Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

triet vận DỤNG QUAN điểm TOÀN DIỆN TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.95 KB, 28 trang )

tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------LỜI NÓI ĐẦU
-------*****------Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, triết học đã ra đời với tư
cách là một khoa học thực hiện chức năng thế giới quan và phương pháp luận
khoa học. Nó trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự thiên nhiên
và trong sự nghiệp giải phóng con người của các lực lượng xã hội tiến bộ. Cùng
với nó là sự xuất hiện của phép biện chứng, cung cấp hệ thống lý luận về tính
biện chứng của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng đã trải qua nhiều hình thức
và đạt đến sự phát triển cao nhất của nó ở phép biện chứng duy vật. Được Các
Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX, và Lênin tiếp tục phát triển,
dựa trên cơ sở kế thừa thành tựu của các hình thức biện chứng trong lịch sử và
khái quát thực tiễn xã hội, phép biện chứng duy vật đã phản ánh đúng đắn
những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Trong
đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý được coi là
nền tảng cơ bản, quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật. Chính từ ý
nghĩa lý luận ấy mà việc tìm hiểu, nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, giúp ta nhận thức được một cách đúng
đắn, toàn diện về sự phát triển cuả thế giới khách quan trong mối liên hệ ràng
buộc quy định lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng; đặc biệt trong tình hình cụ
thể của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo quy luật
khách quan của sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Đảng, nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng trưởng kinh tế, song đi đôi với nó phải
thực hiện tốt công bằng xã hội. Có như thế mới đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của Việt Nam trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước những
thách thức lớn mà thực tiễn đang đặt ra.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Do đó, nắm vững nguyên lý về mối liên hệ phổ biến để xây dựng
quan điểm toàn diện trong phát triển kinh tế, tập trung cho tăng trưởng kinh tế


gắn liền với thực hiện công bằng xã hội là một vấn đề mang tính thực tiễn sâu
sắc. Hơn nữa, nó còn là nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự phát triển đúng
hướng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Chương 1
PHÉP BIỆN CHỨNG LÀ KHOA HỌC VỀ
MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1.1 Tìm hiểu chung về khái niệm mối liên hệ:
Trong lịch sử triết học, đã có nhiều quan niệm khác nhau về mối liên
hệ giữa các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới. Những
người theo quan điểm siêu hình thì cho rằng các sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan tồn tại biệt lập, tách rời, giữa chúng không có mối liên hệ ràng
buộc, qui định lẫn nhau. Cũng có một số nhà duy vật siêu hình cho rằng, giữa
chúng có mối liên hệ song các mối liên hệ ấy không có khả năng chuyển hoá
lẫn nhau. Các quan điểm này đều không phản ánh đúng về thế giới hiện thực.
Các nhà duy vật biện chứng đã khẳng định rằng: mối liên hệ là phạm trù
triệt học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới.
Vậy cơ sở nào đã làm nên các mối liên hệ của thế giới khách quan ? Các
nhà duy tâm khách quan mặc dù thừa nhận sự tồn tại của các mối liên hệ này
nhưng lại cho rằng, sự chuyển hoá lẫn nhau ấy của các sự vật hiện tượng là do
lực lượng siêu nhiên hay ý thức cảm giác của con người qui định. Bác bỏ
những quan niệm không đúng đắn ấy, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng
định tính thống nhất vật chất của thế giới chính là cơ sở của mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng. Nhờ có tính thống nhất đó, mà chúng không thể tồn tại
biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau

theo những quan hệ xác định.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------1.2 - Tính chất của mối liên hệ:
Tính khách quan:
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự
vật, hiện tượng. Sở dĩ như vậy là vì cơ sở của các mối liên hệ là tính thống nhất
vật chất của thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau được hình thành nên
đều là do quá trình vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất, do đó mà
xét cho cùng về nguồn gốc thì tất cả các sự vật, hiện tượng đều là nhân, là quả
của nhau. Vì thế, giữa chúng luôn tồn tại các mối liên hệ. Vấn đề là con người
phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình cho phù
hợp nhằm phục vụ lợi ích của xã hội và bản thân con người.
1.2.2 Tính phổ biến:
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong thế giới khách quan cũng
có mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Không những thế, mà bản thân
các yếu tố, bộ phận của chúng cũng có mối liên hệ qua lại với nhau chẳng hạn
như mối quan hệ chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
nội bộ một phương thức sản xuất. Ngoài ra, trong quá trình tồn tại, vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng, giữa quá khứ, hiện tại, tương lai của chúng
cũng có quan hệ biện chứng với nhau; trong đó hiện tại là kết quả của quá khứ
và là xu hướng của tương lai.
Trong mỗi điều kiện nhất định, mối liên hệ lại được biểu hiện dưới
hình thức riêng biệt, cụ thể.Song, dù dưới hình thức nào, thì chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Bởi thế, Ph.Ăngghen đã
viết:"Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến"
triết học gọi mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến.

