Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh răng miệng và thực trạng sâu răng ở học sinh tại trường tiểu họa xuân la quận tây hồ hà nội năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 92 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, bệnh sâu răng vẫn còn rất phổ biến ở các nước trên thế giới kể
cả các nước đã phát triển. Bệnh sâu răng đã trở thành một vấn đề được quan tâm
sâu sắc. Theo WHO, bệnh sâu răng được ghi nhận là căn bệnh phổ biến trên
thế giới đặc biệt là khu vực Châu Á và Mỹ Latin. Đây thật sự là mối lo của
các bậc phụ huynh bởi theo thống kê của WHO có đến 60 - 90% trẻ ở độ tuổi
6 - 18 tuổi bị sâu răng [1].
Ở độ tuổi từ 6 - 11 tuổi (lứa tuổi học sinh tiểu học) bắt đầu diễn ra sự
thay thế dần bộ răng sữa bằng bộ răng vĩnh viễn. Theo các kết quả nghiên cứu
trong và ngoài nước, giai đoạn này răng của trẻ trở nên rất nhạy cảm với sâu
răng. Chính vì thế ở độ tuổi này, sâu răng sữa nếu không được điều trị đúng
thì nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình mọc răng vĩnh viễn là khó tránh khỏi.
Như vậy sâu răng ở trẻ em và đặc biệt là sâu răng ngay từ lứa tuổi tiểu học là
một vấn đề đáng quan tâm. Lứa tuổi này trẻ cần được trang bị kiến thức về sức
khỏe răng miệng từ đó có thái độ và hành vi chăm sóc sức khỏe răng miệng
đúng đắn. Việc này sẽ giúp hạn chế bệnh sâu răng ở trẻ nói riêng và góp phần
phòng bệnh sâu răng trong cộng đồng nói chung.
Sâu răng trẻ em thường bắt nguồn từ thói quen vệ sinh răng miệng chưa
tốt và do sự quan tâm chưa đúng của các bậc phụ huynh, nhà trường và xã
hội. Thêm vào đó lứa tuổi này thường có xu hướng sử dụng các thực phẩm có
nhiều đường làm gia tăng tỷ lệ sâu răng. Thực tế theo các nguồn tài liệu trong
và ngoài nước thì hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu về tình trạng sâu răng
trẻ em lứa tuổi 6 - 11 tuổi. Ở Việt Nam chương trình Nha học đường (NHĐ)
lần đầu tiên được triển khai ở Hà Nội, Hải Dương, Tp Hồ Chí Minh và một số
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tháng 10 năm 1987 [2]. Cho tới năm 1990 hầu
hết các tỉnh thành trong cả nước đều đã có chương trình NHĐ. Nhờ đó hàng


2



chục triệu học sinh đã được chăm sóc răng miệng tại trường học. Chương
trình thực sự đã mang lại hiệu quả to lớn về phòng bệnh sâu răng và hiệu quả
kinh tế xã hội. Song song với việc triển khai chương trình NHĐ có rất nhiều
các công trình nghiên cứu được thực hiện để đánh giá hiệu quả của chương
trình này, trong đó có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá về các mối liên
quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc răng miệng với bệnh sâu
răng. Chúng tôi nhận thấy các nghiên cứu này vẫn là những nghiên cứu cần
thiết góp phần nâng cao hiệu quả của chương trình nha học đường. Chính vì
vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu về vấn đề này ở Hà Nội. Đây là một trong
những địa phương mà ngành răng hàm mặt ngày càng phát triển, các trung tâm
nha khoa cả công lập và tư nhân tăng cả về số lượng và chất lượng. Đời sống xã
hội được nâng cao kéo theo nhu cầu về chăm sóc răng miệng đặc biệt là chăm
sóc răng miệng lứa tuổi học đường cũng được nâng cao. Trường tiểu học Xuân
La quận Tây Hồ là địa chỉ thực hiện đầy đủ các nội dung của chương trình nha
học đường. Với mục đích muốn tìm hiểu hiệu quả của chương trình và đặc biệt
là tìm mối liên quan giữa các vấn đề kiến thức thái độ và thực hành chăm sóc
răng miệng với bệnh sâu răng tại trường tiểu học triển khai NHĐ. Chính vì vậy,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về: “Kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh
răng miệng và thực trạng sâu răng ở học sinh tại trường tiểu học Xuân
La quận Tây Hồ Hà Nội năm 2014” với các mục tiêu nghiên cứu sau:
1.

Xác định tỷ lệ sâu răng của học sinh tại trường tiểu học Xuân La
quận Tây Hồ thành phố Hà Nội năm 2014.

2.

Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành vệ sinh răng
miệng và bệnh sâu răng ở nhóm học sinh trên.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số đặc điểm về giải phẫu và sinh lý của bộ răng
1.1.1 Tổ chức học của răng
Cấu tạo của răng gồm: men răng, ngà răng và tủy răng.

Hình 1.1 Giải phẫu Răng [3]
* Men răng
Men răng phủ mặt ngoài ngà thân răng, có nguồn gốc từ ngoại bì, là mô
cứng nhất trong cơ thể, có tỷ lệ chất vô cơ cao nhất (khoảng 96%). Men răng dày
mỏng tùy vị trí khác nhau, dày nhất ở núm răng là 1,5mm và mỏng nhất ở vùng
cổ răng. Hình dáng và bề dày của men được xác định từ trước khi răng mọc ra,
trong đời sống, men răng không có sự bồi đắp thêm mà chỉ mòn dần theo tuổi
nhưng có sự trao đổi về vật lý và hóa học với môi trường trong miệng [4].


4

* Ngà răng
Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, nhưng không giòn và dễ
vỡ như men, chứa tỷ lệ chất vô cơ thấp hơn men (75%), chủ yếu là
3[(PO4)2Ca3)2H2O]. Ở điều kiện bình thường ngà răng không lộ ra ngoài và
được bao phủ hoàn toàn bởi men răng và xương răng. Trong ngà răng có
nhiều ống ngà, chứa đuôi bào tương của nguyên bào ngà. Bề dày ngà răng
thay đổi trong đời sống do hoạt động của nguyên bào ngà, ngà răng ngày càng
dày theo hướng về phía hốc tủy răng, làm hẹp dần ống tủy.

