Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch một số u tế bào mầm tinh hoàn ở trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 101 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tinh hoàn là ung thư phát triển từ tinh hoàn, một phần của hệ
sinh dục nam. Ung thư tinh hoàn chỉ chiếm 1% tất cả các ung thư ở người lớn,
nhưng nó là loại ung thư hay gặp nhất ở lứa tuổi từ 15-34 tuổi [1-10]; với tỉ lệ
thô mắc phải là 7,52/100.000 dân. Ở trẻ em, ung thư tinh hoàn là không phổ
biến, với tỉ lệ khoảng 0,5-2/100.000 bé trai và chiếm tỉ lệ 1-2% tất cả u ác tính
ở trẻ em [9-18].
Ung thư tinh hoàn được chia thành hai loại là u tế bào mầm và không tế
bào mầm. U tế bào mầm được sinh ra từ tế bào dòng tinh, chiếm 95% tất cả u
tinh hoàn ở người lớn nhưng chỉ chiếm 60% ở trẻ em và là một nhóm u rất đa
dạng về mô bệnh học [19, 20, 23-25].
Tỉ lệ ung thư tinh hoàn khác nhau rõ rệt theo vị trí địa lý, chủng tộc và
tầng lớp kinh tế xã hội. Ở Người Scăng – đi – na – vi thì có tỷ lệ mắc là
6,7/100.000 nam giới, trong khi đó ở Nhật, tỉ lệ này là 0,8/100.000 nam giới.
Ở Mỹ, có 7.200 ca mới mắc mỗi năm và tỉ lệ ung thư tinh hoàn ở người da
trắng gấp 4 lần ở người da đen [3, 5, 10]. Hơn 70% tất cả các trường hợp xảy
ra ở nam giới dưới 40 tuổi [22]. Theo ghi nhận ở Hà Nội giai đoạn 2001-2004, tỉ
lệ mắc ung thư tinh hoàn là 0,8/100.000 dân, đứng hàng thứ 24 trong các loại ung
thư ở nam giới [26].
Nguyên nhân của ung thư tinh hoàn chưa được biết nhiều, có ít sự giải
thích về sự thay đổi tỉ lệ mắc bệnh [22]. Khoảng 50% ung thư tinh hoàn xảy
ra ở đàn ông có tiền sử ẩn tinh hoàn một hay hai bên. Ung thư tinh hoàn hai
bên có thể xảy ra đồng thời, nhưng có xu hướng tương tự nhau về típ mô bệnh
học [2, 10].


2

U tế bào mầm tinh hoàn là một nhóm u không đồng nhất, với sự khác


nhau về lâm sàng, mô bệnh học và tiên lượng bệnh. U tinh hoàn ở người lớn
hay gặp là u tinh, ung thư biểu mô phôi và u tế bào mầm hỗn hợp. Còn ở trẻ
em thì hay gặp nhất là u túi noãn hoàng và u quái; ngược lại u tinh và ung thư
biểu mô phôi lại rất ít gặp [1, 2, 10, 12, 13, 15-18, 23, 27].
Ở Việt Nam, hiện mới có rất ít nghiên cứu về lâm sàng, mô bệnh học
và bộc lộ dấu ấn miễn dịch của bệnh u tế bào mầm tinh hoàn trẻ em. Hơn nữa,
hầu hết là các nghiên cứu đơn lẻ, chưa phối hợp các dữ liệu chẩn đoán, đặc
biệt là sử dụng các dấu ấn miễn dịch giúp xác định típ mô học một cách chính
xác hơn.
Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu
đặc điểm giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch một số u tế bào mầm tinh
hoàn ở trẻ em” nhằm các mục đích sau:
1.

Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu bệnh một số u tế bào mầm tinh hoàn
ở trẻ em theo phân loại của TCYTTG năm 2004.

2.

Khảo sát sự bộc lộ một số dấu ấn miễn dịch trong chẩn đoán bệnh u
tế bào mầm tinh hoàn ở trẻ em.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Phôi thai học, giải phẫu học, mô học của tinh hoàn
1.1.1. Sơ lược phôi thai học về sự hình thành và phát triển của tinh hoàn
Mặc dù giới tính của phôi đã được quy định bởi nhiễm sắc thể ngay lúc

thụ tinh tạo thành hợp tử. Nhưng không thể phân biệt được hình ảnh nam hay
nữ cho đến tuần thứ 7 của sự phát triển phôi thai. Cho đến thời điểm đó phôi
của cả hai giới phát triển giống hệt nhau. Thời kỳ này gọi là giai đoạn “trung
tính”. Các tuyến sinh dục không khác biệt nhau và bao gồm 3 loại tế bào:
trung mô, trung biểu mô và tế bào mầm. Trong giai đoạn trung tính này mào
bộ phận sinh dục được hình thành trên cả hai mặt của đường giữa từ sự ngưng
tụ của trung mô. Những mào này kéo dài từ ngực thứ 6 đến đoạn xương cùng
thứ hai của phôi đang phát triển và được bảo phủ bởi sự tăng sinh trung biểu
mô (biểu mô khoang cơ thể). Sự tăng sinh tiếp theo và sự di chuyển hướng
vào bên trong dạng hình ngón tay của các tế bào hình thành nên dây sinh dục
nguyên thủy. Thành phần thứ ba của sự phát triển tuyến sinh dục là tế bào
mầm nguyên thủy. Tế bào mầm tạo nên thành của túi noãn hoàng và sau đó di
chuyển dọc theo ruột sau và lưng rễ mạc treo tạo thành mào sinh dục. Một khi
chúng đến mào sinh dục thì chúng sẽ tập hợp lại thành dây sinh dục nguyên
thủy (Hình 1.1) [4, 28].
Các tuyến sinh dục không biệt hóa tiếp tục phát triển thành một tinh
hoàn đòi hỏi phải có sự hiện diện của một nhiễm sắc thể Y. Gen cho yếu tố
xác định tinh hoàn đã được khu trú trên nhánh ngắn nhiễm sắc thể Y. Dưới
ảnh hưởng của yếu tố xác định tinh hoàn, các dây sinh dục nguyên thủy hình
thành nên các ống sinh tinh. Các ống này được tạo thành từ hai dòng tế bào
khác nhau: (a) các tế bào từ trung biểu mô là tế bào Sertoli hoặc các tế bào


4

nâng đỡ và (b) những tế bào mầm di cư trở thành các nguyên bào tinh. Trung
mô ở giữa các ống sinh tinh đang phát triển biệt hóa thành tế bào kẽ (tế bào
Leydig). Màng trắng là một vỏ xơ dày, bao xung quanh tinh hoàn nguyên
thủy (Hình 1.1) [4, 28].
a. Hình ảnh của phôi thai 6 tuần tuổi mô tả

sự di chuyển của tế bào mầm nguyên thủy
(màu tím chấm) từ túi noãn hoàng, dọc theo
ruột sau (hindgut) và vào mào sinh dục
(genital ridge).
b. Hình ảnh cắt ngang qua bụng giữa thấy
mào sinh dục. Phần mở rộng vào phía trong
của sự tăng sinh trung biểu mô hình thành
dây sinh dục nguyên thủy. Tế bào mầm sinh
dục nguyên thủy đang được đưa vào các
dây sinh dục đang phát triển.
c. Hình vẽ cắt ngang qua một giai đoạn xa
hơn của sự phát triển cho thấy dây sinh dục
và sự hợp thành của tế bào sinh dục nguyên
thủy trong các ống sinh tinh đang phát triển.