(1)


. Cũng vì thế,


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------1.2.3 Tính đa dạng:
Chính tính đa dạng nhiều vẻ trong quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng đã qui định tính đa dạng của mối liên hệ giữa chúng. Mỗi
mối liên
---------- 1.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994, t.20, tr.455.
hệ lại có vai trò khác nhau trong việc qui định sự tồn tại, vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Như mối liên hệ bên trong luôn giữ vai trò quyết
định đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng hơn là mối liên hệ
bên ngoài. Song trong những điều kiện nhất định, mối liên hệ bên ngoài cũng
có thể giữ vai trò quyết định.
Tính đa dạng của các mối liên hệ là cơ sở để phân chia các cặp mối
liên hệ như mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu
và mối
liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối
liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên,...
Sự phân chia các cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, mỗi mối
liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá cho nhau tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể tác động đến sự vật, hiện tượng.Ví dụ như nếu xem xét tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội là hai vấn đề khác nhau của đời sống xã hội thì mối liên
hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài nhưng nếu nhìn chúng ở góc độ là hai
tiêu chí cơ bản của sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia thì mối liên hệ giữa
chúng lại là mối liên hệ bên trong.Song sự phân chia ấy là hết sức cần thiết vì
nó giúp cho con người nhìn nhận đầy đủ các mối liên hệ, xác định rõ được vai
trò của từng mối liên hệ trong điều kiện cụ thể để có tác động phù hợp nhằm

đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------1.3 - Quan điểm toàn diện:
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên
hệ phổ biến, có thể rút ra nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nhận thức
và cải tạo thực tại khách quan. Vì mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến và mỗi mối liên hệ lại tác động khác nhau tới quá trình tồn tại,
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng nên khi xem xét chúng phải có
quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật, hiện
tượng phải đặt nó trong mối liên hệ giữa nó với các sự vật, hiện tượng khác,
giữa các yếu tố, bộ phận trong bản thân nó, kể cả mối liên hệ trực tiếp và gián
tiếp.Chẳng hạn, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, không chỉ tìm hiểu những
qui luật vận động và những mâu thuẫn nội tại trong bản thân nó mà còn phải
xem xét cả đến hình thái kinh tế-xã hội đã sản sinh ra nó là chế độ phong kiến
để thấy được tuy còn nhiều hạn chế nhưng sự xuất hiện của nó là tất yếu khách
quan, tuân theo quy luật của sự phát triển hình thái kinh tế-xã hội; để từ đó
khắc phục những hạn chế, thúc đẩy sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội cao
hơn : đó là hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đồng thời, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải phân biệt
từng mối liên hệ, chú ý đến mối liên hệ bên trong, bản chất, chủ yếu, tất nhiên
để hiểu rõ bản chất của sự vật, hiện tượng, có tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao trong hoạt động thực tiễn. Để xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật
cho chủ nghĩa xã hội và có được sự phát triển bền vững, trước hết và quan
trọng nhất là phải phát huy sức mạnh nội lực của đất nước ta.Việc tranh thủ thời
cơ, sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế cũng quan trọng song không phải là nhân tố
quyết định.Do đó, chúng ta cần có những chủ trương, đường lối đúng đắn trong
kế hoạch xây dựng và phát triển đất nước.



tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Quan điểm toàn diện cũng chỉ ra rằng cần phải linh hoạt khi xem xét
các mối liên hệ, lưu ý tới sự chuyển hoá của các mối liên hệ.Vì thế, trong hoạt
động thực tiễn chúng ta phải căn cứ vào tình hình cụ thể, xác định rõ vai trò của
từng mối liên hệ.Càng nhận thức chính xác bao nhiêu vai trò và tác động của
các mối liên hệ thì hoạt động thực tiễn của con người càng phù hợp bấy nhiêu.
Từ việc nghiên cứu quan điểm toàn diện, đòi hỏi chúng ta trong quá
trình nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chống lại quan điểm siêu hình,
thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung. Quan điểm siêu hình là quan điểm
không thừa nhận sự tồn tại của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng do đó nó
đã phán ánh không đúng về hiện thực.Thuật nguỵ biện là quan niệm lấy lợi ích
chủ quan của mình thay thế cho mối liên hệ khách quan của các sự vật, hiện
tượng nên dễ dẫn tới chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiễn. Còn chủ
nghĩa chiết trung thì lại đánh đồng vai trò của mọi mối liên hệ nên không thể có
những biện pháp tác động phù hợp để đạt hiệu quả hoạt động cao.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện góp
phần chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, cải tạo xã hội và cải
tạo bản thân con người. Đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên kinh tế, việc tìm
hiểu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên tắc phương pháp luận này
càng có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp trang bị lý luận để chúng ta có thể nhận
thức và giải quyết được nhiều vấn đề thực tiễn kinh tế đặt ra ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Chương 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Ở VIỆT NAM - VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐI ĐÔI VỚI
CÔNG BẰNG XÃ HỘI
2.1 - Tăng trưởng kinh tế-tiền đề vật chất của sự phát triển:
2.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế thường được hiểu là sự tăng lên về qui mô sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Qui mô và tốc độ tăng
trưởng là"cặp đôi"trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay trên
thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của xã hội
bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc
nội(GDP).Tăng trưởng kinh tế được đánh giá bằng mức tăng GNP hay GDP
của năm sau so với năm trước.
2.1.2 Vai trò của tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát
triển kinh tế, là cơ sở để thực hiện hàng loạt các vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội.
Tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng qui mô sản xuất xã hội,
tăng sản lượng và chất lượng của các loại hàng hoá, dịch vụ trong xã hội, góp
phần giảm bớt tình trạng đói nghèo.Do đó, tăng trưởng kinh tế là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường khắc phục lạc hậu, vươn