Về tổ chức học: ngà răng được chia làm hai loại;
- Ngà tiên phát: chiếm khối lượng chủ yếu và được tạo nên trong quá
trình hình thành răng, nó bao gồm: ống ngà, chất giữa ống ngà và dây Tomes.
- Ngà thứ phát: được sinh ra khi răng đã hình thành gồm ngà thứ phát
sinh lý, ngà phản ứng và ngà trong suốt [5].
* Tuỷ răng
Là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tuỷ gồm tuỷ chân và tủy thân. Tuỷ
răng trong buồng tủy gọi là tủy thân hoặc tủy buồng, tuỷ răng trong ống tủy
gọi là tủy chân. Các nguyên bào ngà nằm sát vách hốc tủy.
Tuỷ răng có nhiệm vụ duy trì sự sống của răng cụ thể là duy trì sự sống
của nguyên bào ngà, tạo ngà thứ cấp và nhận cảm giác của răng. Trong tủy răng
có chứa nhiều mạch máu, bạch huyết và đầu tận cùng của thần kinh [4].
1.1.2 Bộ răng
* Bộ răng sữa:
Bộ răng sữa là bộ răng bắt đầu mọc lúc trẻ 6 tháng tuổi và mọc đầy đủ
lúc 24-36 tháng tuổi. Bộ răng sữa gồm có 20 chiếc, 10 chiếc ở mỗi hàm.
Bộ răng sữa mọc đầy đủ vào khoảng hai tuổi rưỡi. Các răng sữa sẽ
được thay thế bởi các răng vĩnh viễn. Bộ răng sữa không có răng hàm nhỏ và


5

không có răng nào giống răng hàm nhỏ vĩnh viễn. Vào khoảng 6 tuổi, bắt đầu
xuất hiện sự mọc răng vĩnh viễn thay thế dần cho bộ răng sữa, quá trình này
thường kết thúc vào khoảng 12 tuổi [6].
*Bộ răng vĩnh viễn
Gồm 28 đến 32 chiếc (4 răng số 8 có thể không có) là hàm răng thay thế
cho bộ răng sữa, nó có một số đặc điểm khác biệt với bộ răng sữa cần lưu ý.
 Về hình thể bên ngoài:
- Răng sữa nhỏ hơn răng vĩnh viễn tương ứng cùng nhóm.

- Thân răng và chiều dài toàn bộ của răng sữa ngắn hơn răng vĩnh viễn.
- Các răng cửa sữa có mặt ngoài và mặt trong lồi hơn nhiều ở 1/3 cổ
tạo thành các gờ cổ.
- Mặt ngoài và mặt trong của các răng cối sữa phẳng và hội tụ nhiều từ
vùng gờ cổ về phía nhai, vì thế bản nhai của chúng hẹp.
- Chân răng sữa dài và mỏng hơn….
- Thân răng sữa có màu sáng hơn và thành phần vô cơ ít hơn răng vĩnh viễn.
 Về hình thể trong:
- Thân răng rộng hơn mọi hướng so với vùng cổ.
- Men răng khá mỏng và độ dày giữa các vùng thân răng ít có sự khác biệt.
- Lớp ngà giữa men răng và buồng tủy khá mỏng.
- Các sừng tủy nhô cao và buồng tủy rộng.
- Các chân răng sữa dài hẹp, dang rộng đáng kể và thuôn dài về phía chóp.
Ngoài ra khi mới mọc men răng chưa hoàn toàn được ngấm vôi đầy đủ,
các rãnh mặt nhai của răng vĩnh viễn thường sâu tạo ra những vùng đọng thức


6

ăn. Đó là những yếu tố thuận lợi cho sâu răng dễ hình thành ở trẻ em. Cấu
trúc bên trong với đặc điểm men mỏng, sừng tuỷ nhô cao…là những yếu tố
thuận lợi làm cho bệnh sâu răng nhanh chóng chuyển sang bệnh lý tuỷ răng.
Cấu trúc bên ngoài với nhiều vị trí lồi lõm cùng với sự phát triển của xương
hàm làm các răng sữa thưa dần tạo điều kiện thuận lợi cho lắng đọng và mắc
dắt thức ăn làm tăng cơ hội hình thành bệnh sâu răng và viêm lợi [7].
1.2 Bệnh Sâu răng
1.2.1 Định nghĩa và bệnh sinh học sâu răng
1.2.1.1 Định nghĩa
Sâu răng là một bệnh nhiễm khuẩn tổ chức canxi hoá được đặc trưng
bởi sự huỷ khoáng của thành phần vô cơ và sự phá huỷ thành phần hữu cơ

của mô cứng. Tổn thương là quá trình phức tạp bao gồm các phản ứng hoá
lý liên quan đến sự di chuyển các Ion bề mặt giữa răng và môi trường
miệng và là quá trình sinh học giữa các vi khuẩn mảng bám với cơ chế bảo
vệ của vật chủ [8].
1.2.1.2 Bệnh sinh học sâu răng
Người ta cho rằng sâu răng là một bệnh có nhiều nguyên nhân, trong đó
vi khuẩn đóng vai trò là một nguyên nhân quan trọng đặc biệt là
Streptococcus. Ngoài vi khuẩn ra, một số điều kiện thuận lợi cho sâu răng
phát triển cũng đóng vai trò quan trọng không kém, cụ thể như:
- Chế độ ăn, uống: Nhiều nghiên cứu cho thấy đường là một yếu tố quan
trọng đối với bệnh sâu răng. Chế độ ăn uống nhiều đường tạo điều kiện cho
sự gia tăng tỷ lệ sâu răng. Các mảnh thức ăn còn bám vào các kẽ răng, nếu
không chải răng thường xuyên hoặc không lấy cao răng định kỳ cũng sẽ là
môi trường thuận lợi cho vi khuẩn gây sâu răng phát triển.