Hình 1.1. Phôi thai học tinh hoàn


5

Vào khoảng tuần thứ 8 của thai kỳ, tế bào Leydig bắt đầu tiết
Testosteron. Dưới ảnh hưởng của hormon này, ống trung thận (ống Wolf) biệt
hóa thành mào tinh, ống dẫn tinh, túi tinh, ống phóng tinh. Ngoài ra tế bào
Sertoli còn tiết ra yếu tố ức chế ống Wolf, mà nó gây ra sự thoái hóa ống cận
trung thận. Giữa tuần thứ 7 – 12 của thai kỳ, tinh hoàn teo nhỏ lại thành hình
trứng giống như lúc chúng xuống vùng chậu. Hai tinh hoàn vẫn còn nằm gần
vòng bẹn sâu, đến tháng thứ 7 chúng bắt đầu chui qua ống bẹn để xuống hai
túi bìu [4, 28].
1.1.2. Giải phẫu học của tinh hoàn
Tinh hoàn là cơ quan sinh dục chính hay còn gọi là tuyến sinh dục

chính ở nam giới. Tinh hoàn là một tuyến vừa ngoại tiết tạo ra tinh trùng và
vừa nội tiết làm cho người có đặc điểm của nam tính [4, 29, 30].
 Hình thể ngoài
Tinh hoàn nằm trong bìu, ở bên trái thường thấp hơn bên phải. Tinh
hoàn phát triển nhanh trong lúc trưởng thành, hình tròn hơi dẹt, màu trắng
xanh, mặt hơi nhẵn, trục hơi chếch xuống dưới ra sau. Nặng khoảng 20g, dài
4,5cm, rộng 2,5cm, đường kính trước sau 3cm. Sờ thấy hơi rắn và nắn có cảm
giác đau đặc biệt [4, 29, 30].
Tinh hoàn có hai mặt: mặt ngoài lồi, mặt trong phẳng là nơi bám của
thừng tinh; hai cực trên và dưới; hai bờ trước và sau [29, 30].
 Hình thể trong
Tinh hoàn được bao bọc bởi 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp bao ngoài, lớp
trắng và lớp mạch. Hai tinh hoàn cách với nhau bởi vách sợi không liên tục ở giữa.
1.1.3. Mô học của tinh hoàn
Tinh hoàn được bọc ngoài bởi một màng trắng là một vỏ xơ dày cấu tạo
bởi mô liên kết giàu sợi collagen. Ở mặt sau trên tinh hoàn vỏ xơ dày lên


6

thành một khối xơ gọi là thể Highmore. Cực trên tinh hoàn được phủ bởi mào
tinh và tiến xuống phía dưới, theo bờ sau trên tinh hoàn để tạo ra phần thân và
phần đuôi của mào tinh [4, 28, 29].

Hình 1.2. Sơ đồ các thành phần cấu tạo của tinh hoàn
Từ màng trắng phát sinh những vách xơ tiến sâu vào tinh hoàn rồi quy
tụ ở thể Highmore, ngăn tinh hoàn thành nhiều tiểu thùy (khoảng 150-200 tiểu
thùy). Mỗi tiểu thùy chứa 3-4 ống, cong queo, kín ở đầu gần (giáp với màng
trắng) gọi là ống sinh tinh. Các ống sinh tinh đổ chung vào một ống ngắn gọi
là ống thẳng, tiến vào thể Highmore. Ống thẳng là đoạn đầu của đường dẫn

tinh và là đoạn nằm trong tinh hoàn (Hình 1.2) [4, 28, 29].
Trong tiểu thùy, mô liên kết nằm xen vào giữa các ống sinh tinh gọi là mô
kẽ, chứa các tế bào kẽ (hay tế bào Leydig). Những tế bào này cùng các mao
mạch tạo thành tuyến nội tiết kiểu tản mát gọi là tuyến kẽ tinh hoàn [4, 28].
 Ống sinh tinh
Thành của ống sinh tinh gồm một lớp vỏ chung và biểu mô tinh. Lớp
vỏ chung gồm lớp đáy, lớp cơ và lớp sợi. Lớp đáy nằm sát ngoài màng đáy,
không có cấu tạo tế bào, chỉ có các sợi collagen xếp theo nhiều hướng khác


7

nhau. Lớp cơ nằm ngoài lớp đáy, gồm những tế bào chứa nhiều sợi actin. Lớp cơ
giúp ống sinh tinh co giãn được. Ngoài lớp cơ còn có những tế bào sợi [4, 28].
Biểu mô tinh là một biểu mô đặc tựa trên màng đáy và hướng vào lòng
ống sinh tinh. Biểu mô tinh cấu tạo bởi hai loại tế bào là: tế bào Sertoli và các
tế bào dòng tinh [4, 28].
Những tế bào dòng tinh xếp thành 4-8 lớp, từ màng đáy cho đến lòng
ống sinh tinh. Những tế bào dòng tinh vừa sinh sản, vừa biệt hóa thành tinh
trùng. Ở người đàn ông trưởng thành, tế bào dòng tinh gồm có: tinh nguyên
bào, tinh bào 1, tinh bào 2, tiền tinh trùng và tinh trùng. Quá trình từ tinh
nguyên bào đến tinh trùng gọi là quá trình tạo tinh, gồm 3 giai đoạn [4, 28]:
+ Tạo tinh bào:tinh nguyên bào phân bào để tạo tinh bào 1
+ Tạo tiền tinh trùng: hay còn gọi là quá trình giảm phân tinh bào tiến
hành hai lần phân chia để tạo tiền tinh trùng.
+Tạo tinh trùng: các tiền tinh trùng biến đổi và biệt hóa thành tinh trùng.
Quá trình biệt hóa từ tinh tử thành tinh trùng: Gồm 4 giai đoạn: bộ
Golgi, tạo mũ, thể cực đầu và chín.
 Tế bào Sertoli
Có hình trụ, nằm trên màng đáy, bao quanh các tế bào mầm bởi bào tương

mở rộng, dạng hàng rào mạch máu – tinh hoàn. Tế bào Sertoli chiếm 7% tế bào
trong ống sinh tinh. Hình dạng bất thường, nhân có nhiều nếp gấp với hạt nhân
rõ. Tế bào Sertoli sản xuất hormon chống muller và là nguyên nhân dẫn đến sự
thoái triển ống muller. Sau khi sinh thì tế bào Sertoli có nhiệm vụ tiết Androgen
và đáp ứng với FSH; đồng thời cũng tiết Inhibin [4, 28].
 Hàng rào máu tinh hoàn: gồm chủ yếu là hàng rào tế bào Sertoli ngăn
không cho các immunoglobulin lọt vào bên trong ống sinh tinh, chống tương
tác giữa tế bào dòng tinh đang phát triển với hệ miễn dịch, phòng ngừa phản
ứng tự miễn dịch [4, 28].