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------lên giàu có.Đặc biệt,đối với các nước đang phát triển như nước ta, vấn đề này
càng có ý nghĩa quan trọng, nó sẽ là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt
hậu về mặt kinh tế so với các nước phát triển.
Đồng thời, tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của người dân
tăng lên, nguồn chi cho phúc lợi xã hội của nhà nước và chất lượng cuộc sống
của cộng đồng được cải thiện như : kéo dài tuổi thọ, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng
và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế còn tạo ra điều kiện để giải quyết

công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp.Bởi lẽ, một trong những nguyên nhân
của nền kinh tế tăng trưởng nhanh là đã sử dụng tốt lực lượng lao động trong xã
hội.
Hơn nữa, tăng trưởng tạo ra tiền đề vật chất để củng cố quốc phòng
an ninh, củng cố niềm tin của người dân vào chế độ chính trị, góp phần tăng
cường uy tín của sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước đối với xã hội.
Như vậy, có thể khẳng định tăng trưởng kinh tế nhanh là một mục tiêu
mà mọi quốc gia đều thường xuyên theo đuổi. Nhưng trên thực tế, tăng trưởng
kinh tế luôn mang tính hai mặt, nếu tăng trưởng quá mức sẽ gây ra lạm phát gia
tăng, phân hoá giàu nghèo, do đó cần có những biện pháp tích cực để tăng
trưởng hợp lý, bền vững và phải gắn với giải quyết vấn đề tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường.
2.1.3 Các nhân tố tăng trưởng kinh tế:


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Một là, vốn : được hiểu là toàn bộ tài sản dùng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh bao gồm vốn tài chính và vốn hiện vật. Nguồn vốn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh có tác động trực tiếp tới tốc độ tăng GDP do đó mà nó là
một nhân tố của tăng trưởng kinh tế.Song một nền kinh tế tăng trưởng nhanh
thì không chỉ dừng lại ở việc tăng khối lượng vốn đầu tư, mà phải chú ý tới
quản lý vốn, sử dụng vốn hợp lý cho các ngành, các vùng, các lĩnh vực cụ thể
của nền kinh tế.
Hai là, con người : đây là nhân tố căn bản của tăng trưởng kinh tế bền
vững. Bởi lẽ sức lao động của con người là điều kiện tiên quyết của mỗi quá
trình lao động sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội.
Con người với sức lao động, với trí tuệ, trình độ chuyên môn cao, có sức khoẻ,
nhiệt tình và kỷ luật, sẽ là lực lượng đóng góp chủ yếu vào tổng sản phẩm xã
hội. Do đó, mà nhà nước cần phải có những chủ trương, đường lối đứng đắn để
phát huy nguồn lực con người, nhất là con người xã hội chủ nghĩa ( XHCN) vì

đầu tư cho con người thực chất là đầu tư cho sự phát triển.
Ba là, khoa học- công nghệ (KH - CN): ngày nay KH- CN đã trở
thành lực lượng sản xuất ( LLSX ) trực tiếp, tham gia ngày càng nhiều hơn vào
quá trình sản xuất vật chất. Cuộc cách mạng KH - CN bùng nổ mạnh mẽ không
chỉ góp phần tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, trong khi hiệu suất
sản xuất không ngừng tăng lên, tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng theo chiều
sâu mà còn đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển của những ngành mới
như điện tử, tin học, công nghệ sinh học,...Do đó, mà KH - CN là nguồn lực
quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, cơ cấu kinh tế : cơ cấu kinh tế là hệ thống, kết cấu bảo đảm
cho mối quan hệ hữu cơ,ràng buộc, quy định lẫn nhau của các vùng,các khu


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------vực và thành phần kinh tế. Trong nội bộ nền kinh tế, cơ cấu kinh tế có ý nghĩa
quan trọng vì nếu nó hợp lý sẽ giúp cho từng bộ phận vận hành một cách chính
xác, trôi chảy. Cơ cấu kinh tế hợp lý, phát huy được nguồn nội lực, phù hợp với
trình độ phát triển khoa học kĩ thuật, gắn với phân công lao động xã hội và hợp
tác hoá quốc tế, là cơ sở cho tăng trưởng kinh tế.
Năm là, thể chế chính trị và vai trò của nhà nước : nền kinh tế chỉ có
thể tăng trưởng nhanh và bền vững khi có sự ổn định về chính trị-xã hội. Thể
chế chính trị tiến bộ sẽ có tác động đến tăng trưởng kinh tế, ở chỗ, nó có khả
năng định hướng tăng trưởng kinh tế vào những mục tiêu mong muốn, khắc
phục đựơc những hạn chế xã hội do tăng trưởng kinh tế gây ra.Trong thực tế có
những nền kinh tế tăng trưởng nhưng không bảo đảm tiến bộ xã hội như nền
kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa.Vai trò rõ nét nhất được thể hiện ở nhà
nước là bằng những chủ trương đúng đắn, sự lãnh đạo, quản lý phù hợp, góp
phần tăng trưởng đúng hướng.
Như vậy, có thể khẳng định tăng trưởng kinh tế gắn với sự hoàn thiện
cơ cấu, thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống là tiền đề vật chất của

sự phát triển.
2.2 - Công bằng xã hội-động lực của sự phát triển đất nước:
2.2.1 Khái niệm công bằng xã hội:
Công bằng xã hội là một khái niệm mở và đang từng bước được hoàn
thiện cùng với quá trình phát triển kinh tế. Xét một cách toàn diện thì công
bằng xã hội là sự phù hợp và tương xứng giữa cái đóng góp và cống hiến của


