Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

KTCT-Kinh tế tri thức và Giáo dục - đào tạo, phát triển nhân lực ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.2 KB, 29 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 19.5.2000, tại lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh chủ Tịch Hồ Chí
Minh(19.5.1890- 19.5.2000). Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã nêu rõ: “Trong thời
đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là
phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để
hiện đại hoá nền kinh tế tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng hướng,
từng bước hình thành nền kinh tế tri thức, có năng lực cạnh tranh với giá trị gia
tăng ngày càng cao.”(1). Kinh tế tri thức đã trở thành một chủ đề sôi động và đã
thu hút nhiều nhà lãnh đạo các giới khoa học quan tân tới, đặc biệt là tầng lớp tri
thức trẻ hiện nay, thông qua những phương tiện thông tin. Mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đợc xác định: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh”. Do vậy giáo dục là chìa khoá mở rộng tri thức, nó
không chỉ là chiến lược quan trọng cho một đất nước mà còn là tiền đề cho sự
phát triển kinh tế trong nhiều thập kỷ tới với một nền công nghiệp hiện đại và để
đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá chúng ta phải có nguồn nhân lực có trình
độ tri thức hiện đại và đó là người lao động có trí tuệ cao, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dỡng phát huy bởi một nên giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền
khoa học công nghệ hiện đại. Với lượng kiến thức về kinh tế tri thức và vốn kiến
thức về môn triết còn hạn chế, em không có những nhận định để đa ra những ý
kiến mới về kinh tế tri thức mà chỉ đề cập đến mối quan hệ kinh tế tri thức và
Giáo dục -đào tạo, phát triển nhân lực ở Việt Nam. Để làm rõ mối quan hệ này em
chọn đề tài : Kinh tế tri thức và Giáo dục - đào tạo, phát triển nhân lực

ở Việt Nam.



PHẦN I : KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ TRI THỨC.

* Nguồn gốc của kinh tế tri thức
Từ những năm 70 trở lại đây, tiến bộ khoa học kỹ thuật dần trở nhân tố
quyết định đến sự phát triển kinh tế. Quan niệm “Khoa học kỹ thuật là lực sản


xuất thứ nhất” bắt đầu trở thành hiện thực.Sự cạch tranh trong thế giới ngày nay
đã trở thành cuộc cạch tranh quốc lực tổng hợp, lấy kinh tế làm cơ sở, lấy khoa
học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học kỹ thuật cao để mở đường. Trên thực tế, năm
1997 giá trị sản xuất khoa học kỹ thuật trong ngành công nghệ thông tin ở Mỹ đã
vượt 10% giá trị tổng sản phẩm quốc nội, tổng giá trị xuất khẩu trong ngành dịch
vụ có hàm lượng chất xám cao (mà chủ yếu là kỹ thuật thông tin) chiếm gần 40%
tổng giá trị hàng xuất khẩu. Gần 50% tổng giá trị xuất khẩu quốc nội của các nước
thành viên Tổ chức hợp tác kinh tế (OECD) có được từ các ngành sản xuất có tri
thức là nền tảng.
Từ đầu những năm 70 đến nay có nhiều cách nói về nền kinh tế tương lai.
Trước tiên là Z.K.Brezinski, nguyên Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ. Trong tác
phẩm “Giữa hai thời đại-nhiệm vụ của Mỹ trong thời đại kỹ thuật điện tử”,
Brezinski đã từng nói: Chúng ta đang đứng trước một “thời đại kỹ thuật điện tử”.
Năm 1973, Nhà Xã hội học Mỹ Daniel Bell gọi thời đại này là “xã hội hậu công
nghiệp”. Năm 1982, nhà Kinh tế và nhà tương lai học của Mỹ J.Naisbitt trong
cuốn “Đại xu thế” đã đưa ra khái niệm mới “Kinh tế thông tin”, lấy nền tảng sản
xuất chủ yếu dựa vào nền kinh tế mới để đặt tên cho loại hình kinh tế này. Năm
1986, trong cuốn “Xã hội kỹ thuật cao”, các nhà Kinh tế Anh đã nêu ra khái niệm
“Kinh tế kỹ thuật cao”. Năm 1990 tổ chức nghiên cứu của Liên hợp quốc đã đưa
ra khái niệm “kinh tế tri thức” để xác định tính chất của loại hình kinh tế mới này.
Năm 1996, Tổ chức Hợp tác kinh tế định nghĩa rõ ràng là “Kinh tế lấy tri thức
làm cơ sở” (Knowledge based economy). Đây là lần đầu tiên hệ thống chỉ tiêu và
dự đoán của loại hình kinh tế mới này được nêu ra . Tháng 2-1997, Tổng thống
Mỹ B.Clinton đã dùng cách nói “kinh tế tri thức” (Knowledge economy) như tổ
chức nghiên cứu của Liên hợp quốc đã nêu ra trước đây. “Báo cáo về sự phát


triển của thế giới” (World Development Report) của Ngân hàng thế giới xuất bản
năm 1998 đã đặt tên nền kinh tế đó là “Nền kinh tế tri thức của phát triển”
(Knowledge for Development).