7

- Tình trạng của răng và tổ chức cứng của răng: Khả năng chống sâu
của răng tuỳ thuộc vào trạng thái kết cấu của răng. Hàm răng không bị sứt
mẻ, không khiếm khuyết, mọc thẳng hàng, men răng trắng bóng, mức
khoáng hóa của răng cao... là những yếu tố quan trọng chống lại các tác
nhân gây sâu răng. Ngược lại, các yếu tố này không hoàn chỉnh thì nguy cơ
sâu răng là rất lớn.
- Tình trạng vệ sinh răng miệng không tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
vi khuẩn phát triển và gây sâu răng.
- Tình trạng môi trường miệng như: nước bọt, pH… cũng là những yếu
tố ảnh hưởng đến sâu răng.
Trước năm 1970, người ta cho rằng bệnh căn sâu răng là do chất
đường, vi khuẩn Streptococcus Mutans và giải thích nguyên nhân sâu răng

bằng sơ đồ Key:

Sơ đồ Keys, sự phối hợp 3 yếu tố gây sâu răng [9]
Với sơ đồ Key người ta chú ý nhiều đến chất đường và vi khuẩn
Streptococcus Mutans, cho nên việc dự phòng sâu răng cũng quan tâm nhiều
đến chế độ ăn như hạn chế đường và vệ sinh răng miệng.
Sau đó vào năm 1975, người ta đã tìm được nguyên nhân của bệnh sâu
răng. Nguyên nhân của sâu răng được giải thích bằng sơ đồ White như sau:


8

Sơ đồ White (1975) [9]
Với sơ đồ này, người ta quan tâm đến một số yếu tố sau:
- Răng: ảnh hưởng bởi các yếu tố như tuổi, fluoride, dinh dưỡng…
- Vi khuẩn: đặc biệt là Streptococcus Mutans.
- Chất nền: ảnh hưởng bởi yếu tố VSRM, việc sử dụng Fluor, pH, khả
năng trung hòa của nước bọt.
Sơ đồ White cho thấy có nhiều yếu tố tác động đến việc sâu răng như:
hạn chế quá trình hủy khoáng, tăng cường quá trình tái khoáng và có tác dụng
bảo vệ răng không bị sâu như nước bọt, khả năng acid của men, các ion F -,
Ca++, pH trên 5 và sự trám bít hố rãnh… Với những hiểu biết sâu hơn về cơ
chế bệnh sinh của quá trình sâu răng nên trong hai thập kỷ qua con người đã
đạt được những thành tựu to lớn trong việc dự phòng sâu răng cho cộng đồng.
Cơ chế bệnh sinh học sâu răng được thể hiện bằng hai quá trình hủy
khoáng và tái khoáng. Nếu quá trình hủy khoáng lớn hơn quá trình tái khoáng
thì sẽ gây sâu răng.


9


Tóm tắt cơ chế sâu răng như sau:
Sâu răng = Hủy khoáng > Tái khoáng
Các yếu tố gây mất ổn định
làm sâu răng:
-

Các yếu tố bảo vệ:
-

Mảng bám vi khuẩn;
Chế độ ăn nhiều đường;
Nước bọt thiếu hay acid;
Acid dạ dày tràn lên miệng;
pH < 5,5

Nước bọt
Khả năng kháng acid của men răng
Fluor có ở bề mặt men răng
Trám bít hố rãnh
pH > 5,5

Cơ chế gây sâu răng [3]
1.2.2 Đặc điểm sâu răng ở trẻ em
Việc chưa hoàn thiện cấu trúc đã tác động không nhỏ tới sự phát triển
bệnh sâu răng và làm tăng các biến chứng của nó.
Các răng vĩnh viễn thường phải sau 2 năm mới ngấm vôi xong hoàn
toàn. Vì thế, tổn thương sâu răng ở trẻ thường tiến triển nhanh so với người
trưởng thành. Chân răng chưa hình thành và vùng cuống chưa được đóng kín
tạo điều kiện cho vi khuẩn thâm nhập sâu hơn vào tổ chức quanh răng, gây ra

những biến chứng: viêm tủy, viêm quanh cuống, viêm mô tế bào,… khiến cho
trẻ đau đớn, khó chịu, khó tập trung vào học tập.
1.2.3 Tình hình sâu răng ở trẻ em
* Các nghiên cứu trên thế giới
Từ năm 1908 liên đoàn Nha khoa Quốc tế (FDI) đã quan tâm đến dự
phòng sâu răng và tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa. Tại các hội nghị của


10

FDI năm 1951, 1960 và 1966 đều kết luận việc fluor hóa nước uống là biện
pháp phòng bệnh có hiệu quả và ít tốn kém nhất. Tuy nhiên vào những năm
60 – 70 ngành nha khoa của hầu hết các nước đều tập trung và chữa, phục hồi
sâu răng và viêm quanh răng, một công việc tốn kém và ít hiệu quả.
Tại các nước đang phát triển như ở Ả rập Xê út, Al-Ghannam NA, Wyne
AH và CS [10] năm 2002 cho biết tỷ lệ hiện mắc sâu răng rất cao trên 322 học
sinh tuổi từ 6 -11 là 94,4%, số lượng răng bị sâu trung bình/học sinh là
6,3±3,5, số răng bị mất trung bình/học sinh là 4,9. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy là tỷ lệ trẻ được trám răng thấp 0,3%. Đồng thời nghiên cứu cũng
cho biết 100% giáo viên hiểu biết về CSRM là cần thiết, nhưng chỉ có 41%
giáo viên trả lời là có dạy về vệ sinh răng miệng cho học sinh. Cùng tác giả
trên năm 2004 nghiên cứu trên 1407 học sinh tuổi từ 12 - 19 cho biết không
có sự khác biệt về sâu răng giữa hàm trên bên phải và hàm trên bên trái, tỷ lệ
sâu răng lứa tuổi 12 - 13 là 86,2% và tỷ lệ sâu răng lứa tuổi 15 - 19 là 91,6%.
Tại Ấn Độ, Rao SP và CS [11] (1993) nghiên cứu trên 778 học sinh tuổi
từ 6 - 11 tại hai trường thuộc nội thành và hai trường ngoại thành thông báo tỷ
lệ hiện mắc sâu răng là 16,5% thấp hơn rất nhiều so với những nghiên cứu ở
Ả rập Xê út do Wyne và CS thực hiện.
Tại Thái Lan, theo nghiên cứu của Petersen và CS [12] năm 2001, trẻ em
6 tuổi có tỷ lệ sâu răng vào khoảng 96,3%, SMT trung bình là 8,1; Còn với

những trẻ 12 tuổi, tỷ lệ sâu răng vào khoảng 70% và SMT trung bình là 2,4 .
Nghiên cứu tại miền bắc Phillipin năm 2003, Kayoko Shinada, Khristine
Marie G, Cariño KM và CS [13] về tình hình y tế cộng đồng cho biết tỷ lệ sâu
răng của trẻ 6 tuổi là 92% và SMT trung bình là 10,1.