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------cá nhân cho xã hội với cái mà cá nhân được hưởng và nhận lại từ phía xã hội
xét ở tất cả các khía cạnh.
Bản chất của công bằng xã hội là sự phù hợp giữa cái mà chủ thể
đóng góp và được hưởng.Song trong thực tế, sự đóng góp của mỗi chủ thể rất
đa dạng như đóng góp sức lao động, thời gian, vốn, chất xám, xương máu... nên
cái mà họ được nhận lại cũng rất đa dạng và khác nhau như chức vụ, địa vị, tiền
lương, thưởng,... Chính tính đa dạng của hình thức đóng góp và nhận lại đã
khiến sự công bằng xã hội thường không được bộc lộ rõ ràng, nên nhiều khi
quan hệ đó đã thể hiện sự công bằng nhưng nhận định chủ quan của chủ thể lại
cho là bất công và ngược lại.
Ngoài ra, công bằng xã hội còn là vấn đề mang tính chất lịch sử, bị
qui định bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, của mỗi giai đoạn phát
triển của xã hội loài người. Trước kia, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi
LLSX còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, nhu cầu của con người chỉ
dừng lại ở việc đáp ứng được điều kiện sống tối thiểu nhất, do đó mà nguyên
tắc công bằng xã hội là nguyên tắc cào bằng. Còn hiện nay, khi LLSX phát
triển ở trình độ cao, không thể duy trì nguyên tắc cào bằng như trước đây
được,vì nó sẽ làm kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất xã hội.Trong thời đại
ngày nay, công bằng xã hội cũng không hoàn toàn giống nhau ở mọi quốc gia.Ở
các nước tư bản chủ nghĩa,nguyên tắc phân phối tuy có vẻ rất công bằng nhưng
lại không dựa trên điều kiện phát triển đồng đều nên thực chất chỉ mang lại lợi

ích cho số ít những người vốn có nhiều lợi thế trong xã hội.Còn ở các nước
XHCN thì dựa trên nguyên tắc phân phối theo đóng góp và lao động đồng thời
kết hợp với việc tạo ra những điều kiện phát triển đồng đều cho mọi cá nhân
trong xã hội nên có thể thực hiện được sự công bằng xã hội thực sự.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Trong thực tế, cũng cần phân biệt công bằng xã hội và các khái niệm
khác như : bình đẳng xã hội, bình quân chủ nghĩa hay cào bằng.Bình quân chủ
nghĩa là nguyên tắc phân phối mang tính chất cào bằng không dựa trên một
thước đo về lao động hay đóng góp nào, nó đã từng được áp dụng ở nước ta
trong thời kì chiến tranh nhưng thực chất đây là nguyên tắc phân phối lạc hậu,
lỗi thời và không còn phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay. Còn bình đẳng
xã hội là quyền ngang nhau của mọi người lao động. Đây là phạm trù mà xã hội
xã hội chủ nghĩa muốn hướng tới nhưng chưa thể thực hiện ngay được vì mỗi
người sinh ra đã có sự khác nhau về thể chất và trí tuệ,về hoàn cảnh gia đình và
hoàn cảnh khác nhau do lịch sử để lại. Như vậy,thực chất công bằng xã hội là
một bộ phận của bình đẳng xã hội và là vấn đề hoàn toàn có thể thực hiện được
dưới chủ nghĩa xã hội.
2.2.2 Vai trò của công bằng xã hội:
Công bằng xã hội vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế-xã hội vừa
là động lực của sự phát triển ấy.
Khi sự công bằng xã hội được thực hiện một cách đầy đủ, nó sẽ kích
thích mọi người tuỳ theo sức lực và khả năng của mình đóng góp vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước,do đó mà nó trở thành động lực cho sự
phát triển xã hội.
Và mọi chủ trương, chính sách nhằm phát triển xã hội suy cho cùng
cũng đều hướng tới con người, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm
cho mọi người dân trong xã hội có được những điều kiện tốt nhất để tiếp tục
đóng góp và nhận lại những giá trị tương xứng với sự đóng góp đó từ phía xã

hội, tức là thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------2.3 - Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
2.3.1 Tính tất yếu khách quan của mối liên hệ này trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Xuất phát từ nguyên lý triết học về mối liên hệ phổ biến, ta biết rằng
mỗi người, mỗi nhóm người trong xã hội đều có mối liên hệ qua lại, tác động
lẫn nhau, đều chịu sự quản lý của một thiết chế đặc biệt là nhà nước. Nhà nước
bằng các công cụ quản lý xã hội của mình bảo đảm cho mọi người dân phát huy
tối đa khả năng cống hiến cho xã hội, nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh
tế, tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự phát triển đất nước.Song đồng thời phải
tạo ra được sự công bằng trong phân phối thành quả lao động cũng như trong
các nội dung khác, từ đó mới khuyến khích được sự cống hiến, đóng góp của
người dân và do đó mới lại có động lực để phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài ra, đứng trên quan điểm toàn diện trong đánh giá thành tựu
kinh tế vĩ mô của một quốc gia,công bằng xã hội phải được thực hiện song
song cùng với các biện pháp tăng trưởng kinh tế, trở thành tiêu chí của sự phát
triển bền vững.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, tạo dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã khẳng định ý nghĩa thực
tiễn hết sức quan trọng của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội.Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng nhấn mạnh : "Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội phải được thực
hiện ngay trong từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội


tiÓu luËn triÕt häc

----------------------------------------------------------------------------------------------chủ nghĩa trên cơ sở thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội."2
Tăng trưởng kinh tế là một nội dung hết sức quan trọng trong công
cuộc đổi mới ở nước ta.Bởi lẽ, có tăng trưởng kinh tế thì mới thực hiện được
một loạt các mục tiêu chính trị-xã hội khác như củng cố quốc phòng an ninh,
nâng cao mức
sống cho người dân, tăng nguồn chi cho phúc lợi xã hội...và đặc biệt là
bảo đảm công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế tức là tạo ra được những điều
kiện vật chất ngày càng hoàn thiện,trên cơ sở đó mà mọi người có cơ hội cống
hiến tốt hơn và nhận lại được những giá trị tương xứng với sự đóng góp đó từ
phía xã hội.
Có thể thấy rằng,tăng trưởng kinh tế là một vấn đề xuyên suốt mà
thực tiễn đặt ra đối với nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm
xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.Và sự tăng trưởng ấy
khách quan phải được gắn liền với việc thực hiện công bằng xã hội.Tại sao lại
tồn tại khách quan mối liên hệ này, thực tế có những nền kinh tế vẫn tăng
trưởng rất nhanh
trong khi lại vi phạm các nguyên tắc về công bằng xã hội? Trước hết
phải khẳng
định rằng công bằng xã hội là một nội dung quan trọng của lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa,là một trong những ước mơ lâu đời của nhân dân lao động
Việt Nam.Bao thế hệ người Việt Nam đã hi sinh xương máu trong chiến tranh
và xây dựng tổ quốc cũng để nhằm vươn tới một xã hội công bằng,hạnh
2

---------

(2) Xem : Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88



tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------phúc.Do đó,việc Đảng ta chủ trương thực hiện công bằng xã hội ngay trong
từng bước đi của sự phát triển kinh tế là điều hết sức đúng đắn và phù hợp với
bản chất cách mạng của dân tộc ta.Trên thực tế đúng là có tồn tại những quốc
gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao như các nước tư bản chủ nghĩa nhưng
lại không dựa trên những điều kiện phát triển đồng đều cho mọi cá nhân mà chỉ
nhằm đem lại lợi ích cho bộ phận nhỏ trong xã hội nắm trong tay nhiều đặc
quyền,đặc lợi.Cho nên trong sự phát triển của các quốc gia đó luôn chứa đựng
rất nhiều mâu thuẫn,cũng như các vấn đề chính trị xã hội phức tạp khác như sự
thanh toán lẫn nhau giữa các Đảng phái chính trị, sự hoạt động của các phần tử
khủng bố,...
Nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghiã. Đây quả là một thời kỳ rất gian nan, phức
tạp. Để đảm bảo cho hiệu quả sản xuất được nâng cao,tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh và ổn định đã khó, đồng thời lại phải đảm bảo cho sự phát triển ấy đi
đúng hướng, theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua sự điều tiết của
nhà nước. Kinh tế thị trường là một cơ chế kinh tế rất năng động, song sự cạnh
tranh mà nó đem lại cũng vô cùng khốc liệt. Sự cạnh tranh ấy một mặt góp
phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặt khác nó cũng làm phân
hóa nhanh lực lượng sản xuất. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nên chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là hoàn
toàn đúng đắn vì nó là một tất yếu khách quan mà thực tế đòi hỏi. Song trong
quá trình ấy,nhà nước bên cạnh việc tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh
tế phát triển, cần phải có sự can thiệp phù hợp để các thành phần kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể vẫn giữ và đóng góp vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân.



tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Trong thực tế, đã có nhiều quan điểm cho rằng nền kinh tế thị trường
không thể đảm bảo được công bằng xã hội vì nó đang đẩy nhanh sự phân hoá
giàu nghèo trong xã hội.Song nếu nhìn nhận một cách toàn diện, sâu sắc về nền
kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát
triển thì có thể khẳng định chắc chắn đó là cơ chế thích hợp nhất và là điều kiện
đảm bảo cho việc thực hiện công bằng xã hội.Tại sao lại có thể khẳng định như
vậy?
Trước hết, phải thấy được cơ chế kinh tế mở ấy mang lại hiệu quả sản
xuất cao hơn hẳn so với thời kỳ chúng ta còn thực hiện cơ chế kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp bởi lẽ nó đã đem đến sự phát triển năng động cho lực lượng
sản xuất.Mà như đã khẳng định ở trên tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện
công bằng xã hội.
Đồng thời, cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đem lại môi
trường tự do cạnh tranh trong khuôn khổ sự điều tiết của nhà nước.Sự cạnh
tranh trong cơ chế thị trường, một mặt, dẫn đến đào thải, sàng lọc, loại bỏ một
cách lạnh lùng, không thương xót những người kém thích nghi, làm ăn không
hiệu quả; mặt khác tạo cơ hội phát đạt cho những người tài giỏi,năng động...
Chính môi trường làm việc ấy đã khuyến khích mọi người hăng hái đóng góp,
cống hiến hết khả năng của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế,
đồng thời họ được hưởng lại những giá trị xứng đáng với những đóng góp mà
mình đã bỏ ra.Nó khác hoàn toàn cơ chế tập trung quan liêu,bao cấp với
nguyên tắc phân phối mang tính chất bình quân chủ nghĩa,cào bằng sự đóng
góp của mọi thành viên trong xã hội.Thực tế thì việc thực hiện cơ chế thị
trường đã đẩy nhanh sự phân hoá giàu nghèo.Song cần phải khẳng định rằng cơ
chế thị trường không "phôi thai","sinh nở"ra sự phân cực ấy.Mà sự phân hoá
giàu nghèo đã là một hiện tượng vốn có trong lịch sử loài người.Ngay cả trong