Việc xác định cho đúng tên gọi của loại hình kinh tế mới tuy rất phức tạp,
nhưng nó đã giúp cho con người từng bước xây dựng nên một khái niệm mới
ngày càng rõ ràng, đó là “Nhân loại đang bước vào một thời đại kinh tế mới, lấy
việc chi phối, chiếm hữu nguồn tài nguyên trí lực, và lấy việc sử dụng, phân phối,
sản xuất của tri thức làm nhân tố chủ yếu”. Nói ngắn gọn đó là “Thời đại mà
khoa học kỹ thuật là lực lưọng sản xuất thứ nhất”. Trải qua 30 năm khảo nghiệm,
có thể khẳng định rằng, đây là một khái niệm khoa học. Nếu phân chia các giai
đoạn phát triển kinh tế của loài người thì có thể chia thành kinh tế nông nghiệp,
kinh tế công nghiệp và kinh tế kỹ thuật cao. Thực tế khái niệm “kinh tế tri thức”
là khái niệm mới về một loại hình kinh tế mới khác với loại hình kinh tế trước
đây. Loại hình kinh tế trước đây lấy công nghiệp truyền thống làm nền tảng sản
xuất, lấy nguồn tài nguyên thiếu và ít ỏi làm chỗ dựa để phát triển sản xuất. “Kinh
tế tri thức” lấy công nghiệp kỹ thuật cao làm lực lượng sản xuất thứ nhất, lấy trí
lực làm chỗ dựa chủ động, có như vậy mới có thể giữ cho kinh tế phát triển.
* Mối quan hệ giữa tri thức và kinh tế
Có thể nói sự khác nhau cơ bản nhất giữa con người và động vật là sự sáng
tạo, mà động lực đầu tiên của sự sáng tạo là tri thức. Vì vây, bất kỳ một hoạt động
nào của con người không tách rời tri thức. Những kiến thức được tích luỹ, quy
nạp để hình thành nên hệ thống chính là khoa học. Đối tượng của nghiên cứu
khoa học là tri thức và kỹ thuật. Đó cũng chính là tri thức khoa học và khoa học
kỹ thuật.
Nghiên cứu khoa học thời cổ rất đơn giản, nghiên cứu và sản xuất gắn liền
với nhau. “Người cha của Vật lý học” người cổ HyLạp-Acsimet (287-212 trước
công nguyên) vừa nghiên cứu vật vật lý học lại vừa chế tác công cụ theo nguyên
tắc vật lý. Bắt đầu từ thế kỷ 17 mới có sự phân chia giữa cơ sở nghiên cứu với


phát triển kỹ thuật. Đại biểu là Newton-Nhà Vật lý học (1642-1727), bắt đầu
nghiên cứu lý thuyết. Tuy nhiên thành quả nghiên cứu của họ rất ít được ứng
dụng. Nguyên nhân chủ yếu là do trong quá trình hình thành nên hệ thống khoa

học tự nhiên hiện đại, các môn học tách rời nhau, nghiên cứu dần đi theo chiều
sâu hơn. Mặt khác, cùng với sự phát triển ngày càng sâu sắc của lý luận, việc ứng
dụng kỹ thuật ngày càng khó khăn hơn.
Từ phát hiện khoa học đến phát minh kỹ thuật, trước đầu thế kỷ 20 mất
khoảng 30 năm, đầu thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 20 là 10 năm, đến cuối thế kỷ 20
rút ngắn lại còn khoảng 5 năm. Kết quả này làm cho khoảng cách giữa phát hiện
khoa học và phát minh kỹ thuật ngày càng thu hẹp hơn, nhiều kết quả sẽ được đưa
vào thực tế hơn. Bởi vì, nếu 1 nhà khoa học thành công trong việc phát hiện khoa
học mà thời gian đưa vào ứng dụng trong thực tế lâu thì rất khó cho họ có thành
tích trong phát minh kỹ thuật. Thế nhưng nếu chu kỳ rút ngắn sẽ làm cho phát
hiện khoa học và phát minh kỹ thuật sẽ do một người thực hiện, do vậy phát minh
kỹ thuật sẽ sớm trở thành hiện thực. Ngày nay do sự ứng dụng của thành quả
nghiên cứu lý luận khoa học mới tăng nhanh. Quá trình thay đổi này có thể thấy
được trong (bảng 1) trang sau so sánh phát minh và phát hiện khoa học.
Đồng thời việc thực hiện kỹ thuật cao làm cho nhân tố tri thức vượt xa nhân
tố vật chất. Ví dụ thời gian nghiên cứu đối với một số công trình nghiên cứu về
sinh học tương đối ngắn, số vốn bỏ ra lại không nhiều, một người hoặc một nhóm
người có thể tự đứng ra nghiên cứu, nên chu kỳ nghiên cứu được rút lại tương đối
ngắn. Có thể đi thẳng từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu khai thác. Ngoài ra,
còn có một số nghiên cứu chủ yếu dựa vào tri thức, có thể nhảy qua nghiên cứu
ứng dụng, trực tiếp ra thị trường, thu được hiệu quả kinh tế như khai thác phần
mềm máy tính. Nguyên nhân của hiện tượng này là do khi tiến hành nghiên cứu
cơ bản đã phát hiện thấy giá trị uứng dụng của công trình. Do tính chất của nghiên
cứu cơ bản có thay đổi lớn, nên buộc phải có cơ cấu tổ chức để liên hệ với thị
trường. Vì thế, hàng loạt khu công nghiệp kỹ thuật cao mới đã được ra đời.


I. Kinh tế tri thức là gì ?
Có rất nhiều quan điểm ý kiến để trả lời cho câu hỏi “Kinh tế tri thức là
gì?”và những biến đổi to lớn của kinh tế tri thức đối với mọi mặt hoạt động của

nhân lực như thế nào ?. Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX có một sản phẩm
mới cực kỳ quan trọng, có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin là nền
kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và
sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế và tạo ra
của cải nâng cao chất lượng mang lại một cuộc sống tốt hơn. Kinh tế tri thức tạo
ra cơ sở hạ tầng mới của xã hội mới - xã hội thông tin, khác hẳn với nền kinh tế
sức người và nền kinh tế tài nguyên trong xã hội (XH) nông nghiệp và xã hội
công nghiệp. Kinh tế tri thức (KTTT) là nền kinh tế dựa trên công nghệ cao, đây
là nét đặc trưng tiêu biểu cho thời đại thông tin, thời đại tri thức. Nói đến tri thức sáng tạo tri thức, phổ biến và truyền thụ tri thức không thể không nói đến khoa
học công nghệ và giáo dục - đào tạo đặc biệt trong nền hinh tế tri thức.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển(OECD) của Liên hiệp quốc thì KTTT là
kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông
tin. Nói đơn giản đó là nền kinh tế dựa vào tri thức.
Ơ các nước Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền KTTT đã chiếm khoảng
40-50% GDP. Trong các nớc OECD KTTT chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri
thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. Nhiều người ước tính khoảng năm 2030
các nước phát triển đều trở thành nước có nền KTTT.
a) Phân biệt các loại tri thức
Sẽ là hữu ích nếu phân biệt được các loại tri thức khác nhau (know-what),
là loại tri thức về sự kiện, ngày nay đang giảm dần tầm quan trọng. Biết tại sao
(know-what) là tri thức về thế giới tự nhiên, xã hội và suy nghĩ của con người.
Biết ai đó (know-who) là về thế giới của các quan hệ xã hội và là tri thức về ai
biết cái gì và ai có thể làm gì. Việc biết những người cần thiết đôi khi còn quan
trọng đối mới đổi mới hơn là biết được các nguyên tắc khoa học. Biết chỗ và biết
thời gian (know-where và know-when) đang ngày càng quan trọng trong nền kinh