8

 Lưới tinh:
Ở rốn của tinh hoàn, là phức hợp cấu trúc ống mà trông giống như u
quái. Lưới tinh hoàn nối ống sinh tinh với 12-15 ống dẫn tinh có lông, các ống
ra sau này hợp lại thành ống duy nhất. Lưới tinh được lót bởi tế bào biểu mô
lát đơn đến tế bào trụ đơn có nhiều vi nhung mao. Lòng các ống ra hẹp hơn
mào tinh và được lót bởi tế bào biểu mô trụ có lông chuyển [4, 28].
 Ống ra:
Ở người có khoảng 10-20 ống ra, nối giữa lưới tinh hoàn với ống mào
tinh. Những tế bào biểu mô không có lông chuyển (non-ciliated cuboidal) này
tái hấp thu một phần chất dịch do ống dẫn tinh tiết ra. Bên cạnh các tế bào
biểu mô vuông có một số tế bào hình trụ có lông chuyển (ciliated columnar
epithelium) có tác dụng đẩy tinh trùng về phía ống mào tinh. Phía ngoài màng
đáy có những sợi cơ trơn xếp hướng vòng góp phần làm cho tinh trùng
chuyển dịch về phía sau [4, 28].
 Mô kẽ của tinh hoàn:
Là mô liên kết xen vào giữa các ống sinh tinh được biệt hóa từ trung
mô. Đó là mô liên kết thưa, chứa những tế bào trung mô kém biệt hóa, tế

bào sợi, đại thực bào, dưỡng bào và các tế bào đa diện hay hình cầu được
gọi là tế bào kẽ tinh hoàn (tế bào Leydig). Các tế bào này có thể đứng riêng
lẽ hay tạo thành đám và có quan hệ mật thiết với các mao mạch máu để tạo
thành tuyến nội tiết kiểu tản mát gọi là tuyến kẽ tinh hoàn. Tuyến này tiết
ra testosteron có tác dụng kích thích quá trình tạo tinh trùng, duy trì sự hoạt
động của các tuyến phụ thuộc đường dẫn tinh và phát triển các giới tính
nam thứ phát: mọc râu, giọng nói trầm [4, 28].


9

Hình 1.3. Đặc trưng mô học bình thường của tinh hoàn
(Mũi tên thẳng là tế bào Sertoli nắm xung quanh các tế bào dòng tinh; mũi tên cong
là tế bào Leydig).
 Di chuyển của tinh hoàn
Mạc treo sinh dục (gờ treo sinh dục vào trung thận) trở thành mạc
treo tinh hoàn sau khi trung thận thoái hóa. Đoạn dưới của nó tồn tại dưới
dạng một dây liên kết gọi là dây chằng bìu hay dây kéo tinh hoàn, nối cực
dưới tinh hoàn với lồi môi bìu. Thân phôi và hốc chậu ngày càng lớn lên
nhưng dây kéo tinh hoàn không dài ra một cách tương ứng nên giữ tinh
hoàn ở vị trí gần vùng bìu [28-30].
Phần xa của mỏm bọc tinh hoàn sẽ bít kín sau khi tinh hoàn di chuyển
xuống bìu. Tỉ lệ bít kín tinh hoàn chiếm 50-70% trẻ nam sơ sinh [28-30].


10

1.2. Một số yếu tố liên quan và sinh bệnh học; sự tạo mô học của u tế bào
mầm tinh hoàn
1.2.1. Một số yếu tố liên quan và sinh bệnh học u tế bào mầm tinh hoàn

Sự nhạy cảm của gen với yếu tố môi trường đóng vai trò tương đối
quan trọng trong các nguyên nhân của UTBM tinh hoàn, là nguồn gốc của
một cuộc tranh luận lớn giữa các nhà nghiên cứu. Trong khi cả hai yếu tố
này dường như đóng một vai trò trong bệnh này thì mối liên quan giữa
chúng lại không rõ ràng. Chúng tôi đã đề cập trước đó sự khác biệt giữa
các chủng tộc. Một số nhà khoa học cho rằng tỉ lệ mắc u tế bào mầm tinh
hoàn cao hơn ở những người có tầng lớp kinh tế xã hội cao hơn, nhưng rất
khó để đánh giá những phát hiện này (Bảng 1.1) [10, 16].
Một số báo cáo gợi ý rằng một số ngành nghề đặc biệt có liên quan đến
các yếu tố nguy cơ, nhưng cơ sở dữ liệu bị mâu thuẫn và khó kiểm soát yếu tố
gây nhiễu. Vô sinh có liên quan đến nguy cơ bị UTBM tinh hoàn với hình
thái IGCNU và được xác định khoảng 1-2% các trường hợp. Tuy nhiên,
bản thân vô sinh cũng liên quan với các điều kiện khác dẫn đến sự hình
thành UTBM tinh hoàn như tật ẩn tinh hoàn và rối loạn phát triển tuyến
sinh dục. Vì vậy tầm quan trọng của nó như là một yếu tố nguy cơ độc lập
là vẫn còn nghi ngờ [16].
Nhiều yếu tố liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của UTBM tinh hoàn
như tiếp xúc với nồng độ estrogen cao trong máu mẹ thời kỳ mang thai; vàng
da sơ sinh và trọng lượng trẻ sơ sinh thấp hoặc cao. Sự phát hiện này gợi ý
rằng các yếu tố gây ra UTBM tinh hoàn đã xuất hiện sớm, có thể ngay trong
thời gian trước khi sinh [10, 16].
Yếu tố nguy cơ được chấp nhận rộng rãi nhất cho sự hình thành UTBM
tinh hoàn là tật ẩn tinh hoàn, chiếm khoảng 10% các trường hợp. Nguy cơ cao
gấp 4 lần bình thường, mặc dù tinh hoàn ẩn đã được sửa chữa hoặc không. Một
số bằng chứng cho thấy tinh hoàn xuống bất thường liên quan tới sự tiếp xúc với