11

Bảng 1.1: Chỉ số sâu mất trám răng vĩnh viễn ở học sinh tiểu học tại một
số nước đang phát triển [14]
Tên nước

Năm

SMT

Năm

SMT

Chi Lê

1960

0,28

1978

6,3


I Ran

1974

2,4

1976

4,9

Mexico

1972

2,7

1976

5,3

Maroc

1970

2,6

1980

4,5


Thái Lan

1960

0,4

1977

2,7

Zaire

1971

0,1

1982

2,3

* Tại Việt Nam
Có rất nhiều các nghiên cứu về tỷ lệ sâu răng và các chương trình can
thiệp phòng và điều trị sâu răng tại cộng đồng. Theo điều tra cơ bản sức khỏe
răng miệng ở Việt Nam năm 1990 của Nguyễn Dương Hồng và CS [15], tỷ lệ
sâu răng của trẻ 12 tuổi là 55,69% và tỷ lệ sâu răng ở trẻ 15 tuổi là 60,33%.
Theo cuộc điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc Trần Văn Trường và
CS [16] đã công bố tỷ lệ sâu răng sữa và sâu răng vĩnh viễn ở lứa tuổi 6 - 8
tuổi cụ thể như sau:
84,9% sâu răng sữa tuổi 6 - 8.
56,3% sâu răng sữa tuổi 9 - 11.

25,4% sâu răng vĩnh viễn tuổi 6 - 8.
54,6% sâu răng vĩnh viễn tuổi 9 - 11.
64,1% sâu răng vĩnh viễn tuổi 12 - 14.
68,6% sâu răng vĩnh viễn tuổi 15 - 17.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy sự giảm dần của tỷ lệ sâu răng sữa
theo độ tuổi và sự gia tăng sâu răng vĩnh viễn theo độ tuổi. Độ tuổi từ 6 - 11


12

tuổi bắt đầu có sự hiện diện của răng vĩnh viễn song song với việc thay thế
răng sữa. Nhóm tuổi 6 - 8 chủ yếu là răng sữa và nhóm 9 - 11 các răng sữa đã
được thay thế gần hết, càng lớn số răng sữa càng giảm và số răng vĩnh viễn sẽ
tăng lên. Chính vì thế tỷ lệ sâu răng sữa giảm dần theo tuổi và ngược lại tỷ lệ
sâu răng vĩnh viễn sẽ tăng dần theo độ tuổi.
Năm 1995 Trịnh Đình Hải và CS [17] nghiên cứu trên 3061 học sinh
tuổi từ 6 - 15 tại huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Hưng (cũ) cho thấy tỷ lệ sâu răng sữa
là 32,4% và tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 14,4%.
Trong công trình nghiên cứu công bố năm 2007 của Trần Ngọc Thành
[18] nghiên cứu trên học sinh tuổi từ 6 - 12, cho thấy tỷ lệ sâu răng sữa cao
gấp 1,7 lần so với tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn, chủ yếu là sâu từ 1 - 2 răng/học
sinh. Trung bình một học sinh có 3,5 răng sữa bị sâu và 2 răng vĩnh viễn bị
sâu. Tỷ lệ sâu răng sữa hàm trên cao hơn hàm dưới và tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn
hàm dưới lại cao hơn hàm trên. Các răng sữa số 3 và số 5 có tỷ lệ sâu cao nhất
và răng số 6 là răng vĩnh viễn có tỷ lệ bị sâu cao nhất. Điều này có thể hiểu
được do răng 6 là một trong số các răng vĩnh viễn đầu tiên xuất hiện, bên
cạnh đó cấu trúc giải phẫu của răng số 6 thuận lợi cho thức ăn bám lại ở các
hố rãnh mặt nhai dễ dẫn đến sâu răng hơn.
Hoàng Tử Hùng và CS [19] nghiên cứu tình hình sâu răng ở trẻ em tại
một số tỉnh miền Nam năm 1981, cho biết tỷ lệ sâu răng sữa là khá cao

(70,5%) trong đó tỉnh Thuận Hải (cũ) tỷ lệ sâu răng sữa là 72,1%.
Trần Văn Trường và CS [16] năm 2002 trong cuộc điều tra sức khỏe răng
miệng toàn quốc đã cho biết chỉ số SMT/smt ở lứa tuổi 6 - 11 cụ thể như sau:
- smt: 5,4 (6 - 8 tuổi).
- smt: 1,96 (9 - 11 tuổi).
- SMT: 0,48 (6 - 8 tuổi).
- SMT: 1,19 (9 - 11 tuổi).


13

1.3 Dự Phòng Sâu răng và vai trò của Fluor trong dự phòng sâu răng
* Vai trò của Fluor trong dự phòng sâu răng
Năm 1984, WHO đã đưa ra các biện pháp dự phòng sâu răng bằng
cách: fluor hóa nước uống, đưa fluor vào muỗi, súc miệng bằng dung dịch
fluor cho trẻ em, dung kem đánh răng có fluor, trám bít hố rãnh răng, chế độ
ăn dự phòng, hướng dẫn VSRM, phát hiện sớm và điều trị dự phòng.
Thực hiện đủ và đánh răng đúng kĩ thuật là việc làm quan trọng để làm
sạch mảng bám răng. Với việc sử dụng fluor để dự phòng sâu răng và tăng
sức đề kháng của răng. Người ta đã đồng ý việc sử dụng rộng rãi các dạng
fluor làm giảm sâu răng rõ rệt ở Mỹ và nhiều quốc gia khác. Fluor hóa nước
uống cộng đồng giữ vai trò quan trọng do hiệu quả lâm sàng và kinh tế của
nó. Các chất bổ sung trong chế độ ăn và fluor hóa nước uống trong trường học
là các hình thức sử dụng fluor khi việc fluor hóa nước uống không thực hiện
được. Fluor hóa muối ăn cũng trở nên phổ biến hơn ở một số nước như Mỹ và
Tây Âu. Hiện nay Fluor đã được công nhận là có hiệu quả đối với mọi lứa
tuổi và ngày càng trở nên quan trọng trong cộng đồng.
Những năm 1996 và 1998 chỉ số Sâu – Mất – Trám/mặt răng ở răng
vĩnh viễn (SMT/MR) của trẻ lứa tuổi 12 có điều kiện kinh tế xã hội cao ở Đan
Mạch rất thấp: giữa 0,4 và 0,1. Ở trẻ em có điều kiện kinh tế xã hội thấp,