tế linh hoạt và năng động. Biết cách làm (know-how) là biết về các kỹ năng thực
hiện công việc ở mức độ thực hành.
b) Tầm quan trọng của tri thức

Tri thức là sức mạnh, bởi nó là chất dinh dưỡng cho sự phát triển trí tuệ và
năng lực sáng tạo trí tuệ vô tận của loài người. Cá thể là hữu hạn nhưng nhân loại
là vô cùng. Dân tộc nào sớm tự ý thức được những hạn chế, những giới hạn của
chính mình, biết tiếp thu những tinh hoa nhân loại ở mọi thời đại, kết hợp với bản
sắc truyền thống vốn có với những tinh hoa bên ngoài mình, biết tiêu hoá và làm
chủ những giá trị ấy, biến nó thành của mình, làm phong phú và giàu có bản thân
mình thì dân tộc ấy chủ động tìm thấy triển vọng của mình , dân tộc đó sẽ phát
triển và trường tồn. Ngược lại sẽ khó tránh khỏi suy thoái và diệt vong. Hoặc tiến
kịp đá phát triển chung, khẳng định một cách xứng đáng trong thế giới hoặc sẽ
không bao giờ, sẽ mãi mãi đi sau, rơi vào tình cảnh nô lệ và lệ thuộc vào nước
khác. Có khẳng định được không hay lại tự phủ định chính mình-đó là thách thức
lớn nhất đặt ra với mọi quốc gia-dân tộc trên lộ trình phát triển, trước hết là phát
triển kinh tế. Tri thức kết tinh trong sản phẩm, trong kinh doanh và trong hoạt
động kinh tế nói chung.
c) Đặc điểm của kinh tế tri thức
Thứ nhất, đặc điểm lớn nhất làm khác biệt kinh tế tri thức khác với các kinh
tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp chính là tri thức trở thành yếu tố quyết định
nhất của sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên.Vốn quí nhất trong nền kinh tế
tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo ra sự tăng trưởng kinh tế.
Không phải như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có
thể được chia sẻ, và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Do vậy, nền nền kinh tế
tri thức là một nền kinh tế dư dật chứ không phải là khan hiếm. Sự sáng tạo, đổi
mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi
mới rất nhanh vòng đời công nghệ rut ngắn: quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi
tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy
tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công


nghệ sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trong nền kinh tế tri thức,
của cải làm ra dựa chủ yếu vào cái chưa biết; cái đã biết không còn giá trị nữa;

tìm ra cái chưa biết tức là tạo ra giá trị mới. Khi phát hiện ra cái chưa biết thì cũng
tức là loại trừ cái đã biết. Cái cũ mất đi thay thế bằng cái mới, nền kinh tế, xã hội
luôn đổi mới. Đó là dặc trưng của sự phat triển sự tiến hoá của xã hội sắp tới:
phát triển từ cái mới, chứ không phải từ số lượng lớn dần lên.
Thứ hai, sự chuyển đổi cơ cấu. Các công nghệ mới, các ý tưởng mới là chìa
khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao dịch chuyển nhanh cơ cấu. Nhưng đây cũng là
nền kinh tế mang tính rủi ro, vì nó luôn biến động, luôn có nhiều thách thức mới.
Trong khi nền kinh tế dựa vào sự sản xuất hàng loạt, quy chuẩn hoá, thì nền kinh
tế tri thức dựa trên cơ sở sự sản xuất linh hoạt hàng hoá và dịch vụ đưa vào công
nghệ cao. Các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Công nghệ trở thành nhân tố hàng đầu trong việc tạo ra năng suất, sự tăng trưởng
và việc làm.Cho nên, sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng
nhất, tiêu biểu cho nền sản xuất tương lai. Phát triển nhanh các doanh nghiệp sản
xuất công nghệ, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không phân biệt
trong phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công
nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất. Các khu công nghệ (technology
park) hình thành và phát triển rất nhanh. Đó là những nơi sản xuất công nghệ,
thường được gọi là vườn ươm công nghệ, là cái nôi của ngành công nghiệp tri
thức. ở đây hội tụ các điều kiện thuận lợi để nhất thể hoá quá trình nghiên cứu,
thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất dựa vào công nghệ cao,
tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng thải ra ít phế thải, cho nên nền kinh tế tri thức
có thể thực hiện được sản xuất sạch, không gây ô nhiễm môi trường. Kinh tế tri
thức là nền kinh tế phát triển bền vững.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết
lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức,
các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. Mọi