11

nồng độ cao estrogen của mẹ trước khi sinh [10, 16, 31, 32]. Do tỷ lệ UTBM

tinh hoàn tăng cao trong các ca tinh hoàn ẩn nên đã có một số gợi ý thực hiện
sinh thiết tinh hoàn để xác định IGCNU và đã giúp phát hiện tới 4% ca [16].
Bệnh nhân có tiền sử UTBM tinh hoàn thường có nguy cơ mắc bên đối
diện gia tăng. Theo các nghiên cứu tỉ lệ khác nhau từ 2-5% và cao hơn ở các
nước Bắc âu [16].
Một số u tinh hoàn xuất hiện có yếu tố gia đình với khoảng 2% bệnh
nhân cũng có người nhà bị bệnh. Bệnh nhân có hội chứng lưỡng giới cũng là
một nguy cơ mắc UTBM tinh hoàn tăng [16].
Loạn sản tuyến sinh dục ở bệnh nhân mang một nhiễm sắc thể Y là
một yếu tố nguy cơ quan trọng cho sự phát triển u tế bào mầm [16, 33].
Gần đây, Skakkebaek và Csđã gợi ý rằng nhiều bệnh nhân u tế bào mầm
tinh hoàn có một số bằng chứng loạn sản tuyến sinh dục ở tuyến sinh dục
bên đối diện [34]. Còn theo Heidenreich A, ở tất cả ca ung thư tinh hoàn
một bên có khoảng 5% chứa IGCNU bên đối diện và sẽ tiến triển thành
UTBM tinh hoàn xâm nhập [35].
Dưới đây là một số yếu tố liên quan đến sinh bệnh học của u tế bào
mầm tinh hoàn [6, 10, 16, 36]:
Bảng 1.1. Các yếu tố liên quan đến sinh bệnh học của u tế bào mầm tinh hoàn
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10


Yếu tố
Chủng tộc
Yếu tố di truyền/gia đình
Tầng lớp kinh tế xã hội/nghề nghiệp
Vô sinh
Tật ẩn tinh hoàn
Nồng độ estrogen cao
Trọng lượng khi sinh cao hoặc thấp
Vàng da sơ sinh
Hội chứng nhạy cảm Androgen
Rối loạn tuyến sinh dục


12

1.2.2. Tạo mô học của u tế bào mầm tinh hoàn
Tổn thương tiền thân của hầu hết UTBM tinh hoàn sau dậy thì là tân sản tế
bào mầm nội ống không định loại (IGCNU), được định nghĩa là tế bào mầm ác
tính trong ống sinh tinh (ung thư biểu mô tại chỗ) [4-8, 10, 16, 24, 36-39].
Tỉ lệ của IGCNU xấp xĩ 0,9% toàn bộ nam giới. Ở người lớn với tiền sử
có tật ẩn tinh hoàn có tỉ lệ 2-4%, ở những bệnh nhân vô sinh gặp khoảng 1%.
Đối với bệnh nhân có hội chứng lưỡng giới và một nhiễm sắc thể Y thì tỉ lệ gặp
IGCNU là 6-25% [5, 10]. Ở đàn ông khỏe mạnh thì tỉ lệ thấp, khoảng 0,43% [5].
Ở trẻ em, tỉ lệ thực của IGCNU là rất khó đánh giá. Nó chỉ được mô tả
trong một số ít trường hợp liên quan với tật ẩn tinh hoàn, tình trạng lưỡng
giới, u túi noãn hoàng và u quái [10].
Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất trong quá trình tạo u của
UTBM tinh hoàn là sự phát triển của IGCNU bắt đầu trong tử cung, các yếu
tố ảnh hưởng quan trọng là nồng độ estrogen cao trong máu người mẹ hoặc
độc tố ngoài môi trường khác [10, 37]. Sự rối loạn quá trình phát triển tế bào

mầm bởi kết quả estrogen bắt giữ tế bào mầm bào thai trong giai đoạn tế bào
sinh dục nguyên thủy. Tế bào sinh dục nguyên thủy của thai có một gen bị
loại bỏ hoàn toàn khỏi quá trình loại methyl ADN và do đó chúng dễ bị đột
biến, mà những đột biến này được tích lũy trong quá trình tái tạo tế bào. Với
sự kết hợp của hoạt hóa đột biến gen sinh ung thư và đột biến im lặng của gen
ức chế khối u, tế bào sinh dục nguyên thủy được chuyển dạng thành IGCNU.
Sự phát triển của tế bào u trong IGCNU được tin là xảy ra ở tuổi dậy thì và
người lớn trẻ, dưới sự kích thích của hormon thì chúng sẽ tiến triển thành
UTBM tinh hoàn xâm nhập, với biệt hóa thành các dưới típ mô học khác nhau
trước hoặc sau khi xâm nhập [37]. Khi xuất hiện tân sản tế bào mầm nội ống,
nếu không được điều trị nó có thể tiến triển thành UTBM xâm nhập với tỉ lệ
50% trong 5 năm và 70% trong 7 năm tiếp theo [2, 4, 8, 24, 38].


13

1.3. Dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng của u tế bào mầm tinh hoàn trẻ em
 Dịch tễ
 Trên thế giới
Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới ung thư tinh hoàn chỉ chiếm 1% số
u ác tính ở nam giới, tuy nhiên nó là loại u đặc ác tính nhất ở đàn ông trẻ, từ 1534 tuổi với tỉ lệ thô mắc phải là 7,52/100.000 dân [6, 10, 16, 22, 32, 36, 37]. Mặc
dù hiếm nhưng nó là u có thể chữa khỏi được, khoảng 0,1% chết vì ung thư tinh
hoàn [3, 22]. Vào năm 2002, trên toàn thế giới ước tính có khoảng hơn 48500 ca
mới mắc và 8900 trường hợp chết vì ung thư tinh hoàn [40].
Tỉ lệ ung thư tinh hoàn là khác nhau rõ rệt ở các nước, chủng tộc và
tầng lớp kinh tế xã hội. Tại Mỹ có 7200 ca mới mắc mỗi năm và tỉ lệ là
5,2/100.000 nam giới; tỉ lệ này ở đàn ông da trắng cao gấp 4 lần ở người da
đen. Ở Châu âu, tỉ lệ ung thư tinh hoàn thấp nhất ở Lithuania (0,9/100.000
nam); trung bình ở Phần Lan (2,5/100.000 nam) và cao nhất ở Đan Mạch
(9,2/100.000 nam) [3, 4, 41]. Trong khi đó tại Anh thì tỉ lệ ung thư tinh hoàn