tiÓu luËn triÕt häc

----------------------------------------------------------------------------------------------cơ chế tập trung,quan liêu bao cấp trước đây,ở các nước xã hội chủ nghĩa, vẫn
có sự phân hoá giàu nghèo được che đậy một cách tinh vi,kín đáo.Bởi lẽ,mỗi
người khi sinh ra đã khác nhau về năng lực thể chất, tinh thần lại cộng thêm sự
khác nhau về cơ hội và điều kiện xã hội được tích tụ dần dần,dẫn đến sự phân
hoá giàu nghèo trong xã hội.Bản thân cơ chế thị trường chỉ làm cho sự phân
hoá giàu nghèo trở nên phổ biến,rõ nét hơn mà thôi.Song không thể vì thế mà
cho đó là biểu hiện của sự bất công xã hội nếu sự giàu có ấy được tiến hành
một cách chính đáng,dựa trên năng lực và sự đóng góp hợp pháp.Sự phân hoá
giàu nghèo chỉ biểu hiện sự bất công khi có bộ phận giàu lên do những việc làm
bất chính.Hoặc khi cơ chế quản lý có nhiều bất cập, để những lợi thế nghề
nghiệp, tình trạng độc quyền, sự can thiệp của các cơ quan nhà nước...tạo cơ
hội cho một bộ phận nào đó trong xã hội có thu nhập cao hơn mức đóng góp
của họ còn những bộ phận khác-không có lợi thế đó-lại hưởng thu nhập thấp
hơn. Hơn nữa,nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tức là đảm nhiệm vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế và
quản lý xã hội là nhà nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân,dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.Vì thế mà, sự can thiệp của nhà nước ta
sẽ đảm bảo hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện được
nguyên tắc phân phối công bằng trong điều kiện cụ thể của nước ta mà cơ chế
tự điều tiết của thị trường không thể thực hiện được.Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu nên sẽ có nhiều
hình thức phân phối thu nhập quốc dân như phân phối theo lao động, phân phối
theo vốn và tài sản đóng góp, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.Chủ
trương thực hiện nhiều hình thức phân phối này là đúng đắn, mặc dù phải thừa
nhận rằng phân phối theo lao động là công bằng, nhưng căn cứ vào tình hình cụ
thể của nước ta thì nguyên tắc phân phối theo đóng góp xã hội là thích hợp
nhất, đảm bảo tốt hơn sự công bằng trong xã hội.Vì có một bộ phận dân cư
trong xã hội ta là các thương bệnh binh đã có rất nhiều đóng góp cho đất nước



tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------trong thời kỳ chiến tranh,nay do thương tật hay các lý do sức khoẻ không thể
tiếp tục lao động sản xuất, nếu thực hiện phân phối theo lao động thì sẽ là bất
công đối với họ.
Chính từ mối liên hệ khách quan chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần có sự nhận thức sâu sắc, toàn diện, có
hướng tác động phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao trong quá trình xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.3.2 Thực trạng ở nước ta:
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới với hai mục tiêu chiến
lược, quan trọng là tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, chúng ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn song cũng gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc.
Từ sau đại hội Đảng VI (họp tháng12-1986), chúng ta chủ trương
chuyển đổi cơ chế kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Để khắc phục những sai lầm, hạn chế mà
mô hình kinh tế cũ để lại như tệ quan liêu, cửa quyền,tiêu cực trong bộ máy
quản lý hành chính, sự tồn tại phổ biến nhưng mang nặng tính chất hình thức
của sở hữu tập thể làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, kìm hãm sự phát
triển xã hội, Đảng ta đã có những chủ trương, chính sách kịp thời nhằm vực
dậy nền sản xuất xã hội đồng thời thực hiện những mục tiêu chính trị xã hội
khác.
Bước đầu, chúng ta đã đạt được một số thành tựu tương đối khả quan
về mặt kinh tế, làm bước đệm cho việc thực hiện các chính sách xã hội trong


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội.Trong thời gian qua,
kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như tăng trưởng GDP ở
nhịp độ cao, (năm 2001 là 6,9%; năm 2002 là 7,04% và năm 2003 là 7,24%) (3),

cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của công nghiệp,
dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp.Cơ cấu của từng ngành cũng có sự
chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh đối với thị trường
trong và ngoài nước.Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng
tăng(năm 2003, chiếm tới 35,6% GDP), các nguồn lực trong xã hội được huy
động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng
có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.Với tốc độ tăng trưởng
khá cao liên tục trong nhiều năm như vậy, đời sống của nhân dân đã được cải
thiện đáng kể.Riêng thời kỳ 1991-2000, GDP tăng gấp đôi, đồng thời tỉ lệ
nghèo đói giảm còn một nửa(từ 60% xuống 32% theo chuẩn quốc tế). Chúng ta
đã" hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu:giảm một nửa tỉ lệ nghèo đói
vào năm 2015" mà Liên hợp quốc đề ra (4) .Trong cùng thời gian,cả nước đã đạt
chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học,tỉ lệ người lớn biết
chữ tăng từ 88%
----------- (3) Kinh tế - Xã hội Việt Nam 3 năm 2001 - 2003, Tổng cục
Thống kê, H.2003
----------- (4) Cơ quan đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam : "đưa các
mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đến với người dân", Hà Nội, 2002, tr.1
lên 94%. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ, tuổi thọ trung
bình của người dân tăng từ 63 lên 68. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ
mức dưới trung bình: 0,498(năm 1991) lên mức trên trung bình: 0,688(năm
2000), xếp thứ 109/173 nước được thống kê.Từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới, chúng ta đã làm được nhiều việc để thực hiện công bằng xã hội. Đảng ta
đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm khơi dậy và phát huy tính năng động,
sáng tạo của người dân không chỉ trong quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------mà còn trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.Bước đầu, chúng ta đã giải
quyết được phần nào vấn đề việc làm, cải thiện đời sống cho nhân dân,nâng cao