người đều có nhu cầu thông tin và dễ dàng truy nhập vào các kho thông tin cần

thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công
nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Cũng chính vì vậy,
nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh số, nền kinh tê mạng, nền kinh tế
Internet, nền kinh tế điện tử.Thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí
nghiệp ảo, làm việc từ xa... được sử dụng rộng rãi, làm cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh trở nên rất nhanh nhạy, linh hoạt; khoảng cách bị xoá dần, ý nghĩa của
vị trí địa lý giảm đi. Xã hội thông tin phát triển.
Thứ tư, nền kinh tế tri thức thúc đẩy sự dân chủ hoá. Thông tin đến với mọi
người. Mọi người đều dễ dàng truy cập các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các
hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng
có thể được thông tin kịp thời về các quyết định của cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức có liên quan đến họ và họ có thể thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp.
Việc tập hợp ý kiến của nhân dân rất dễ dàng và thuận tiện. Nguyên tắc “dân biết,
dân bàn, dân kiểm tra” có điều kiện thuận lợi để thực hiện. Cách tổ chức quản lý
cũng sẽ thay đổi. Trong thời đại thông tin, mô hình chỉ huy tập trung, có đẳng cấp
tỏ ra không còn phù hợp. Người ta sử dụng nhiều hơn mô hình phi đẳng cấp, phi
tập trung; mô hình mạng, trong đó tật dụng các quan hệ ngang; thông tin được đến
tất cả mọi người, mọi nơi một một cách thuận lợi, nhanh chóng, không cần đi qua
các khâu trung gian. Đó là mô hình tổ chức dân chủ, rất linh hoạt trong điều hành,
dễ thích nghi với đổi mới, khơi dậy sự năng động sáng tạo của mọi người.
Thứ năm, hình thành xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Mọi người đều
phải học tập, học thường xuyên, học ở trường và học ở trên mạng để không ngừng
trau dồi kĩ năng, phát triển trí sáng tạo. Mọi người thường xuyên được cập nhật
kiến thức, chủ động theo kịp sự đổi mới và cs khả năng thúc đẩy sự đổi mới. Với
sự bùng nổ thông tin và sự luôn đổi mới kiến thức, mô hình giáo dục truyền
thống: đào tạo xong ra làm việc không còn phù hợp, mà phải theo mô hình học
tập suốt đời: đào tạo cơ bản, ra làm việc và tiếp tục đào tạo, vừa đào tạo vừa làm
việc. Các hình thức giáo dục thường xuyên, nhất là giáo dục thông qua mạng rất



phát triển. Con người học tập suốt đời, vừa học vừa làm việc. Hệ thống giáo dục
phải đảm bảo cho mọi người bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng có thể học tập
được. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.Trong
nền kinh tế tri thức, khoản đầu tư cho giáo dục và khoa học chiếm tỷ lệ rất cao.
Nói chung, đầu tư vô hình (cho con người, cho giáo dục, khoa học, văn hoá-xã
hội...) cao hơn đầu tư hữu hình (xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật). Phát triển con
người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. Vốn con người thực sự là vốn quí
nhất.

II. Những đặc trưng nổi bật của nền KTTT.
1. Đổi mới là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển.
Trong KTTT có nhiều điều tưởng như nghịch lý: Trước hết của cải làm ra
dựa vào chủ yếu là cái chưa biết, cái đã biết không còn giá trị nữa, tìm ra cái chưa
biết là tạo ra giá trị. Kinh tế tri thức phát triển từ cái mới chứ không phải từ số l ượng lớn dần lên. Để mục tiêu phát triển bền vững thì tư tưởng chỉ đạo phát minh
kỹ thuật cũng thay đổi.
2. Tài sản vô hình.
KTTT là kinh tế lấy đầu tư vốn vô hình làm chính. Kinh tế công nghiệp đòi
hỏi số lượng lớn tiền của, thiết bị và vốn hữu hình, còn KTTT lại phát triển trên
cơ sở tri thức, đầu tư trí lực là đầu tư vô hình. Đương nhiên KTTT cũng phải đầu
tư tiền của , thậm chí với công nghệ kỹ thuật cao cần đầu tư với số lượng lớn,
mang nhiều tính rủi ro, nhưng nếu không đưa càng nhiều thông tin, tri thức vào
công nghệ sản xuất, thì đó không phải là công nghệ kỹ thuật cao. Việc tăng giá trị
vốn vô hình sẽ thay đổi quan điểm về giá trị của xã hội.
3. Vốn quý nhất của KTTT là tri thức.
Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo ra sự tăng trưởng, tri thức và thông tin
có thể được chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền KTTT do đó là
một nền kinh tế dư dặt chứ không phải khan hiếm. Trước đây người ta thường coi


lao động và vốn là hai yếu tố của sản xuất, còn tri thức, công nghệ và giáo dục là

các yếu tố bên ngoài. Gần đây các nhà kinh tế nghiên cứu như (Romer,
R.Solow...) đều thừa nhận tri thức, công nghệ là yếu tố bên trong của hệ thống
kinh tế. Tri thức ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất.
Đầu tư tri thức sẽ làm tăng khả năng sản xuất, do đó đầu tư vào sản xuất, tri thức
sẽ trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trởng kinh tế dài hạn.
4. Tri thức hoá quyết sách kinh tế
KTTT là kinh tế lấy quyết sách tri thức làm hướng đi. Quyết sách và quản
lý nền KTTT phải được tri thức hoá. Chẳng hạn như chính phủ Mỹ đã hướng cho
các công ty lớn đa kỹ thuật cao vào ngành sản xuất xe hơi truyền thống nên đã
giành được ngôi báu trong vương quốc sản xuất xe hơi, đồng thời tránh được đào
thải trong cuộc cạnh tranh giá trên thị trờng.


PHẦN II: KINH TẾ TRI THỨC VỚI GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM.

I. Đổi mới tư duy và những chủ trương lớn trong nền giáo dục
Sự ra đời của nền KTTT, thời đại thông tin đòi hỏi chúng ta phải có một
cách nhìn mới đối với giáo dục, qua đó đề ra các phương hướng mới để phát triển
giáo dục. Do đó vấn đề đặt ra là tri thức phải thành kỹ năng, trí lực và suy rộng ra
dân trí phải trở thành nhân lực; và cả nhân tài nữa, nhân tài phải là một bộ phận
chất lượng cao của nhân lực và được coi như là đầu tầu của đoàn tàu nhân lực. Đó
là hướng tổng quát nhất của nền giáo dục đi vào phục vụ cho nền KTTT.
Việt Nam phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy giáo dục theo tinh thần Đại
Hội VI và hội nghị TW đảng khoá VIII đã xác định : “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ
bản của giáo dục là nhằm xây dựng những nhân lực và thế hệ gắn bó với lý tưởng
độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc,
phát huy tiềm năng của dân tộc, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại,
có tư duy sáng tạo, có kỹ năng, có tác phong công nghiệp, thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội như lời căn dặn của Bác Hồ”.