là 7/100.000 nam giới và là ung thư típ đặc phổ biến nhất ở lứa tuổi 18-35. Ở
Nhật, tỉ lệ này xấp xĩ 0,8/100.000 nam giới. Đối với chủng tộc, những người ở
tầng lớp kinh tế xã hội cao hơn có nguy cơ mắc ung thư tinh hoàn gấp 2 lần
những người ở tầng lớp kinh tế xã hội thấp [22].
Tỉ lệ ung thư tinh hoàn gia tăng ở tất cả các nhóm tuổi từ 2-3/100.000
đến 5-6/100.000 nam giới vào những năm cuối thập niên 1980; trong đó hơn
70% trường hợp xảy ra ở đàn ông dưới 40 tuổi [22].
U tinh hoàn ở trẻ em là hiếm, nhưng có thể điều trị và chữa khỏi được. Tỉ lệ
u tinh hoàn ở trẻ em chiếm 1-2% tất cả u đặc và chiếm tỉ lệ 0,5-2/100.000 trẻ nam
[9, 12-15, 17]. U tinh hoàn khác biệt rõ rệt giữa trẻ em và người lớn:UTBM ở
người lớn chiếm 95%, nhưng ở trẻ em tỉ lệ này khoảng 60%[19]. U tinh hoàn ở
người lớn hay gặp là u tinh, ung thư biểu mô phôi và u tế bào mầm hỗn hợp. Còn


14

ở trẻ em thì hay gặp nhất là u túi noãn hoàng (YST) và u quái (TT); ngược lại u
tinh và ung thư biểu mô phôi lại rất ít gặp [5, 7, 8, 10, 19]
U tinh hoàn hay gặp ở bên phải hơn bên trái, tương ứng với tật ẩn tinh hoàn
hay gặp ở bên phải. U nguyên phát ở tinh hoàn gặp ở hai bên chiếm 1-2% và
khoảng 50% u xảy ra ở đàn ông có tiền sử tật ẩn tinh hoàn một hoặc hai bên [3].
Nguyên nhân u tinh hoàn chưa được biết rõ, nhưng có một số yếu tố
nguy cơ đã được báo cáo: tiền sử gia đình, tật ẩn tinh hoàn, rối loạn tuyến sinh
dục, trọng lượng khi sinh thấp <2,5kg …[3, 10]
 Tại Việt Nam
Theo ghi nhận ung thư ở Hà Nội giai đoạn 2001-2004, tỉ lệ mắc ung
thư tinh hoàn là 0,8/100.000 dân và đứng hàng thứ 24 trong các loại ung thư ở
nam giới. Các yếu tố nguy cơ ung thư tinh hoàn bao gồm: tinh hoàn ẩn, tộc
người da trắng, tinh hoàn teo hoặc không phát triển và tiền sử gia đình.
Những người bị tinh hoàn ẩn có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 2,5-11 lần người

bình thường. Về mô bệnh học, UTBM chiếm 95% [26, 42].
Theo Bác sỹ Vũ Hoàng Ánh, trong những năm gần đây thì tỷ lệ u tế bào
mầm tinh hoàn loại U tinh gấp hai lần loại không U tinh trong cộng đồng người
da trắng. Những cá thể có tầng lớp xã hội kinh tế cao hơn thì có tỉ lệ mắc ung thư
tinh hoàn cao gấp hai lần những người ở tầng lớp kinh tế xã hội thấp hơn [43].
Theo Nguyễn Hoài Anh, tỉ lệ UTBM tinh hoàn chiếm 36,9% tất cả UTBM
ngoài sọ ở trẻ em; với tỉ lệ tái phát và tỉ lệ tử vong tương ứng là 1,6% và 4,8% [44].
Theo một số nghiên cứu về UTBM tinh hoàn ở trẻ em, độ tuổi hay gặp
nhất là 19 tháng [45, 46]; bên trái gặp nhiều hơn bên phải [45].
 Lâm sàng
Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư tinh hoàn là một khối lớn,
không đau, lớn dần và thường được phát hiện muộn [4, 10].
Đau tinh hoàn cấp tính được thấy trong khoảng 10% trường hợp và có thể
là kết quả của nhồi máu hoặc xuất huyết trong tinh hoàn. Khoảng 10% bệnh nhân


15

hiện diện triệu chứng liên quan đến di căn. Đau lưng (di căn sau phúc mạc liên
quan đến rễ thần kinh) là triệu chứng phổ biến nhất. Các triệu chứng khác như ho,
khó thở (di căn phổi); chán ăn, buồn nôn, nôn (di căn sau tá tràng); đau xương (di
căn xương) và khối sưng thấp hơn (do tắc tĩnh mạch chủ).
Khoảng 10% bệnh nhân không có triệu chứng biểu hiện ở trên và các khối
u được phát hiện tình cờ sau chấn thương hoặc do bố mẹ thăm khám [4, 10].
 Cận lâm sàng
Siêu âm là phương pháp chẩn đoán đầu tiên đối với bệnh học ở vùng
bìu. Nó có thể phát hiện gần 100% khối ở vùng bìu. Vì vậy, khối u tinh hoàn
nguyên phát có thể đánh giá nhanh chóng và chính xác bằng siêu âm bìu.MR
và CT ít được sử dụng trong chẩn đoán u tinh hoàn. Riêng CT có thể dùng
trong chẩn đoán giai đoạn khối u [4, 10].

 Một số dấu ấn huyết thanh của u tế bào mầm tinh hoàn
Học viện Quốc gia về hóa sinh lâm sàng của Phần Lan đã có hướng dẫn
sử dụng các dấu ấn miễn dịch trong u tế bào mầm tinh hoàn [3]. Các dấu ấn
miễn dịch có vai trò trong chẩn đoán, phân loại giai đoạn, tiên lượng và quản
lý UTBM tinh hoàn. Mặc dù có nhiều dấu ấn bất thường nhưng trên lâm sàng
chỉ sử dụng 3 dấu ấn sau: Alpha protein bào thai (AFP), chất hướng dục màng
đệm ở người (HCG) và ở mức độ thấp hơn là lactate dehydrogenase (LDH)[3,
4, 10, 22, 36, 47, 48] (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Tỉ lệ tăng của các dấu ấn trong các loại u tế bào mầm tinh hoàn.
Típ mô bệnh học

HCG (%)

AFP (%)

