Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần kinh doanh và dịch vụ vật tư kỹ thuật số 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.39 KB, 64 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thành phần kinh tế tư nhân đã có những chuyển biến
quan trọng, nhiều doanh nghiệp đã đi dần vào thế ổn định, thích nghi với cơ chế thị
trường, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên vẫn còn một số
doanh nghiệp gặp khó khăn lớn, làm ăn cầm chừng, thua lỗ. Hạn chế của nhiều
doanh nghiệp là cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, vốn ít, thị trường hạn
hẹp, tổ chức kinh doanh thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên
chưa theo kịp yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Việc tìm ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và các
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vật tư kỹ thuật như công ty có ý nghĩa
quan trọng.
Hải Phòng là thành phố đang trên đà phát triển, các khu công nghiệp tập
trung phía Tây, phía Bắc, phía Đông và phía Đông Nam thành phố, sự phát triển
mạnh của các doanh nghiệp đóng tàu đã tạo nên thị trường lớn cho các doanh
nghiệp như công ty cổ phần vật tư kỹ thuật. Với tiềm năng sẵn có công ty đang
hướng tới việc mở rộng thị trường ra các thị trường mới là những tỉnh lân cận Hải
Phòng với mục tiêu tăng trưởng hàng năm khoảng 20-25%.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần vật tư số 1 đang là một vấn đề có ý nghĩa
lớn lao đối với công ty cả về lý luận cũng như thực tiễn. Xuất phát từ suy nghĩ đó
tôi đã lựa chọn đề tài: “Biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công
ty cổ phần kinh doanh và dịch vụ vật tư kỹ thuật số 1”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề có tính chất lý luận kết hợp với việc
phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty kinh doanh và dịch
vụ vật tư kỹ thuật số 1, luận văn đánh giá thành công và tồn tại hạn chế của công ty,

1



từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hiệu quả sản xuất kinh doanh của công
ty kinh doanh và dịch vụ vật tư kỹ thuật số 1.
Phạm vi nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu phổ biến như:
- Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
- Kết hợp các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, phương pháp
phân tích và tổng hợp một cách lô gic.
- Kết hợp với việc điều tra khảo sát thực tế với việc thừa kế những kết quả
nghiên cứu đã được tổng kết để đề xuất các biện pháp phù hợp.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Chương 2: Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần kinh
doanh và dịch vụ vật tư kỹ thuật số 1
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ
phần kinh doanh và dịch vụ vật tư kỹ thuật số 1

2


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP

1.1. Các khái niệm cơ bản về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm kinh doanh
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về kinh doanh. Theo Luật Doanh
nghiệp, kinh doanh được hiểu: là việc thực hiện một, một số hoặc toàn bộ công
đoạn của quá trình đầu tư, từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. [4, tr7]
Kinh doanh có những đặc điểm khác biệt sau:
+ Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện gọi là chủ thể kinh doanh.
+ Kinh doanh phải gắn với thị trường, thị trường và kinh doanh đi liền với
nhau như hình với bóng - không có thị trường không có khái niệm kinh doanh.
+ Kinh doanh phải gắn với sự vận động của đồng vốn.
+ Mục đích chủ yếu của kinh doanh là sinh lời
1.1.2. Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một trong những chủ thể kinh doanh chủ yếu của nền kinh
tế, có quy mô và vai trò to lớn so với việc kinh doanh cá nhân. Doanh nghiệp là
đơn vị được thành lập chủ yếu với mục đích hoạt động kinh doanh. Vì vậy có thể
coi doanh nghiệp là bộ máy làm ra tiền, nó có nhiệm vụ chế biến đầu vào thành các
đầu ra và sự chênh lệch giữa đầu vào với đầu ra sẽ tạo ra lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
Theo luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích hoạt động kinh doanh. [4, tr.10]
Những nội dung chính của khái niệm doanh nghiệp bao gồm:

3


- Doanh nghiệp là các tổ chức, các đơn vị được thành lập theo quy định của
pháp luật để chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp là một tổ chức sống, theo nghĩa nó cũng có vòng đời của nó

và các bước thăng trầm, suy giảm, tăng trưởng, phát triển hoặc bị diệt vong.
Đặc điểm chung của khái niệm được mô tả qua sơ đồ sau:
Doanh nghiệp

Là 1 tổ
chức
được
nhà
nước
cho
phép
hoạt

Có đầy
đủ các
yếu tố
sản xuất

Sản xuất
hàng
hoá hay
dịch vụ
để bán

Tìm
kiếm lợi
nhuận

Phân chia lợi nhuận
Ngườ

i cung
ứng

Ngườ
i lao
động

Nhà
nướ
c

Ngườ
i cho
vay

Ch

sở
hữu

Hình 1.1. Đặc điểm của doanh nghiệp

1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp
Các loại hình doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp nhỏ, doanh
nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn.
Ở Việt Nam hiện nay, loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm phần lớn ở
các thành phần kinh tế. Về doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ không có luật doanh
nghiệp cho từng loại. Chúng được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp
nhà nước, luật công ty luật doanh nghiệp tư nhân, luật hợp tác xã... tuỳ thuộc loại
hình sở hữu của doanh nghiệp.

1.2. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Chúng ta có thể khái quát quá trình kinh doanh của một vài doanh nghiệp
sau:
1.2.1- Doanh nghiệp sản xuất
Quá trình kinh doanh gồm: nghiên cứu, xác định nhu cầu thị trường về hàng
hoá, tổ chức tiêu thụ hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp.

4


Quá trình này gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn phải thực hiện một số
công việc cụ thể theo một cộng nghệ hợp lý với một thời gian nhất định, tiêu hao
một lượng chi phí nhất định về các nguồn lực đang sử dụng. Qua nghiên cứu có
những giai đoạn sau:
+ Nghiên cứu nhu cầu thị trường hàng hoá và dịch vụ để quyết định sản xuất
cái gì?
+ Chuẩn bị đẩy đủ các yếu tố đầu vào để thực hiện quyết định sản xuất như:
lao động, đất đai, thiết bị, vật tư, kỹ thuật, công nghệ....
+ Kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa các yếu tố cơ bản của đầu vào để tạo ra
hàng hoá và dịch vụ trong đó lao động là yếu tố quyết định.
+ Tổ chức tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, bán hàng hoá, thu tiền.
1.2.2. Doanh nghiệp thương mại dịch vụ
Quá trình kinh doanh diễn ra chủ yếu là mua và hàng hoá dịch vụ cho nên
quá trình kinh doanh bao gồm các giai đoạn:
1.2.2.1. Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ
Để lựa chọn và quyết định lượng hàng hoá cần mua để bán cho khách hàng
theo nhu cầu của thị trường. Người ta quan tâm đến hai loại nhu cầu:
Nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất về hàng hoá dịch vụ
Loại nhu cầu này hình thành trực tiếp từ sản xuất và do sản xuất quyết định
cơ cấu nhu cầu. Nó là cơ sở để xác định cầu hàng hoá trên thị trường. Để xác định

được nhu cầu này người ta sử dụng công thức sau: [4, 25]
Nsx = Q x m
Từ đó xác định được số tiền cần mua vật tư bằng:
Nsx x G = Q x m x G
Xác định nhu cầu đặt hàng
Nhu cầu này thường xác định theo phương pháp cân đối
 Nij =  Pij

5


 Nij : Là nhu cầu về loại hàng hoá i
 Pij : Tổng nguồn về loại hàng hoá i được thỏa
Thông qua cân đối ta xác định được nhu cầu đặt hàng (Nđh)
Nđh =  Nij - (Ođk + M + E)
Trong đó:
Ođh: Hàng tồn kho đầu kỳ của doanh nghiệp
M: lượng hàng tự sản xuất, tự gia công
E: Lượng hàng có thể tiết kiệm trong hoạt động tiêu dùng sản xuất
 N: Tổng nhu cầu về hàng hoá của doanh nghiệp

  N - (Ođk + M + E)  x G:
Để xác định được nhu cầu, các doanh nghiệp thương mại thường dùng 3
phương pháp sau:
+ Phương pháp đơn hàng: Tức là thông qua toàn bộ đơn đặt hàng của khách
để nắm được nhu cầu.
+ Phương pháp trưng cầu ý kiến khách hàng: Thông qua phiếu điều tra hoặc
thông qua hội nghị khách hàng để nắm được nhu cầu.
+ Phương pháp thống kê để dự báo nhu cầu: Người ta thông qua lượng hàng
hoá bán được hàng năm để có dự báo cho năm kế hoạch.