Nhận thức vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết 4, BCH TW Đảng Cộng Sản Việt Nam (Khoá
VII) đã chỉ rõ “Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Đó là một động lức thúc đẩy và điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện những mục
tiêu về kinh tế xã hội”. Do đó cần phải có những quan điểm mới về vai trò của
giáo dục đào tạo.
Nền giáo dục trong thời đại kinh tế không dừng ở đó, mà phải tạo ra giá trị
mới - giá trị thông tin, từ đó mới có giá trị vật chất, giá trị tinh thần cho cuộc đời
cho nhân lực. Suy rộng ra, thời đại với nền KTTT đòi hỏi một cách tiếp cận mới
đối với giáo dục và đào tạo, nền giáo dục khoa cử theo kiểu cổ xa cũ kỹ đang được thịnh hành ở nước ta, với nền KTTT giáo dục thông qua phạm trù tri thức đối
với mỗi người phải đem lại một giá trị và hơn thế nữa là một giá trị sống còn. Nh-


ưng nói như vậy không có nghĩa là chúng ta coi thường sách vở, ngược lại chúng
ta phải bắt đầu từ đấy.
Nền giáo dục ngày nay của Việt Nam phải chuyển tri thức thành trí lực và
phương pháp luận tổng quát chỉ đạo sự phát triển giáo dục - đào tạo cả dân trí và
nhân tài phải trở thành nhân lực trên cơ sở giáo dục nhân cách. Nền KTTT đòi hỏi
mỗi người phải luôn luôn bổ xung tri thức mới và trong thời đại thông tin thì cơ
sở vật chất là công cụ để làm điều đó.

II. Học tập là một quá trình được tiến hành suốt đời
Vì mỗi một trình độ và kiểu loại học vấn cơ bản, Đại học và thực hành đóng
vai trò quan trọng trong việc hấp thụ tri thức, nên quá trình học tập ảnh hưởng đến
mọi lứa tuổi. Giáo dục cơ bản (có nghĩa là giáo dục tiểu học và trung học), phát
triển năng lực học tập giải thích thông tin và thích nghi tri thức vào những điều
kiện địa phương của mỗi người.
Trong thời đại thông tin ngày nay, lượng thông tin ngày một nhiều hơn (7
năm thông tin loài người tăng gấp đôi), nó biến đổi cực kỳ nhanh chóng do đó vai
trò của tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn, quyết định hơn đối với sự

phát triển của nhân lực , phát triển giáo dục. Cho nên quan điểm giáo dục suốt đời
do UNESCO đề ra từ năm 1972 ngày càng trở thành quan điểm hiện đại của giáo
dục của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đặc biệt trong nền giáo dục phục vụ sự phát
triển nền KTTT. Tư tởng đó đã đợc Uỷ ban giáo dục đi vào thế kỷ XXI của
UNESCO khẳng định lại một lần nữa nh là một tư tưởng chỉ đạo sự phát triển
giáo dục và đào tạo trong thời đại ngày nay. Có thể nói rằng thế kỷ XXI là thế kỷ
của giáo dục thường xuyên. Giáo dục năng lực phát triển chung các kỹ năng cơ
bản có thể ứng dụng vào nhiều hoạt động, trong đó chú ý tới các kỹ năng xã hội.
Thời đại thông tin, KTTT tạo ra những biến đổi sâu sắc và nhanh chóng
(đôi khi người ta nói thời đại của tốc độ và cường độ) cho nên giáo dục đào tạo
phải nhằm mục tiêu phát triển toàn diện nhân lực một cách bến vững. Nền giáo
dục ở nước ta đang phấn đấu tăng cường giáo dục truyền thống dân tộc giữ gìn
phát huy bản sắc dân tộc để tồn taị trong thế giới toàn cầu hoá đầy cạnh tranh và


thách thức, chúng ta chú ý dạy các tri thức tiềm ẩn ở bên cạnh các tri thức hệ
thống cổ điển.

III-Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
1-Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự vận động và phát triển của đời
sống xã hội.

Từ xưa và cho đến tận bây giờ, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc
hậu và chậm phát triển. Để mau chóng thoát khỏi tình trạng đó chúng ta không có
con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá. Công nghiệp
hoá hiện đại hoá xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “ dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh ”, mà còn là “ một cuộc cách mạng toàn
diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vựcvủa đời sống xã hội ”. Phát triển con
người Việt Nam hiện đại đó chính là động lực là mục tiêu nhân văn là cơ sở lâu

bền tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá, mà chúng ta đang thực hiện. Cái yếu tố đó mọi người dễ dàng nhận biết song
để bảo đảm thực hiện cho có hiệu quả và không mắc phải sai lầm thì lại không dễ
dàng bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yéu không cẩn thận dễ xảy ra duy ý chí như
đã từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn bất lợi thiếu điều kiện
mà không quyết tâm thực hiện sẽ tụt hậu xa so với thế hiới hoặc bằng mọi cách
mọi biện pháp giải quyết khó khăn đó bấ kể lợi hay hại sẽ dẫn đến hậu quả khó
lường trước được. Chính vì vậy cần nắm vững những quan điểm cơ bản về công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Đối với nước ta đang trong trời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì việc xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một nhiệm vụ to lớn
và một yêu cầu khách quan bởi vì cơ sỏ vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện
đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại
hơn, điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ những yếu tố của cơ sở sản xuất được cơ
khí hoá mà trình độ công nghệ phải tiên tiến và thường xuyên được đổi mới. Công


nghiệp hoá và hiện đại hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật trong nền sản xuất hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật công nghệ sản
xuất tăng năng suất lao động. Công nghiệp hoá chính là thực hiện xã hội hoá về
mặt kinh tế-kỹ thuật tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn
định ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành vuên trong
cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành
vùng trong phạm vi một nước và giữa các nước với nhau, nó nâng cao trình độ
quản lý kinh tế của Nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất làm
xuất hiện thêm ngành nghề mới để từng bước giải quyết những nhu cầu việc làm
cho người lao động.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con