SMT/MR giữa 1,6 và 2,0 [20].
Việc sử dụng fluor để phòng sâu răng như thế nào là thích hợp cũng
cần được đặt ra. Hơn hai thập niên qua, tỷ lệ mắc bệnh sâu răng giảm ở các
nước phát triển phần lớn là do sử dụng fluor rộng rãi. Song song với tỷ lệ sâu
răng giảm là tỷ lệ răng nhiễm fluor tăng. Các nghiên cứu về nhiễm fluor được
thực hiện trong những vùng có và không có fluor hóa, đã nhận dạng được 4
yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm fluor là: sử dụng nước uống có fluor, viên
fluor, kem đánh răng có fluor và sữa đóng hộp có fluor trước 8 tuổi.


14

Hiện nay, tại Singapore 100% dân số được fluor hoá nước uống và giáo
dục nha khoa, 100% học sinh tiểu học và trung học cơ sở được chăm sóc sức
khoẻ răng miệng thường xuyên tại trường trong chương trình NHĐ [21].
Tại Việt Nam, Ngô Đồng Khanh [22] năm 2004 trong báo cáo tại hội
nghị khoa học kỹ thuật răng hàm mặt toàn quốc đã công bố TP Hồ Chí Minh
sau 10 năm fluor hoá nước máy đã cho thấy tỉ lệ và mức độ sâu răng giảm
một các đáng kể (tỉ lệ sâu răng tuổi 12 năm 1990 là 76,33%, năm 2000 là
66,37% giảm khoảng 10% ở lứa tuổi 12) Các nghiên cứu khoa học trong nước
cũng đã cho thấy những nơi nào có nồng độ fluor trong nước uống cao hơn thì
nơi đó có tỉ lệ sâu răng thấp hơn Kết quả nghiên cứu của Đào Thị Hồng Quân
và CS [23] (2004), tỉ lệ trẻ 12 tuổi bị sâu răng trong vùng có fluor hóa nước là
38,2% và tỉ lệ này tăng đến 67,0% đối với vùng không có fluor nước, ở trẻ 15
tuổi lần lượt là 55,% và 79,5% cho thấy tầm quan trọng của fluor trong việc
phòng ngừa bệnh sâu răng.
Năm 1990 NHĐ đã triển khai ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Năm 1988
thành lập Uỷ ban Quốc gia về sức khoẻ RM, tổ chức chiến dịch truyền thông
phòng bệnh trong cả nước với sự tham gia của hàng ngàn bác sỹ.
1.4 Một số yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng

Các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng bao gồm:
- Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc vệ sinh răng miệng.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ.
Các tác giả thường mô tả các yếu tố nguy cơ, không phân tích sâu về các
mối liên quan giữa chúng và bệnh sâu răng ở trẻ em [18].


15

 Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống:
Nhiều tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu các tập quán ăn uống
liên quan đến bệnh sâu răng ở trẻ em như tần suất sử dụng các đồ ăn thức
uống có nhiều đường, ăn thêm bữa phụ buổi tối, đồ ăn thức uống nóng lạnh,
đồ ăn cứng, tiền sử bú bình, khẩu phần ăn:
- Adenubi J Al Ghanim [24] đã phân tích đa biến về các mối liên quan
giữa chế độ ăn có nhiều sữa hộp, tần suất sử dụng đồ ăn uống ngọt, trẻ có tiền
sử bú bình với các bệnh sâu răng và sâu - mất - trám răng, kết luận rằng
những yếu tố này liên quan chặt chẽ với các bệnh sâu răng. Một nghiên cứu
tại thành phố Kerela, Ấn Độ năm 2005 do David và CS [14] thực hiện cho
biết trẻ ăn nhiều đồ ngọt có nguy cơ mắc bệnh sâu răng cao gấp 1,4 lần những
trẻ ăn ít đồ ngọt, sự khác biệt này mang ý nghĩa thống kê. Sunny Ajimen
Okeigbemen [25] nghiên cứu ở Nigeria năm 2004 cho thấy tỷ lệ học sinh có
ăn phụ buổi tối là rất cao 87,5% nhưng tỷ lệ sâu răng ở đây lại thấp. Điều này
có thể là do những trẻ này sử dụng bàn chải răng cao (95,8%).
- Petersen và CS [12] nghiên cứu ở Thái Lan (2001) công bố tỷ lệ sử dụng
đồ uống ngọt hàng ngày rất cao như sữa đường (34%), chè đường (26%), nước
ngọt (24%) liên quan đến tỷ lệ sâu răng rất cao 70 - 96,3% tùy độ tuổi và chỉ số
SMT là 8,1 răng/học sinh. Đồng thời tác giả cũng nêu lên tập quán sử dụng đồ
ngọt nhiều ở những người theo đạo Hồi và đặc biệt là ở nữ học sinh.

 Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc vệ sinh răng miệng:
Một số tác giả nước ngoài và trong nước đã nghiên cứu về các yếu tố
chăm sóc răng miệng như hiểu biết về chăm sóc răng, khám định kỳ răng, thói
quen chải răng, tuổi sử dụng bàn chải, thuốc, vật liệu chải răng:


16

- Rao SP và CS [11] cho biết tại Ấn Độ có đến 59,2 - 62% học sinh có chải
răng ít nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,7 - 13,6% sử dụng thuốc đánh răng; 3,1%
dùng tay làm sạch răng và 21,1% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày.
- Sunny Ajimen Okeigbemen và CS [25] thông báo 81,4% học sinh chưa
bao giờ được khám răng tại các cơ sở y tế, 95,8% có sử dụng bàn chải răng.
- David và CS [14] cho rằng trẻ không sử dụng bàn chải răng thì có nguy
cơ sâu răng cao gấp 1,9 lần những trẻ khác.
 Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ em.
Các tác giả đã cho rằng yếu tố nguy cơ đặc trưng cá nhân trẻ em như:
trẻ em ở nông thôn và ở thành thị, trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ em không
phải dân tộc ít người, trẻ em ở trường tư thục và trường công lập, trẻ em có
điều kiện sống tốt và trẻ em nghèo, trẻ em nam và trẻ em nữ... Các yếu tố
nguy cơ này ảnh hưởng đến khả năng mắc bệnh sâu răng của trẻ em. Sau đây
là một số công trình nghiên cứu trên thế giới về vấn đề này.
- Rao SP và CS [11] cho rằng học sinh nội thành có tỷ lệ sâu răng cao
hơn ở ngoại thành (22,8% so với 15%), học sinh dân tộc ít người có chất
lượng răng tốt hơn học sinh không phải là dân tộc ít người.
- Sunny Ajimen Okeigbemen và CS [25] cho biết học sinh thành thị có
chỉ số SMT cao hơn học sinh nông thôn (0,72 so với 0,53) và học sinh ở
trường tư thục có chỉ số SMT cao hơn học sinh ở trường công lập (0,75 so với
0,55) nhưng chỉ số SMT ở nữ lại cao hơn học sinh nam (0,7 so với 0,59).
- David và CS [14] nghiên cứu và cho rằng trẻ sống ở thành phố có nguy

cơ sâu răng cao hơn 1,5 lần trẻ ở nông thôn, trẻ em nghèo cũng có nguy cơ
sâu răng 1,7 lần so với trẻ em ở các gia đình giầu.
- Fabio Ciuffolo và CS [26] cho rằng tỷ lệ sâu răng ở nam học sinh cao
hơn ở nữ học sinh.


17

1.5 Kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc răng miệng của học sinh
1.5.1 Khái quát về thuật ngữ
Hành vi sức khỏe, trong đó hành vi CSRM là một trong nhiều khái
niệm liên quan đến hành vi con người. Hành vi sức khỏe là những hành vi của
con người có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sức khỏe của bản thân họ, của
những người xung quanh và của cộng đồng. Theo ảnh hưởng của hành vi,
chúng ta thấy có hai loại hành vi sức khỏe, đó là các hành vi có lợi cho sức
khỏe và các hành vi có hại cho sức khỏe. Người ta cho rằng hành vi con
người là một phức hợp của nhiều hành động chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
di truyền, môi trường, kinh tế - xã hội và chính trị.
Kiến thức (Knowledge), Thái độ (Attitude) và hành vi (Practice) nói
chung là tập tính, thói quen, cách sống, cách suy nghĩ, hành động của con
người đối với môi trường bên ngoài, đối với bệnh tật.
Các yếu tố quy định nên hành vi con người có thể tóm tắt như sau:
Kiến thức
K
(Knowledge)
Sự hiểu biết phụ

Thái độ Hành vi
A
(Attitude)


P
(Practice)

Tư duy, lập Các hoạt động

thuộc vào yếu tố văn

trường,

hóa, xã hội, kinh tế

quan điểm

của con người

 Kiến thức.
Kiến thức hay hiểu biết của con người được tích lũy dần qua quá trình
học tập và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Kiến thức là một trong các
yếu tố quan trọng giúp con người có suy nghĩ, tình cảm đúng đắn, từ đó dẫn
đến hành vi phù hợp trước mỗi sự việc [27].


18

Kiến thức phòng bệnh răng rất cần thiết trong phòng tránh bệnh răng
miệng, kiến thức, thực hành CSRM của HS bị ảnh hưởng rất nhiều của hoạt
động NHĐ trong đó đặc biệt quan trọng là giáo dục CSRM, đây là nội dung
được các nước trên thế giới cũng như chương trình NHĐ Việt Nam ưu tiên
hàng đầu.

 Thái độ.
Là tư duy, lập trường, quan điểm của đối tượng đối với một vấn đề [27]
Ở lứa tuổi HS PTTH khi được tiếp thu những kiến thức đúng trong việc
phòng và điều trị bệnh răng miệng các em sẽ có quan điểm đúng đắn về
CSRM. Trong CSRM các em chịu ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường giáo
dục của nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè. Khi có quan
điểm đúng, thái độ tích cực thì chính các em có thể tác động lại đến gia đình,
bạn bè, người thân. Tuy nhiên điều kiện kinh tế xã hội, gia đình, môi trường
giáo dục có thể tác động tiêu cực đến tư duy, thái độ của các em.
 Hành vi.
Xuất phát từ những hiểu biết, có kiến thức và thái độ dẫn đến những
hành động của đối tượng. Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động đúng
và ngược lại [27].
Tìm hiểu về kiến thức, thái độ, hành vi về VSRM của HS PTTH là việc
làm cần thiết, đặc biệt là đánh giá mối liên quan với bệnh sâu răng, viêm lợi.
Qua đó giúp cho chúng ta tìm được biện pháp can thiệp đúng đắn, thích hợp.
1.5.2 Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc răng
miệng trên thế giới và ở Việt Nam
* Trên thế giới
Mahmoud K. Al-Omiri và CS [28] (2006) nghiên cứu ở 557 HS độ tuổi
trung bình là 13,5 ở một trường học phía bắc Jordan, báo cáo cho thấy


19

83,1% HS có sử dụng bàn chải và kem đánh răng để VSRM; 36,4% đánh
răng vào buổi sáng, 52,6% đánh răng vào buổi tối trước khi đi ngủ và
17,6% đánh răng cả buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ. Có 66% HS đi
khám răng miệng định kỳ, 46,9% chỉ đến nha sĩ khi đau và 20,1% ít khi
hoặc không bao giờ đến nha sỹ.

Ling Zhu và CS [29] (2003) nghiên cứu 4400 HS từ 12 - 18 tuổi ở
Trung Quốc cho thấy có 44% HS chải răng ít nhất 2 lần/ngày nhưng chỉ có
17% có sử dụng thuốc đánh răng có flour, 29% HS 12 tuổi chỉ đến khám bác
sỹ răng khi răng đã bị đau.
Rao SP và CS [11] tiến hành nghiên cứu tại Ấn Độ cho biết có tới 59,2 62% HS có chải răng ít nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,7 - 13,6% sử dụng
thuốc đánh răng và 21,1% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày.
Theo Petersen và CS [12] nghiên cứu ở Thái Lan năm 2001, tỷ lệ trẻ
em sử dụng đồ ngọt hàng ngày rất cao như sữa đường, chè đường, nước ngọt
và liên quan đến tỷ lệ sâu răng rất cao 70 - 96,3% tùy từng độ tuổi, tỷ lệ HS
chải răng 1 lần/ngày là 88%.
David và CS [14] (2005) nghiên cứu ở Ấn Độ, cho rằng trẻ không sử
dụng bàn chải răng thì có nguy cơ sâu răng cao gấp 1,9 lần những trẻ khác.
* Ở Việt Nam
Theo nghiên cứu của tác giả Chu Thị Vân Ngọc [30] (2008) ở HS 11 - 14
tuổi cũng cho thấy: có 84,64% đạt điểm kiến thức phòng bệnh loại khá, HS nữ
đạt điểm giỏi cao hơn HS nam, tất cả HS đều có bàn chải riêng và sử dụng
thuốc đánh răng, có 85,64% HS chải răng thường xuyên vào buổi sáng và
buổi tối trước khi đi ngủ, 63,44% HS chải từ 1 - 3 phút, 18,89% HS chải trên
3 phút và có 94,2% HS chải răng từ 2 lần trở lên mỗi ngày.