U tinh

7

0

U quái

25

38

Ung thư biểu mô quái

57


64

Ung thư biểu mô phôi

60

70

Ung thư biểu mô màng đệm

100

0


16

 Điều trị
Sau khi có chẩn đoán xác định u tế bào mầm tinh hoàn, phẫu thuật cắt
bỏ tinh hoàn qua đường bẹn là biện pháp điều trị đầu tiên. Xem xét sinh thiết
tinh hoàn bên đối diện nếu trên siêu âm có bất thường, tinh hoàn ẩn, tinh hoàn
teo đáng kể. Việc điều trị tiếp theo tùy thuộc vào mô bệnh học là u tinh hay u
không tinh, trong đó quan tâm đến yếu tố nguy cơ [26, 42].
Theo Hussain S.A và Cs, u tế bào mầm tinh hoàn nhạy cảm với hóa
liệu pháp nên có thể phối hợp thêm hóa trị liệu sau cắt bỏ khối u [39].
1.4. Giai đoạn và xếp nhóm nguy cơ của u tế bào mầm tinh hoàn trẻ em
Giai đoạn UTBM tinh hoàn theo Nhóm ung thư trẻ em (Bảng 1.3) [10]:
Bảng 1.3. Giai đoạn u tế bào mầm theo nhóm ung thư trẻ em
Giai đoạn

I

Mô tả
- Giới hạn ở tinh hoàn
- Được cắt bỏ hoàn toàn bởi phẫu thuật theo đường bẹn
- Không có bằng chứng về lâm sàng, hình ảnh và mô học
của bệnh ở ngoài tinh hoàn
- Các dấu ấn trở về bình thường sau thời gian bán hủy

II

- Đặc điểm vi thể của bệnh ở vùng bìu hoặc thừng tinh
(đầu gần nhất cách ≤5cm)
- Hạch sau phúc mạc (<2cm)
- Dấu ấn huyết thanh tăng sau thời gian bán hủy

III

- Hạch sau phúc mạc (≥2cm)
- Không bao gồm các tạng hoặc ngoài ổ bụng

IV

- Di căn xa


17

1.5. Phân loại u tế bào mầm tinh hoàn theo đặc điểm mô bệnh học
 Phân loại của TCYTTG năm 1977 như sau [49]:

Bảng 1.4. Phân loại u tế bào mầm tinh hoàn theo TCYTTG năm 1977
U một típ mô học:
- U tinh
+ Biến thể: U tinh với tế bào hộp bào nuôi
- U tinh tinh bào
- Ung thư biểu mô phôi
- U túi noãn hoàng (U nội bì xoang)
- Ung thư biểu mô màng đệm
- U đa phôi
- U quái:
+ Trưởng thành
+ Chưa trưởng thành
+ Một lá mầm và đặc hiệu cao
Carcinoid
U ngoại bì thần kinh nguyên thủy
Khác
+ Với chuyển dạng ác tính
U có nhiều hơn một típ mô học
- Ung thư biểu mô phôi và u quái (ung thư biểu mô quái)
- Kết hợp khác (đặc hiệu)
Tân sản tế bào mầm nội ống


18

 Phân loại theo Woodward P.J và Cs [4]:
Về cơ bản thì phân loại này (có sự chấp nhận của TCYTTG) gần tương tự
như phân loại của Young RH và Scully RE khi UTBM tinh hoàn được phân thành
3 loại như sau: tổn thương u tiền thân, u một típ mô học và u nhiều hơn một típ
mô học. Tuy nhiên có một vài khác biệt đó là: thứ nhất, trong nhóm u một típ mô

học thì không có típ u tinh tinh bào và u đa phôi; thứ hai, trong phân loại u quái thì
đã đơn giản hơn; cuối cùng, trong nhóm u nhiều hơn một típ mô học thì không
đưa ra một sự kết hợp cụ thể giữa các típ mô học nào.
Bảng 1.5. Phân loại u tế bào mầm tinh hoàn theo Woodward P.J năm 2002
1. Tổn thương tiền ung thư
Tân sản tế bào mầm nội ống
2. U tế bào mầm có một típ mô học
- U tinh
- Ung thư biểu mô phôi
- U túi noãn hoàng
- Ung thư biểu mô màng đệm
- U quái
Trưởng thành
Chưa trưởng thành
Có thành phần chuyển dạng ác tính
3. U tế bào mầm có nhiều hơn một típ mô học
 Phân loại theo TCYTTG năm 2004
UTBM tinh hoàn là một nhóm u không đồng nhất về mô bệnh học,
thay đổi về lâm sàng và tiên lượng. Sự đa dạng này được phản ánh tốt nhất
trong các hệ thống phân loại khác nhau trước đây [4, 49]. Hiện nay hệ
thống phân loại toàn diện nhất và được chấp nhận rộng rãi nhất là của Tổ
chức Y tế Thế Giới [10, 50].


19

Phân loại u tế bào mầm gần đây nhất của TCYTTG vào năm 2004 cũng
tương tự phân loại năm 1998 và phân loại của Woodward P.J năm 2002 [4];
nhưng sự khác nhau đáng kể nhất là phân loại u quái và u đa phôi. Từ khi
các nhà khoa học nhận biết được u quái trưởng thành và chưa trưởng thành

có cùng thay đổi di truyền và đặc trưng tiềm năng sinh học ở bệnh nhân
trước và sau tuổi dậy thì, u quái không còn được phân loại thành hai loại
trưởng thành và không trưởng thành nữa [2]. U đa phôi từng được phân
loại trong nhóm một loại mô học, nhưng khi có sự công nhận của các loại
tế bào khác nhau trong u đa phôi nên bây giờ nó được xếp vào nhóm nhiều
hơn một típ mô học (Bảng 1.6) [2, 10, 50].
Bảng 1.6. Phân loại u tế bào mầm tinh hoàn của TCYTTG năm 2004
-

-

-

1. Tân sản tế bào mầm nội ống, chưa định loại
Típ khác
2. U tế bào mầm một típ mô học (đơn thuần)
U tinh
+ U tinh với tế bào hợp bào nuôi
U tinh tinh bào
+ Với thành phần sarcoma
Ung thư biểu mô phôi
U túi noãn hoàng
U nguyên bào nuôi
+ Ung thư biểu mô màng đệm
+ U nguyên bào nuôi khác ung thư biểu mô màng
đệm
 Ung thư biểu mô màng đệm một pha
 U nguyên bào nuôi ở vị trí rau thai
U quái
+ Dạng nang bì

+ U quái một lá phôi
+ U quái với thành phần ác tính
3. U tế bào mầm nhiều hơn một típ mô học(hỗn hợp)
Ung thư biểu mô phôi kết hợp u quái
U quái kết hợp u tinh
Ung thư biểu mô màng đệm kết hợp u quái/ung thư biểu mô
phôi
Khác

9064/2

9061/3
9063/3
9070/3
9071/3
9100/3

9104/1
9080/3
9084/0
9084/3
9081/3
9085/3
9101/3


20

1.6. Đặc điểm giải phẫu bệnh UTBM tinh hoàn theo phân loại típ mô
bệnh học của TCYTTG năm 2004 [2, 5, 10]:

 Tân sản tế bào mầm nội ống, chưa định loại
 Đại thể: Không có tổn thương đại thể đặc hiệu.
 Mô bệnh học:Tế bào mầm ác tính lớn hơn tinh nguyên bào bình
thường; nhân lớn, không đều, tăng sắc, hạt nhân lớn, ít nhân chia; bào tương
rộng sáng, chứa nhiều glycogen với nhuộm PAS dương tính.
 Hóa mô miễn dịch:Dương tính với D2-40 (100%) và PLAP (>83%);
OCT3/4 và CD117 cũng dương tính với tỉ lệ cao.
 U tinh
 Đại thể: Khối lớn, dạng thùy, đồng nhất, ranh giới rõ. Diện cắt có
màu xám hay vàng nhạt, rải rác ổ hoại tử. Ít gặp dạng nang, chảy máu.
 Đặc điểm mô bệnh học: Gồm các tế bào đồng dạng, xếp thành đám,
dải, cách nhau bởi các vách xơ có xâm nhập lympho bào. Tế bào u hình tròn,
đa diện, với nhân lớn, hạt nhân rõ và bào tương sáng; ít nhân chia. Một số các
biến thể có thể gặp của u tinh: dạng sàng, giả tuyến, ống, u tinh bất thục sản.
 Biến thể u tinh với tế bào hợp bào nuôi: Hơn 7% u tinh có hợp bào
nuôi; hợp bào nuôi có nhiều nhân, bào tương rộng, ưa axit. Các ổ chảy máu
thường bao quanh hợp bào nuôi.
 Hóa mô miễn dịch: PLAP, CD117 dương tính 85-100%; hCG dương
tính với thành phần hợp bào nuôi. Có thể dung CK, Vimentin.
 U tinh tinh bào
 Đại thể:Kích thước từ 2-20cm, trung bình 7cm. U mềm, giới hạn rõ;
diện cắt thường có dạng nhầy, nang, thùy, chảy máu, hoại tử.
 Đặc điểm mô bệnh học: Tế bào u đứng rời rạc, xếp lan tỏa, đôi khi
tạo thành ổ lớn cách nhau bởi vách xơ, có thể dạng nang; mô đệm ít, phù nề.
Tế bào u đa dạng có 3 loại: loại nhỏ (6-8µm) nhân kiềm sẫm, bào tương hẹp


21

màu hồng nhạt (giống lympho bào); trung gian (15-20µm) gặp nhiều nhất,

nhân tròn, chất nhiễm sắc mịn và tế bào lớn (50-100µm) có hạt nhân rõ. Nhân
chia cao, ít gặp xâm nhập lympho bào.
Dạng Sarcoma: Khoảng 6%, phần lớn các tế bào có dạng hình thoi kém
biệt hoá. Sarcoma có thể biểu hiện nhiều thành phần như: sarcoma cơ vân,
sarcoma sụn, sarcoma tế bào hình thoi.
 Hóa mô miễn dịch:thường âm tính với CK, PLAP, AFP, CEA, LCA,
CD30, Vimentin
 Ung thư biểu mô phôi
 Đại thể: ĐK trung bình 4cm, ranh giới không rõ, có xâm lấn tại chỗ.
Diện cắt mềm, màu xám; ổ xuất huyết, hoại tử hay gặp.
 Đặc điểm mô bệnh học: Gồm các tế bào lớn, xếp thành dạng đặc,
ống, tuyến, nhú và ống nhỏ. Có thể gặp giả xoang nội bì phôi.Nhân lớn, hình
đa diện hay trụ, tăng sắc, màng nhân không đều, hạt nhân rõ. Bào tương dạng
hạt, rộng. Tế bào u thường đứng chồng lên nhau, nhân chia hay gặp. Mô đệm
ít, kém biệt hóa với tăng sinh tế bào hình thoi.
 Hóa mô miễn dịch:Dương tính hầu hết với CD30, PLAP. Âm tính AFP.
 U túi noãn hoàng
 Đại thể: Mềm, diện cắt thường đặc, màu xám nhạt, đôi khi có dạng
nhầy. Những u lớn thường có chảy máu và hoại tử.
 Đặc điểm mô bệnh học:
- U túi noãn hoàng có nhiều dạng mô học, các dạng mô học này
thường xen lẫn nhau trong một khối u. Trong đó dạng lưới là hay gặp nhất với
các hốc nhỏ, lòng chứa chất tiết, được lợp bởi một lớp tế bào có nhân nhỏ hơn
trong UTBM phôi. Thể hyaline thường gặp. Mô đệm thường có dạng nhầy.


22

- Dạng xoang nội bì là dạng cấu trúc kinh điển của u túi noãn hoàng
với các thể “Schiller - Duval” gồm 1 trục nhú liên kết sợi chứa 1 mạch máu

nhỏ ở trung tâm và bao phủ lớp tế bào khối trụ.
- Dạng nhú gồm các nhú nhỏ có trục liên kết sợi, hyalin hoá và lồi vào
lòng hốc và lớp bởi các tế bào trụ thấp, bào tương hẹp.
- Một số dạng hay gặp khác: đặc, hốc tuyến, dạng niêm, dạng gan,
dạng ruột và nang lớn.
 Hóa mô miễn dịch: Dương tính hầu hết với AFP, CK; ít với PLAP
 Ung thư biểu mô màng đệm
 Đại thể: u nhỏ, ranh giới không rõ, màu xám nhạt. Diện cắt có ổ xuất
huyết, hoại tử.
 Đặc điểm mô bệnh học: Gồm các tế bào nuôi xen lẫn với hợp bào
nuôi. Được các ổ xuất huyết, hoại tử bao quanh. Nhân chia hay gặp ở vùng
đơn bào nuôi. Một vài trường hợp thành phần hợp bào nuôi rất ít tạo nên hình
ảnh UTBM màng đệm đơn dạng (Monophasic).
 Hóa mô miễn dịch:Hợp bào nuôi dương tính với hCG. Ung thư biểu
mô màng đệm dương tính với CK7,8,18,19.
 U nguyên bào nuôi khác ung thư biểu mô màng đệm
Có hai trường hợp u nguyên bào nuôi được báo cáo, mà thiếu thành
phầnUTBM màng đệm. Chủ yếu là các đơn bào nuôi và nguyên bào nuôi có 1
nhân, bào tương rộng ưa axit, dương tính ổ với hCG.
 U quái
 Đại thể: Thường dạng nốt, mật độ chắc. Diện cắt không đồng nhất
với vùng đặc, nang. Sụn, xương, lông, tóc có thể thấy.
 Đặc điểm mô bệnh học: Có thể gặp tất cả các thành phần của 3 lá
phôi, các mô hay gặp là: biểu mô vảy sừng hóa, mô thần kinh, mô tuyến;
đường tiêu hóa, hô hấp, sinh dục; xơ, mỡ, cơ trơn …