1.2.2.2.Tổ chức mua sản phẩm theo nhu cầu thị trường
Các doanh nghiệp thương mại có quyết định mua khác với các doanh nghiệp
mua sắm tư liệu sản xuất để sản xuất: Họ sẽ quyết định lựa chọn danh mục mặt
hàng để kinh doanh đóng vai trò quan trọng nhất. Nó xác định chỗ đứng của doanh
nghiệp thương mại trên thị trường và các nhà cung ứng cho danh mục hàng hoá của
họ.
Doanh nghiệp thương mại có thể chọn 1 trong 4 chiến lược “lựa chọn danh
mục mặt hàng kinh doanh” sau:

6


+ Kinh doanh chủng loại mặt hàng riêng biệt, tức là họ chỉ mua và bán một
loại hàng hoá, chỉ có một người sản xuất.
+ Kinh doanh theo chiều sâu, kinh doanh nhiều mặt hàng tương tự do nhiều
người sản xuất.
+ Kinh doanh rộng, tức là kinh doanh một chủng loại có nhiều mặt hàng có
liên quan với nhau
+ Kinh doanh hỗn hợp, mặt hàng kinh doanh bao gồm nhiều chủng loại khác
nhau
- Các doanh nghiệp tổ chức tạo ra nguồn hàng để đáp ứng thị trường. Nguồn
hàng là nơi đã và có khả năng cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho thị trường. Trong
hoạt động kinh doanh, mỗi nguồn hàng có vai trò và đặc điểm riêng của mình. Theo
phân cấp quản lý có nguồn hàng tập trung (từ cấp trên); nguồn hàng liên doanh liên
kết, nguồn làm đại lý, ủy thác, nguồn tự khai thác bằng các biện pháp khác nhau.
Theo tính chất của nguồn hàng bao gồm: nguồn trong nước; nguồn hàng
nhập khẩu; nguồn tồn kho ứ đọng chậm luân chuyển ở các đơn vị sản xuất lưu
thông; nguồn hàng kém phẩm chất phải qua tái chế, phục hồi; nguồn hàng trôi nổi
trên thị trường.
Mua hàng, tạo nguồn là toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguồn

hàng bảo đảm cho hoạt động kinh doanh ổn định, liên tục và có hiệu quả. Bao gồm:
+ Nghiên cứu nhu cầu cụ thể của khách hàng về khối lượng, cơ cấu mặt
hàng, quy cách chủng loại, thời gian, địa điểm và giá cả mà người tiêu dùng yêu
cầu.
+ Tìm hiểu khả năng sản xuất trong nước và thị trường nước ngoài để xác
định khả năng có thể mua được.
+ Lựa chọn thị trường, đối tác để lập đơn hàng và ký hợp đồng mua hàng.
+ Tổ chức tiếp nhận, vận chuyển và thanh toán.