20

Theo kết quả nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Lan [31] tại Yên Bái năm
2003 thì khi được hỏi về thói quen VSRM thế nào sau khi ăn thì chỉ có
10,37% HS đánh răng, 19,51% dùng tăm xỉa răng, 26,52% xúc miệng và có
tới 43,6% không vệ sinh răng miệng sau khi ăn, 30,49% số HS đánh răng
ngày 2 lần, 15,85% HS đánh răng ngày 1 lần, tỷ lệ HS thỉnh thoảng là 9,45%
và 44,21% HS không đánh răng.
Kết quả của Nguyễn Đăng Nhỡn [32] tại Yên Sơn - Tuyên Quang năm

2004 ở HS 12 tuổi cho thấy 32,71% biết mình bị sâu răng. Khi được hỏi về
thói quen thực hành đánh răng thì có 28,04% HS không đánh răng. 45,79%
đánh răng ngày 1 lần và 26,17% đánh răng ít nhất 2 lần/ngày, 65,42% chưa đi
khám răng lần nào.
Trong nghiên cứu của Ngô Thị Hoa Sen [33] năm 2004 tại Gia Lâm, Hà
Nội 70% cha mẹ có kiến thức về phòng chống bệnh răng miệng chưa đạt yêu cầu
và 86,1% thực hành phòng chống bệnh răng miệng cho con chưa đạt yêu cầu.
Theo kết quả của Nguyễn Văn Thành [34] nghiên cứu tại thị xã Hưng Yên
năm 2007 ở HS 6 tuổi cho thấy: Tỷ lệ HS đánh răng ngày 1 lần là 61,01%, 2 lần
là 38,99%. 41,01% chỉ đánh răng vào buổi sáng, 23,03% chỉ đánh răng buổi tối
trước khi đi ngủ và 35,96% đánh cả 2 thời điểm trên, 64,44% chưa đi khám răng
bao giờ và 100% chải ngang răng khi đánh răng.
Nghiên cứu của Lê Huy Nguyên [35] tại Hoài Đức, Hà Tây năm 2007
cho thấy tỷ lệ HS có kiến thức đạt là 40%, 20% HS thực hành phòng chống
sâu răng đạt yêu cầu.
Kết quả nghiên cứu của Trương Phi Hùng và CS [36] ở Diên Khánh,
Khánh Hòa năm 2008 cho thấy đa số HS được hỏi đều chải răng từ hai lần trở
lên 50% và số HS chỉ chải răng duy nhất một lần trong ngày chiếm 17% trong
tổng số. Tỉ lệ HS có thực hành chải răng trên ba lần trong một ngày chiếm tỉ


21

lệ thấp nhất 2%. Thời điểm chải răng phổ biến của các em HS là buổi tối
trước khi đi ngủ và buổi sáng sau khi thức dậy, chiếm tỉ lệ tương ứng là 84%
và 95%. Tỉ lệ HS có thực hành chải răng ngay sau khi ăn thấp nhất 9%.
- Phương pháp đánh răng bằng cách chà ngang được sử dụng phổ biến
nhất 32%. Tỉ lệ HS thực hành phương pháp Bass (chải dọc thân răng và xoay
tròn) còn rất hạn chế 2%. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy có khoảng 38% số
HS không có cách chải răng cố định. Tỷ lệ HS có thực hành chung đúng về chải

răng chỉ chiếm 1% do số HS có thực hành đúng về phương pháp chải răng khá
khiêm tốn, chiếm 2%.
- Về thói quen đi khám răng định kỳ, số HS có đến nha sĩ trong sáu tháng
gần đây chiếm tỉ lệ cao nhất 34%, đáng chú ý là có 23% tổng số cho biết chưa
bao giờ đi khám răng. Số HS có thực hành khám răng định kỳ từ một lần trở lên
trong một năm còn chiếm 20% trong tổng số; đáng chú ý là có đến 72% số HS
không bao giờ khám răng định kỳ.
- Thói quen sử dụng thực phẩm có đường giữa các bữa ăn chính khá phổ
biến; 48% số HS được khảo sát dùng các thức ăn có đường từ một đến hai lần
trong ngày, 22% số này dùng hơn hai lần và 30% HS sử dụng thực phẩm có
đường giữa các bữa ăn chính. Tần suất sử dụng thức uống có đường có thấp
hơn so với các thức ăn ngọt, tỉ lệ HS dùng thức uống có đường dưới một lần
trong ngày chiếm đa số 51%, giữa các bữa ăn chính là 52%, sử dụng thức uống
có axit giữa các bữa ăn chính là 75%.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tước [37] năm 2008 ở HS khối
lớp 6 tại trường THCS Hoàn Sơn, Tiên Du, Bắc Ninh cho thấy.
- Về số lần đánh răng trong ngày của HS: Chiếm tỷ lệ cao nhất là HS
chỉ đánh răng 1 lần trong ngày với 50,6%. HS đánh răng 2 lần trong ngày


22

chiếm tỷ lệ 34,4%. Không đánh răng chiếm tỷ lệ cũng khá cao là 11,1%. Và
tỷ lệ thấp nhất là đánh răng 3 lần trong ngày chỉ chiếm 3,9%.
- Trong đó số HS đánh răng vào buổi sáng chiếm 36,5%, đánh răng vào
buổi tối chiếm 20,4%, chỉ có 38,7% các em đánh răng cả sáng và tối, và 4,4%
các em đánh răng ngày 3 lần.
- Thực hành đánh răng: Phần lớn các em thực hành đánh răng không
đúng cách, 89,6% các em đưa bàn chải ngang thân răng khi đánh răng và
33,8% các em khi đánh răng chỉ chải mặt ngoài.