người trong nền sản xuất đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại kỹ thuật cao.
Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực
hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người
làm cho con người trở nên hiện đại nắm bắt được những tiến bộ mới.
Như vậy thực chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra một
nền sản xuất lớn hiện đại với mục tiêu cuối cùng là phát triển con người toàn diện
và con người ở đây không chỉ được hiểu với tư cách là người lao động sản xuất
mà còn với tư cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể một cộng
đồng. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có trình độ…mà còn là
những công dân yêu nước ý thức được nguy cơ tụt hậu để cùng nhau cố gắng vì
sự nghiệp chung.
Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá xuất phát từ yếu tố con người và
cũng do con người tạo nên. Thật vậy, trong cơ chế quản lý, cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp của xã hội thời kỳ trước đã kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất đồng thời tạo ra những mối quan hệ sản xuất không phù hợp
dẫn đến tình trạng trì trệ, kém phát triển, kinh tế đời sống của người lao động


không đảm bảo trong khi nhu cầu của con người ngày càng phát triển do đó đòi
hỏi phải có một cơ chế quản lý mơí, một môi trường xã hội mới để đáp ứng nhu
cầu, lợi ích và các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển của con người và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước đi tất nhiên và mang tính khách quan để tạo ra
một nền sản xuất hiện đại vì một cộng đồng ngày mai.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ xuất phát từ yếu tố con người mà do
con người tạo nên và chỉ khi nào có nguồn nhân lực mới thành công bởi như đã
phấn tích ở trên con người là chủ thể của mọi hoạt động sản xuất vật chất hiện đại,
trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cho ngành kinh tế quốc dân chỉ có thể
thực hiện được trên cơ sở đội ngũ người lao động, các cán bộ đầu ngành, chính
sách phát triển của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước đi tất yếu

trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
bền vững của nền kinh tế đất nước đồng thời gắn tăng trưởng kinh tế với việc cải
thiện đời sống nhân dân.
2-Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực.

Đối với đất nước ta khi chiến lược phát triển đất được xác định là “đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng minh”, thì vấn đề xác định dúng
và huy động có hiệu quả những nguồn lực vốn có và có thể tạo ra trong tiến trình
phát triển càng trở nên quan trọng.
Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta
đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là : nguồn lực con người Việt Nam, nguồn
lực tự nhiên (tài nguyên thiện nhiên , vị trí địa lý), cơ sở vật chất tiềm lực khoa
học-kĩ thuật vốn có các nguồn lực ngoài nước và kinh nghiệm quản lý.
Lịch sử phát triển chân chính của xã hội loài người là lịch sử phát triển của
con người, do con người ,vì con người. Con người làm ra lịch sử của chính mình
và là động lực của lịch sử đó. Khi khẳng định chân lý vĩnh hằng đó, các nhà sáng


lập chủ nghĩa Mác-LêNin đã đồng thời chỉ rõ, xu hướng chung của tiến trình phát
triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất do con người
và những công cụ sản xuất, bao gồm con người và những công cụ sản xuất do con
người tạo ra.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của xã hội
qua việc con người khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây dựng cơ sở
vật chất-kỹ thuật cho hoạt động sinh tồn, phát triển của chính con người và quyết
định quan hệ của con người với con người trong sản xuất.
Vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với phát triển và tăng
trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới và đặc

biệt là ở Việt Nam. ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn mạnh là yếu tố nội
lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh của nguồn nội
lực này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó giáo dục đào tạo
đóng vai trò quyết định hàng đầu.
3-Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.

Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến độ tuổi
lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối ngiêm
trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao độngvà giải quyết việc làm cho
những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong khi đó, khả năng giải quyết
việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu thuẫn cung cầu về số lượng nguồn
nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động việc làm. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội,
môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó
là sự thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô
nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt
kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ
thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý,
thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động. Chất
lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cảI thiện nhiều nhưng cung về chất


lượng vẫn không thể đáp ứng được cầu về mặt thể lực, trí lực và trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam.
Chất lượng thì như vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân
lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về cung cầu nguồn nhân
lực cả về số lượng và chất lượng. ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thừa lao
động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ, gây rất nhiều
khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở các vùng này. Những nơi cần thì
không có, còn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành phố lớn thì lại ngày

càng nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội.
Điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao so với nhiều nước trong khu
vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động lực hạc
tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục đào
tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ
kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri thức khoa học kỹ thuật cập nhật.
Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường và xu thế
hội nhập phát triển rất cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp,
khả năng vốn có của nước ta.
Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
4- Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.

Do một trong ba mặt thể hiện vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân
dân là: hoạtđộng sản xuất ra của cải vật chất vật chất của quần chúng nhân dân,
trực tiếp là nhân dân lao động, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Do nội
dung cơ bản của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là:
Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của nền
kinh tế quốc dân. Nội dung này được thể hiện qua hai cách:
Tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
để tự trang bị.


Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thực hiện thông qua nhân
chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến .
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.
Muốn rõ thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để phát huy những đIểm
mạnh, khắc phục và hạn chế những điểm yếu và đưa ra được những yêu cầu đối
với giáo dục và đào tạo nguoòn nhân lực. Một mặt phải trực tiếp giải quyết vấn đề
chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kỹ thuật
và đồng thời phải giải quyết vấn đề nâng cao thể lực người lao động và số lượng

nguồn nhân lực. Trong trình tự giải quyết vừa phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù
chữ, phổ cập tiểu học, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp
đến các bậc cao hơn nhưng phải kết hợp tạo ra một bộ phận người lao động có
chất lượng cao, số lượng không lớn nhưng phải đạt các tiêu chuẩn của lao động
kỹ thuật khu vực và thế giới, đáp ứng những ngành công nghiệp mới, các khu
công nghiệp và các khu kinh tế mở.
Trước tiên, việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Những cố
gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không theo kịp được tốc
độ gia tăng dân số.
Quy mô mọi ngành học, bậc học hiện nay đều chưa đáp ứng được yêu cầu
theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung, số học sinh và số trường, lớp ở mọi ngành
học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
đều tăng. Riêng đối với hệ thống đào tạo nghề thì quy mô vủa hệ thống trung tâm
xúc tiến việc làm và dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và gần
1000 cơ sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thục…Quy mô đào tạo có chuyển biến
nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạn.
Phải khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục
đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị
nền tảng cả về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông, đặc biệt
là giáo dục học, theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một trong
những yếu tố quan trọng nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo


dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế
còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển đón bắt, giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy
nhiên, những bất cập giữa các loại ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó
khăn không ít cho sự phát triển. Một số ngành thì được học sinh, sinh viên theo
học. Nếu không có sự đIều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp phải khó
khăn về đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất là của
Thái Lan.

Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở nông
thôn, vùng sâu kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa.Vì
vậy, vấn đề khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông
thôn, vấn đề thực hiện công bằng xã hội cũng trở nên phức tạp hơn. Muốn nâng
cao trình độ của nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền
núi, chính sách cấp học bổng, giảm học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó
là điều kiện cơ bản đầu tiên tạo cơ hội được giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực có đáp ứng
được yêu cầu phát triển hay không đó là đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình
và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi
hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng thêm khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới, từ đó nảy sinh yêu cầu về trình độ công nghệ và trình độ sử dụng
các công nghệ đó cũng ngày càng phải được nâng cao. Ngoài giáo dục đào tạo
văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý đén khâu thực hành,
ứng dụng, giáo dục kỹ thuật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng
thích ứng của người lao động với những đặc đIểm của nền kinh tế thị trường. Kết
hợp với các cấn đề giáo dục đó là giáo dục liên quan đến dân số, sức khoẻ, giới
tính để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô và chất
lượng giáo dục.
Trong điều kiện của Việt Nam ta hiện nay, yêu cầu đa dạng hoá các loại hình
giáo dục đào tạo rất cần thiết để vừa bổ xung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực,
khắc phục những bất hợp lý về phân bổ nguồn nhân lực, những khó khăn về


nguồn lực, nhất là về tài chính, nâng cao hiệu quả của đầu tư cho giáo dục đào tạo
đồng thời phục vụ được yêu cầu phát triển, đón bắt, đuổi kịp. Đối với giáo dục
hướng nghiệp vẫn được kết hợp với một quy hoạch, kế hoạch phát triển toàn diện
và một chính sách sử dụng sau đào tạo hợp lý, có sức thuyết phục để giảm lãng
phí giáo dục đào tạo của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra được
làm việc đúng ngành, đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của mình. Ngoài ra,

giáo dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải có công tác dự báo nghề để làm giảm
nguy cơ tụt hậu. Giáo dục đào tạo chính quy, dài hạn là cơ sở để hình thành một
bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng tiếp cận
với khoa học, công nghệ mới, hiện đại. Ngoài ra, cần mở rộng các loại hình đào
tạo ngắn hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng
nâng cao số lao động đã qua đào tạo của ta lên. Giáo dục đào tạo tại chức và từ xa
cần chú ý hơn nữa đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Việc sử dụng tốt hơn, phân bổ hợp lý hơn nguồn lực đã có, đa dạng háo và
khai thác mọi nguồn lực khác cho giáo dục đào tạo rất cấp thiết. Nguồn tài chính
hạn hẹp hiện được coi là thách thức lớn đối với hệ thống đào tạo nghề.
Tóm lại, giáo dục đào tạo là xu hướng và đòi hỏi ngày càng cấp bách không
chỉ ở nước ta mà ở các nước đang phát triển cũng vậy. Trong thời đại ngày nay,
khi thông tin, khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đã nảy
sinh nhiều ngành nghề mới cũng như làm nhiều ngành nghề cũ bị co hẹp hoặc
thậm chí biến mất. Một hướng giải quyết khả thi là Nhà nước nên có chính sách
quy định các doanh nghiệp phải có trách nhiệm đào tạo lại không chỉ số người còn
làm việc mà cả với đố người sẽ bị sa thải do không còn phù hợp với công việc ở
doanh nghiệp, để số người này vẫn còn cơ hội tìm việc làm mới.
5- Những thành tích đã đạt được của việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đã tác động và làm biến
đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động trí tuệ, giảm
bớt các hoạt động chân tay, làm cho lao động trí tuệ trở thành hoạt động cơ bản
của con người. Việc ứng dụng ngày càng rộng rãi tri thức vào sản xuất và tổ chức


lao động đã làm cho tri thức nhanh chóng trở thành yếu tố sản xuất quan trọng
nhất, thành nguồn lực kinh tế cơ bản và chủ yếu. Vai trò của các yếu tố sản xuất
truyền thống như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn…dẫu không mất đi song đã
trở thành thứ yếu. Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ

của sự tăng trưởng có thể giải thích bởi đầu tư vào vốn, còn phần quan trọng của
tăng trưởng gắn liền với chất lượng lao động.
Trong những năm chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, người dân được tự
do kinh doanh những lĩnh vực pháp luật không cấm; trong sinh hoạt tư tưởng,
người dân cũng được tự do thảo luận hơn rất nhiều nhiều so với trước; dân chủ ở
cơ sở được thể chế hoá đã có tác dụng tích cực; sự thảo luận và đối thoại trong
Quốc hội thẳng thắn, công khai; sự khiếu kiện của dân được giải quyết kịp thời
hơn; nhân dân được tham gia trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước.
Điều này chứng tỏ nguồn nhân lực của nước ta có trình độ ngày càng được khẳng
định và được trọng dụng.
Những thành tích của giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đào tạo nguồn
nhân lực nói riêng là to lớn nhờ đó mà mặc dù một số chỉ tiêu khác như thu nhập
bình quân đầu người chưa cao nhưng Việt Nam vẫn có chỉ số HDI tương đối cao,
được xếp vào các nước có trình độ phát triển trung bình. Tuy nhiên, so với những
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội thì giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay còn
chưa đáp ứng được. Những phân tích trên đây cho thấy giáo dục đào tạo cần và có
thể giúp cho việc giải quyết những mâu thuẫn giữa cung và cầu không chỉ về số
lượng mà cả về chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của nước ta hiện nay.
6-Xây dựng môi trường xã hội tạo điều kiện để phát huy yếu tố con người.