7


Hoạt động mua hàng, tạo nguồn là một trong những nghiệp vụ kinh doanh cơ
bản. Thông qua công tác mua hàng, tạo nguồn mà góp phần tập trung hàng hoá thoả
mãn cung cầu trên thị trường; huy động mọi tiềm năng của đất nước, giảm nhập
khẩu, góp phần đắc lực vào phân công lao động quốc tế. Làm tốt công tác mua
hàng, tạo nguồn là đảm bảo cho sản xuất và kinh doanh liên tục, ổn định góp phần
nâng cao uy tín của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất và sự tiến bộ khoa
học kỹ thuật, góp phần tổ chức sản xuất một cách có quy hoạch theo chiến lược
nguồn hàng. Trong hoạt động kinh doanh, các hình thức mua hàng và tạo nguồn
phản ánh mối quan hệ mua bán và thanh toán giữa doanh nghiệp thương mại với
đơn vị bán hàng. Các hình thức mua hàng bao gồm: mua bán bình thường; mua theo đơn
đặt hàng, hợp đồng; đại lý bán hàng cho người sản xuất hoặc các hãng nước ngoài,
nhập khẩu hàng hoá.
Các hình thức tạo nguồn gồm: Đem lại nguyên liệu gia công thành phẩm;
bán nguyên liệu mua thành phẩm; liên doanh liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm; tự
sản xuất chế biến hàng hóa.
Một số biện pháp thực hiện mua hàng tạo nguồn:
+ Xây dựng chiến lược nguồn hàng của doanh nghiệp gồm cả sản xuất trong
nước, nhập khẩu và tự sản xuất chế biến.

+ Tạo nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá.
+ Xây dựng phương án khoán kinh doanh, phương án tạo nguồn làm cơ sở
cho thực hiện hoạt động nghiệp vụ.
+ Xây dựng mạng lưới mua hàng hợp lý phù hợp với đặc điểm hàng hoá với
vốn và cơ sở vật chất, với cạnh tranh của thị trường.
+ Thu thập thông tin về nguồn hàng.
1.2.2.3- Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại
Thực chất đây là hoạt động chắp mối trong kinh doanh nhằm giải quyết 3
vấn đề cơ bản sau:

8


+ Vấn đề kinh tế trong quan hệ mua bán, nó liên quan đến việc thoả thuận về
số lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả hàng hoá mua bán.
+ Vấn đề tổ chức trong quan hệ mua bán như hình thức vận chuyển hàng
hoá, phương thức giao nhận hàng hoá và thanh toán.
+ Vấn đề luật pháp: Liên quan đến việc ký kết hợp đồng mua bán.
1.2.2.4. Tổ chức hợp lý các kênh phân phối hàng hoá
Tổ chức chuyển giao hàng hoá về doanh nghiệp. Quá trình này liên quan đến
2 vấn đề lớn cần giải quyết là:
- Lựa chọn kênh phân phối hàng hoá, tức là lựa chọn cách vận động của hàng
hoá, dựa vào 4 nhân tố sau: khả năng của doanh nghiệp, thị trường, đặc điểm kỹ
thuật, hệ thống phân phối.
- Lựa chọn chuyển giao hàng hoá về doanh nghiệp.
Hiện nay có 2 phương pháp chủ yếu là chuyển giao tập trung và chuyển giao
phi tập trung.
1.2.2.5. Tổ chức quản lý hàng hoá
Xúc tiến mua bán hàng hoá và thực hiện các dịch vụ trong quá trình kinh
doanh hàng hoá đặc biệt là dịch vụ sau bán hàng.

Xúc tiến bán hàng:
+ Đối với người tiêu dùng nhiều hơn, mua với số lượng lớn hơn và mở ra
những khách hàng mới.
+ Đối với các thành viên trung gian: Khuyến khích lực lượng phân phối này
tăng cường hoạt động phân phối hơn, đẩy mạnh các hoạt động mua bán, củng cố và
mở rộng thêm các kênh phân phối, thực hiện dự trữ thị trường, phân phối thường
xuyên, liên tục nhằm mở rộng mùa vụ tiêu dùng cho sản phẩm hàng hoá.
Dịch vụ sau bán:
+ Dịch vụ vận chuyển tới tay người tiêu dùng
+ Giá cước vận chuyển.