- Thời gian đánh răng chiếm tỷ lệ cao nhất là các em đánh răng từ 1 - 2
phút với 42,2%, tiếp đến là đánh răng 2 - 3 phút với 16,9%, có 12,4% đánh
răng dưới 1 phút, chỉ có 7,1% đánh răng từ 3 phút trở lên và có 21,4% các em
không rõ thường đánh răng trong bao lâu.
- Thói quen ăn quà vặt: Thỉnh thoảng HS ăn quà vặt chiếm tỷ lệ cao
nhất với 63,6%. Mức độ thường xuyên chiếm tỷ lệ 20,8%, hiếm khi chiếm
11,7%. Tỷ lệ thấp nhất là không bao giờ chỉ chiếm 3,9%.
- Số lần đi khám răng trong năm: HS không đi khám răng chiếm tỷ lệ cao
nhất trong số 154 HS được phỏng vấn với tỷ lệ là 82,5%. Đi khám 1 lần chiếm
11,7 %. Đi khám từ 2 lần trở lên chiếm tỷ lệ thấp chỉ đạt 5,8%.
Theo nghiên cứu của Đào Thị Dung [38] năm 2007 tỷ lệ HS không đạt
kiến thức về VSRM 43,76%, 52,26% HS hiểu sai về nguyên nhân gây sâu
răng, 55,45% chưa đạt về thực hành chăm sóc răng miệng. Tỷ lệ HS đánh
răng không đúng phương pháp và thời điểm là 57,4% và 56,24%.
Trong công trình nghiên cứu của Ngô Văn Toàn và Trần Ngọc Thành
[39] năm 2005 tại Trường Tiểu học Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội cho
thấy tỷ lệ HS có ăn đồ ngọt vào buổi tối chiếm 27,4%. Có sử dụng đồ uống có
ga là 18,3%. HS đánh răng buổi sáng chiếm 92%, đánh răng buổi tối chiếm


23

89,7%, đánh răng ngay sau khi ăn chỉ chiếm 39,3% và tỷ lệ đánh răng 3
lần/ngày chỉ có 21%. Trong đó tỷ lệ HS đánh răng đúng là 63,9%.
Nghiên cứu của Trần Anh Thắng [40] ở học sinh PTTH tại Hòa Bình
năm 2011, có 83,4% HS đánh răng ít nhất 2 lần một ngày trở lên, có 64,5%
HS đánh răng >2 phút mỗi lần và có 68,6% HS đánh răng xoay tròn và chải
lên xuống.
Như vậy căn cứ vào các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
chúng tôi nhận thấy với các địa điểm nghiên cứu khác nhau, thời gian nghiên

cứu khác nhau và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Sẽ cho thấy tình trạng
bệnh sâu răng khác nhau, kiến thức - thái độ - thực hành chăm sóc răng miệng
khác nhau. Vì lẽ đó với mục tiêu nghiên cứu của mình, chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu tại trường tiểu học Xuân La quận Tây Hồ Hà Nội. Góp phần nhỏ
bé vào công tác chăm sóc răng miệng cho cộng đồng ở Hà Nội.


24

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm nghiên cứu
Trường tiểu học Xuân La quận Tây Hồ thành phố Hà Nội.
2.2 Đối tượng nghiên cứu
2.2.1 Tiêu chuẩn lựa chọn
- Học sinh từ 6 - 11 tuổi tính đến thời điểm tháng 11 năm 2013 đang học
tại trường tiểu học Xuân La quận Tây Hồ thành phố Hà Nội
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu và được sự đồng ý của phụ huynh
học sinh.
- Cách xếp độ tuổi căn cứ vào ngày tháng năm sinh tính đến thời
điểm thu thập số liệu (24/04/2014). Cụ thể như sau:
+ Học sinh sinh từ 25/04/2007 đến 24/04/2008 được tính là 6 tuổi
+ Học sinh sinh từ 25/04/2006 đến 24/04/2007 được tính là 7 tuổi
+ Học sinh sinh từ 25/04/2005 đến 24/04/2006 được tính là 8 tuổi
+ Học sinh sinh từ 25/04/2004 đến 24/04/2005 được tính là 9 tuổi
+ Học sinh sinh từ 25/04/2003 đến 24/04/2004 được tính là 10 tuổi
+ Học sinh sinh từ 25/04/2002 đến 24/04/2003 được tính là 11 tuổi
2.2.2 Tiêu chuẩn loại trừ
- Không tự nguyện tham gia nghiên cứu hoặc không nhận được sự chấp
thuận của phụ huynh học sinh.

- Không nằm trong lứa tuổi 6 - 11 tuổi tính đến thời điểm nghiên cứu.
- Không học tại trường tiểu học Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội


25

2.3 Thời gian nghiên cứu
Tháng 11/2013 - 7/2014.
2.4 Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.4.1 Nội dung nghiên cứu
- Xác định tỷ lệ sâu răng sữa, sâu răng vĩnh viễn và các chỉ số SMT,
smt của học sinh tiểu học Xuân La quận Tây Hồ, Hà Nội
- Tìm mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành CSRM với bệnh
sâu răng ở nhóm học sinh trên.
2.4.2 Thiết kế nghiên cứu
* Cỡ mẫu
Trường tiểu học Xuân La có 5 khối lớp tương ứng với các độ tuổi từ
6 - 11. Để tiện cho việc nghiên cứu và so sánh với các công trình trước, chúng
tôi chia thành 2 nhóm tuổi:
Nhóm 1: từ 6 – 8 tuổi (tương ứng với khối lớp 1, 2, 3).
Nhóm 2: từ 9 – 11 tuổi (tương ứng với khối lớp 4, 5).
Áp dụng công thức:
n=

Z (21 / 2)

p (1  p )
d2
[41]


Trong đó:
- n: Là cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu cho 1 nhóm tuổi.
- p = 65% (Tỷ lệ sâu răng ở trẻ em 6 - 11 tuổi theo kết quả cuộc điều tra
sức khỏe răng miệng toàn quốc 1999-2000 của Trần Văn Trường và CS [16]


×