23

 Hóa mô miễn dịch: AFP dương tính với vùng ruột, gan. PLAP dương

tính cấu trúc tuyến; hCG dương tính với hợp bào nuôi.
 Nang dạng bì
 Đại thể: nang đơn độc, chứa tóc, chất sừng.
 Đặc điểm mô bệnh học: Nang chứa đầy chất sừng, lót bởi biểu mô
vảy sừng hóa, có tuyến phụ thuộc da. Vách xơ xung quanh có thể chứa một tỉ
lệ thấp của tuyến mồ hôi, biểu mô, xương, sụn, co trơn, ruột, hô hấp.
 U quái một lá phôi
- Là u có thành phần có nguồn gốc chỉ từ một trong ba lá phôi.
- U ngoại bì thần kinh nguyên thủy, u quái sụn đơn thuần, nang dạng
biểu bì.
 U quái có thành phần ác tính thứ phát
Cấu trúc u quái kèm các thành phần ác tính. Trong đó thành phần ác
tính thường gặp nhất là Sarcoma, có khoảng 50% là Sarcoma không biệt hoá,
còn lại là các dạng Sarcoma khác như cơ vân, sụn, xương và mô bào sợi…
Thành phần ung thư biểu mô ít gặp, thường là tuyến, vảy.
 U tế bào mầm có hơn một loại mô học
 U tế bào mầm hỗn hợp
 Đại thể:Tinh hoàn lớn, diện cắt có vùng đặc xen lẫn ổ hoại tử, xuất
huyết. Dạng nang thường có thành phần u quái.
 Đặc điểm mô bệnh học
- Sự kết hợp phổ biến nhất là giữa u quái và ung thư biểu mô phôi, tiếp
theo là sự kết hợp giữa ung thư biểu mô phôi, u túi noãn hoàng, u quái và các
hợp bào nuôi.
- U đa phôi: là một loại UTBM hỗn hợp bao gồm sự kết hợp ung thư
biểu mô phôi và u túi noãn hoàng, u quái và đôi khi kèm theo các hợp bào nuôi.


24

 U tế bào mầm thoái triển

- Trong 1 số trường hợp chúng ta gặp các u tế bào mầm ngoài sinh dục, tuy
nhiên có những bằng chứng thuyết phục rằng đó là những vị trí di căn của UTBM
tinh hoàn nguyên phát dạng thoái triển hoặc khối u ở tinh hoàn dạng ẩn vì thế
chúng ta không phát hiện được khối u ở tinh hoàn khi khám lâm sàng.
- Trong các u tế bào mầm dạng thoái triển ở tinh hoàn có di căn thì
thường gặp nhất là ung thư biểu mô màng đệm, tiếp theo là ung thư biểu mô
phôi, UTBM hỗn hợp và có thể cả u tinh bào.
1.7. Hóa mô miễn dịch trong chẩn đoán UTBM tinh hoàn [3, 51, 52]
U tế bào mầm tinh hoàn là một nhóm u không đồng nhất, với sự khác
biệt về mô bệnh học, lâm sàng và tiên lượng. Vì vậy, để chẩn đoán chính xác
các típ mô bệnh học của UTBM tinh hoàn thì phương pháp HMMD thường
được thực hiện.
Một số dấu ấn thường sử dụng trong chẩn đoán UTBM tinh hoàn:
 OCT3/4
OCT3/4 có độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao với u tinh và ung thư biểu
mô phôi. Ngoài ra OCT3/4 cũng nhạy và đặc hiệu với IGCNU.
 CD117 (C-Kit)
C-kit là một glycoprotein vận chuyển màng, là thụ thể tyrosine kinase ở
tế bào nguồn. CD117 dương tính 95-100% u tinh, biểu hiện ở màng tế bào.
Có thể dương tính trong u quái, u tinh tinh bào và tân sản tế bào mầm nội ống.
 D2-40 (Podoplanin, M2A)
Là một mucoprotein vận chuyển màng, dương tính cho u tế bào mầm tinh
hoàn, nội mô mạch bạch huyết và trung biểu mô. Bắt màu với thành phần màng.
Là dấu ấn rất nhạy với tân sản tế bào mầm nội ống và u tinh. Vì vậy,
đối với tân sản tế bào mầm nội ống thì D2-40 tốt hơn CD117.


25

 Anpha – fetoprotein (AFP)

AFP là một protein bào thai bình thường được sản xuất bởi túi noãn hoàng
bào thai, gan, biểu mô đường tiêu hóa và tăng trên 75% trong UTBM không u tinh.
AFP dương tính trong u túi noãn hoàng khoảng 80% và thường dương tính
ổ; có thể dương tính ít với ung thư biểu mô phôi, nhưng âm tính trong u tinh.
 Placenta-like Alkaline phosphatase (PLAP)
Phần bào thai của phosphatase alkaline là enzyme màng có trọng lượng
phân tử 120kD, bình thường được tổng hợp bởi tế bào hợp bào nuôi của bào
thai và giải phóng vào tuần hoàn tuần thứ 12 của bào thai.
Tuy nhiên nó được tạo ra bởi rất nhiều u. Mặc dù PLAP là dấu ấn hay
sử dụng cho tế bào mầm nhưng nó không đặc hiệu cho UTBM, nó có thể
dương tính với u ở vú, phổi, đường niệu, tiêu hóa.
Trong số UTBM, thì u tinh, tân sản tế bào mầm nội ống và ung thư
biểu mô phôi là thường dương tinh với PLAP (97%); dương tính ít hơn cho u
túi noãn hoàng (85%) và ung thư biểu mô màng đệm, u quái (50%).
PLAP dương tính với thành phần màng và bào tương.
 CD30
Là protein trong gia đình thụ thể yếu tố hoại tử u.
CD30 rất nhạy và đặc hiệu cho ung thư biểu mô phôi (>93%). Thường âm
tính trong UTBM khác. CD30 dương tính với thành phần màng và bộ Golgi.
Một số các dấu ấn khác hay sử dụng cho UTBM tinh hoàn là: hCG,
GLP3 (Glypican3).
1.8. Tình hình nghiên cứu về UTBM tinh hoàn ở Việt Nam và trên thếgiới
 Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện tại có rất ít công trình nghiên cứu về ung thư tinh
hoàn nói chung và u tế bào mầm tinh hoàn ở trẻ em nói riêng. Có nhiều


×