câu để giáo
viên các trường học hỏi kinh nghiệm để giảng dạy được tốt hơn.
Tuy nhiên, đề tài khơng tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tơi rất mong nhận được
sự góp ý của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 31 tháng 3 năm 2017
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác
MẠC THỊ THANH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học – Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga
– Nhà Xuất bản Giáo dục.
2. Tiếng Việt 2 ( Tập 1, Tập 2) – Nguyễn Minh thuyết ( chủ biên)
– Nhà xuất bản Giáo dục.
18
3. Ngồi ra, SKKN cịn tham khảo thêm một số tư liệu, bài viết trên Internet và
các nguồn thông tin khác.
19