chất lượng các loại hình dịch vụ như chăm sóc sức khoẻ, giải trí, du lịch,...,
phát triển giáo dục,xoá đói giảm nghèo,....Những thành tựu trên chính là sự thể
hiện cho những nỗ lực nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn nguyên tắc bảo đảm
công bằng xã hội của Đảng, nhà nước ta.
Song cũng phải thừa nhận một thực tế là quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội
với hai mục tiêu cơ bản là tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
nước ta còn vô cùng gian nan,phức tạp với rất nhiều thách thức.Do đó mà trong
quá
trình thực hiện không tránh khỏi có những kết qủa không như mong
đợi.Nước ta xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu và hiện nay căn bản vẫn
là một nước nông nghiệp với 63% dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông-lâmngư nghiệp.Mặc dù cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ nhưng công nghiệp của ta vẫn còn nhỏ bé, dịch
vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có. Nhìn tổng thể, nứơc ta vẫn
thuộc nhóm các nước chưa phát triển, GDP đầu người còn thấp.Trong quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, thị trường dân tộc thống nhất đã được hình thành nhưng chưa đồng
bộ.Thị trường lao động hoạt động không hiệu quả dẫn tới tỉ lệ thất nghiệp tuy
đã giảm nhưng vẫn còn cao ( hiện nay, ở thành thị là 6% và ở nông thôn là
29%). Mặc dù chúng ta đã cố gắng rất nhiều trong việc kiện toàn các chủ
trương, chính sách nhưng trên thực tế vẫn còn thiếu hoặc có những điểm bất
cập, nhiều chính sách đã được ban hành nhưng lại không được triển khai thực
hiện tốt. Chính do sự không đồng bộ trong việc ban hành và thực hiện đó cũng
đã dẫn tới sự kém hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.Hiện nay, về cơ bản


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------chúng ta đã đảm bảo được những nguyên tắc của sự công bằng xã hội, song
trong xã hội ta lại đang diễn ra sự phân tầng và phân hoá xã hội gay gắt ở cả
thành thị và nông thôn. Đời sống của một bộ phận dân cư,nhất là ở vùng sâu,

vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và miền núi... còn nhiều khó khăn. Khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư,giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và
miền núi đang có xu hướng dãn ra. Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, hệ
số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm giàu nhất(20%) và nhóm nghèo nhất
(20%) trong tổng số dân cư cả nước là 5,6 lần ở năm 1992 thì năm 1997-1998
đã tăng lên là 10,47 lần. Mấy năm gần đây, việc xoá đói giảm nghèo có xu
hướng chậm lại, số hộ tái nghèo tăng lên. Tỉ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị
và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao (tương ứng là 6% và khoảng 29% hiện
nay). Hiện tượng làm giàu bất chính do tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, đầu cơ
vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Nhiều tệ nạn xã hội khác như ma tuý, mại
dâm, đua xe trái phép,... chậm được đẩy lùi một cách có hiệu quả.Thực trạng
trên đây chưa thể khắc phục được trong một thời gian ngắn, do đó vấn đề thực
hiện công bằng xã hội là cả một quá trình phấn đấu liên tục và lâu dài.
Từ thực tiễn trên đây, một vấn đề có ý nghiã chiến lược đặt ra là phải
làm thế nào để phát huy các thành tựu đã đặt được đồng thời hạn chế những
yếu kém trong quá trình phát triển kinh tế xã hội,thực hiện một cách có hiệu
quả mục tiêu chiến lược tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc đảm bảo tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh ? Đây là vấn đề không chỉ đặt ra với các cấp lãnh đạo mà là
vấn đề của toàn Đảng,toàn dân ta cùng phải chung sức chung lòng phấn đấu
thực hiện.Trong khuôn khổ của bài viết này, với tư cách là một sinh viên, nhìn
nhận vấn đề từ góc độ triết học,em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cho
vấn đề này.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------2.3.3 Một số giải pháp:
Trước tiên cần phải nhìn nhận lại về cơ sở của vấn đề này,đó là mối
quan hệ biện chứng khách quan giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã

hội.Tăng trưởng kinh tế tạo ra tiền đề vật chất để thực hiện công bằng xã hội,
ngược lại thực hiện tốt công bằng xã hội sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Do đó mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội đều phải hướng tới hai
nội dung này.Bởi lẽ không thể có được sự công bằng xã hội nếu nền kinh tế
kém phát triển không đủ khả năng cung cấp những nhu cầu đa dạng và không
ngừng tăng lên của người dân.Lại càng không thể có một nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, bền vững trong khi trình độ thể chất, trí tuệ người dân thấp kém.
Đồng thời,tăng trưởng kinh tế đến đâu phải thực hiện ngay công bằng
xã hội đến đấy.Không thể chờ đến khi kinh tế phát triển cao mới thực hiện công
bằng xã hội.Nước ta còn nghèo thì chúng ta lại càng phải thực hiện công bằng
xã hội, có như vậy người dân mới yên tâm cống hiến khả năng và sức lực của
mình, có như vậy mới có động lực để tăng trưởng kinh tế, để vươn lên khỏi sự
nghèo nàn, lạc hậu.
Vậy cụ thể là tổ chức hay cá nhân nào có thể thực hiện vấn đề này?
Đó chắc chắn không ai khác ngoài nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với vai
trò điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội. Nền kinh tế thị trường với cơ
chế tự điều tiết của nó không thể tự đảm bảo công bằng xã hội trong điều kiện
cụ thể của nước ta mà phải thông qua vai trò của nhà nước vừa để phát huy
những ưu điểm vừa để hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Trước hết, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với sự tồn tại
khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần và để khắc phục những tàn dư do
chế độ phân phối bình quân, cào bằng-sai lầm của thời kỳ trước đổi mới gây ra,
Nhà nước cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi, công bằng cho mọi thành phần
kinh tế, mọi tầng lớp dân cư phát huy tối đa khả năng của mình trong mọi lĩnh
vực cũng như trong sự tiếp cận với các cơ hội phát triển. Song với việc chấp
nhận quan hệ bóc lột ở mức độ nhất định ( trong các thành phần kinh tế tư bản
tư nhân,tư bản nhà nước), nhà nước cần có những chính sách điều tiết thu nhập

giữa những người tham gia sản xuất kinh doanh sao cho người lao động không
bị bóc lột quá mức mà được hưởng tiền công phù hợp với giá trị do việc sử
dụng sức lao động mang lại.
Thứ hai, là việc áp dụng các nguyên tắc phân phối : trong điều kiện
nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu vì vậy mà có nhiều hình
thức phân phối thu nhập song cần phải thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế và xem đây là nguyên tắc phân phối
chủ yếu và đặt ở vị trí hàng đầu của công bằng xã hội vì chính lao động có năng
suất,chất lượng mới thực sự là nguốn gốc quan trọng tạo ra mọi của cải vật chất
trong xã hội.Ngoài ra, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác cho xã hội cũng là nguyên tắc phân phối công bằng vì nó phù hợp với tình
hình cụ thể của nước ta hiện nay.Bên cạnh đó,nhà nước cần tiến hành tốt chính
sách phân phối lại thông qua các hình thức thuế phù hợp (thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...) tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước,để chi cho các chiến lược kinh tế, xã hội. Ngoài ra, hình thức phân phối
thông qua phúc lợi xã hội và chính sách xã hội cũng đặc biệt cần thiết trong bối
cảnh hiện nay ở nước ta, nhất là đối với các đối tượng chính sách, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc và các địa phương không có lợi thế, chậm phát
triển.


tiÓu luËn triÕt häc
----------------------------------------------------------------------------------------------Thứ ba, là nhà nước cần có quy hoạch cụ thể trong việc đầu tư phát
triển cho từng vùng, miền đảm bảo sự cân đối hợp lý, tránh tình trạng phát triển
quá chênh lệch giữa các địa phương trên cả nước như trong thời gian vừa
qua.Cần thiết phải dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm
để chúng trở thành những" đầu tàu" tăng trưởng kéo" đoàn tàu" kinh tế Việt
Nam đi nhanh.Song những bước đi ấy chỉ thực sự vững chãi khi các" toa tàu"
đều hoạt động tốt nghĩa là phải đồng thời có sự đầu tư thích đáng, hợp lý cho
các vùng khác, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu

số,...nhằm xoá đi sự cách biệt quá lớn về trình độ phát triển, cũng là để góp
phần tạo ra sự ổn định về mặt chính trị xã hội.
Thứ tư, là phải cụ thể hoá và kiên trì thực hiện những chủ
trương,chính sách về xoá đói giảm nghèo, thu ngắn khoảng cách giàu nghèo đi
đôi với cuộc đấu tranh ngăn chặn khuynh hướng làm giàu phi pháp,đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Khoảng cách giàu nghèo là
một thực tế tồn tại từ lâu trong xã hội và dường như nó đã là hiện tượng tất yếu
của mọi quá trình phát triển.Bỡi lẽ có bộ phận giàu lên trước thì sẽ có bộ phận
chậm phát triển hơn trở thành nghèo khó trong so sánh tương quan đó.Do đó
nhà nước cần có những cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý để điều chỉnh
đảm bảo sự công bằng trong xã hội, tạo điều kiện cho những người có khả năng
được làm giàu chính đáng, hợp pháp. Một thực tế phải thừa nhận là do những
điều kiện lịch sử để lại mà chúng ta không thể có ngay một xã hội mà trong đó
mọi công dân đều có cơ hội phát triển và cống hiến như nhau.Do đó, quá trình
thu hẹp khoảng cách giàu nghèo không thể diễn ra trong ngày một ngày hai mà
đòi hỏi phải có sự kiên trì bền bỉ.Nhà nước cần phải hỗ trợ và tạo cho các đối
tượng chậm phát triển có những điều kiện để vươn lên trứơc hết về mặt cống
hiến và đương nhiên sau đó sẽ là về mặt hưởng thụ.Ngoài ra,trong xã hội còn


×