Con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của sự vận động xã hội. Vì vậy
muốn phát huy được yếu tố con người cần phải có môi trường thuận lợi. Việc giải
phóng lực lượng sản xuất được thực hiện trước tiên và chủ yếu là xoá bỏ những
cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực chủ động sáng tạo của người lao động


đồng thời phải xây dựng một cơ chế mới bảo đảm thực hiện giải phóng người lao
động về mọi mặt.
Cần xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là

người tài. Đây là điều kiện quan trọng, trước hết nguồn nhân lực đào tạo tốt có cơ
hội tìm kiếm việc làm phù hợp với nguyên tắc phân phôí theo lao động đảm bảo
công bằng trong kinh tế.


PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI TẠO NỀN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA.
Những điều trình bày ở trên đều giúp chúng ta suy nghĩ về phương hướng
cách đổi mới trong nền giáo dục nước nhà, tuy chúng ta mới bắt đầu tiếp cận với
nền kinh tế trí thức: Nền kinh tế ở nớc ta bây giờ chủ yếu vẫn còn là nền kinh tế
sức người với một số yếu tố của nến kinh tế tri thức. Nhưng trong tơng lai không
xa chắc chắn sẽ sớm tham gia vào nền kinh tế này có thể qua thị trư ờng lao động
hay thương mại quốc tế.v.v... Chiến lược giáo dục - đào tạo phát triển nhân lực
của chúng ta phải đáp ứng yêu cầu của cả ba nền kinh tế kinh tế lao động, kinh tế
tài nguyên và kinh tế tri thức. Chúng ta nên quan tâm đến đặc trưng của ba nền
kinh tế này với ý tưởng chung là phát triển giáo dục nhằm phát triển nhân lực để
áp sát phục vụ các mục tiêu phát triển xã hội - kinh tế, ở đây là một số biện pháp
cải tạo nền giáo dục nước ta.
I. Chuẩn hoá :
Chúng ta đã biết nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, nghèo
nàn, tuyệt đại đa số dân cư mù chữ, lại phát triển giáo dục hết sức khó khăn, quyết
tâm đẩy lùi nạn mù chữ Đảng và nhà nước ta đã phổ cập giáo dục từ thành thị đến
vùng sâu, vùng xa. Chúng ta đã đưa cả một dân tộc mù chữ đến chỗ biết chữ, dân
trí ngày một cao, nhân lực ngày càng có văn hoá, trình độ khoa học - công nghệ
được nâng cao dần. Bây giờ chúng ta đã có một hệ thống giáo dục tương đối hoàn
chỉnh - một nền quốc học nhân dân, đủ sức để chuẩn hoá tất cả các trường hoạt
động dạy và học, các phương tiện giáo dục - đào tạo nhằm vào mục tiêu giáo dục.
Chuẩn hoá nhà trường theo hướng giáo dục phát triển toàn diện người và phát
triển người bền vững
II. Hiện đại hoá :

Trước hết nội dung giáo dục, chương trình, sách giáo khoa phải hiện đại
hoá (đặc biệt chú ý các môn quốc ngữ, quốc sử, quốc văn cùng các môn công cụ
như toán, tin học, ngoại ngữ và các môn thời sự toàn cầu - bảo vệ môi trường,


giáo dục dân số, chống bệnh thế kỷ ...)và cùng với đó là cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học. Đặc biệt quan trọng là người dạy phải có tinh thần hiện đại hoá. Phương
pháp dạy học sách giáo khoa phải hiện đại hoá. Ngày nay, nhiều nước, như đã
trình bày ở trên, coi cá thể hoá phương pháp dạy và học và phương pháp "giải
quyết vấn đề" là hướng chủ yếu hiện đại hoá giáo học pháp bộ môn theo nguyên
lý giáo dục, nhằm thức tỉnh tối đa tiềm năng của người học và hình thành ở người
học khả năng thích nghi tốt nhất, nhanh nhất, tinh thần phê phán khách quan, khoa
học tư duy sáng tạo và có phương pháp tự học suốt đời. Ngày nay nói đến hiện đại
hoá giáo dục không thể không nói tới tin học hoá, sử dụng Internet .
III. Xã hội hoá giáo dục :
Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của nhà nớc mà là của toàn xã hội:
mọi người cùng làm giáo dục. Nhà nước và xã hội, trung ương và địa phương
cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân. Xã hội hoá giáo
dục là một trong những con đường thực hiện dân chủ hoá giáo dục. Xã hội hoá
giáo dục trước hết nâng cao trách nhiệm của mọi ngời đối với giáo dục thế hệ trẻ,
thực hiện theo cơ chế đại hội giáo dục từng địa phương, tạo nên một môi trường
giáo dục thống nhất, tốt đẹp của cả xã hội, gia đình, nhà trường: động viên tinh
thần và vật chất, tạo thêm động lực cho ngời dạy; khen thưởng học sinh giỏi, nhất
là đối với các em nghèo học giỏi, giúp đỡ các em khó khăn, khuyến khích các em
chăm học. Xã hội hoá giáo dục cũng tăng thêm nguồn lực khác, nhất là nguồn lực
tài chính cho giáo dục. Xã hội hoá giáo dục găn liền với đa dạng hoá các nguồn
lực cho giáo dục.
IV. Mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo
Trong hơn 10 năm tới, Việt Nam sẽ hoàn thành giai đoạn đầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu hẹp khoảng cách về kinh tế ở Châu Á, chủ yếu

dựa vào nội lực, giáo dục đào tạo có vị trí quan trọng. Nhưng trong nhiều mục
tiêu đặt ra thì các mục tiêu quan trọng là :
- Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với đội
ngũ khoa học công nghệ có trình độ cao và đội ngũ nhân công lành nghề.


×