9


+ Thời gian đáp ứng nhanh và giao nhận đầy đủ.
+ Khuyến mại.
+ Sửa chữa, bảo hành các thiết bị dùng gas.
1.3- Các mục tiêu của doanh nghiệp
Tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào đều có nghĩa là tập hợp các
phương tiện, con người và đưa họ vào hoạt động để tạo ra lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Với doanh nghiệp thương mại có 5 mục tiêu cơ bản sau:
1.3.1- Mục tiêu khách hàng
Mọi hoạt động của doanh nghiệp chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng,
doanh nghiệp càng đáp ứng tốt mọi yêu cầu của khách hàng, thì càng duy trì tốt
được quan hệ trao đổi kinh tế đó, doanh nghiệp ngày càng thu hút được nhiều
khách hàng thì doanh nghiệp thu được càng nhiều lợi nhuận. “Khách hàng là
thượng đế”, khách hàng là người mua quyết định thị trường, quyết định người bán,
là người trả lương cho công nhân trong doanh nghiệp, là người đặt ra yêu cầu và
tạo ra hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, khách hàng chỉ ưa thích hàng hoá, dịch vụ
có chất lượng cao, giá cả rẻ, phù hợp với khách hàng thì doanh nghiệp càng chiếm

lĩnh được thị trường.
1.3.2-Mục tiêu chất lượng
Sản phẩm kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp càng có chất lượng cao, giá
cả rẻ phù hợp với khách hàng thì doanh nghiệp càng chiếm lĩnh thị trường.
Xét chất lượng sản phẩm không chỉ xét một đặc tính nào đó một cách riêng
lẻ, phải xem xét trong mối quan hệ với các đặc tính khác, trọng một hệ thống các
đặc tính nội tại của sản phẩm.
1.3.3- Mục tiêu đổi mới
Đổi mới sản phẩm kinh doanh, mặt hàng kinh doanh và chất lượng phục vụ
khách hàng. Doanh nghiệp thực hiện kỹ thuật marketing tốt có sản phẩm mới hay

10


dịch vụ mới đưa ra thị trường đầu tiên thì doanh nghiệp có quyền thu được lợi
nhuận lớn nhất.
1.3.4- Mục tiêu cạnh tranh
Trong cơ chế thị trường, không có thế lực nào áp đặt sự độc quyền kinh
doanh cho bất kỳ ai. Vì vậy, cạnh tranh là tất yếu: cạnh tranh là quy luật của kinh tế
thị trường. Cạnh tranh làm giá cả thị trường giảm xuống thông qua cạnh tranh mà
buộc các doanh nghiệp phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm và giữ chữ tín với khách hàng.
1.3.5- Mục tiêu lợi nhuận
Là mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất, là mục tiêu thông suốt chi phối mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Nó là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả mọi hoạt
động của doanh nghiệp và cũng là liều thuốc trường sinh cho doanh nghiệp, thiếu
liều thuốc tự tạo này, doanh nghiệp không có cánh nào khác chống lại sự đào thải.
Như vậy, nói cách khác, kinh doanh là đầu tư công sức, tiền của để tổ chức
mọi hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đầu tư lao động, tiền vốn, của cải mà
không nhằm mục đích thu lợi nhuận thì không phải là kinh doanh.

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo đạt 3 mục đích cơ
bản:
- Trước hết, phải đạt lợi nhuận tối đa và hợp lý. Hợp lý để đảm bảo sự lâu dài
và kéo được khách hàng, giữ vững và phát triển được thị trường. Mỗi nhà kinh
doanh đều mong muốn đạt được tỷ lệ sinh lời hợp lý trên số vốn mà họ đã đầu tư.
Câu hỏi đặt ra là “Thế nào là hợp lý?”, mỗi nhà kinh doanh đều có những mong
muốn khác nhau về công việc kinh doanh của họ. Đồng thời không thể có hai công
việc kinh doanh hoàn toàn giống nhau. Thông thường, số lợi nhuận mà nhà kinh
doanh mong đợi thường lệ thuộc vào rủi ro có liên quan. Chẳng hạn, nếu gửi tiền
vào một tài khoản tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng, ông ta có thể nhận được 12%
tiền lãi/năm. Nhưng ông ta lại muốn thu được số lợi nhuận cao hơn trong một cuộc

11


kinh doanh có rủi ro, mà rủi ro cao thường đi đôi với mức lợi nhuận cao. Điều đó
có nghĩa là khi nhà kinh doanh sẵn sàng chấp nhận mọi sự thua lỗ thì ông ta cũng
hy vọng đạt được một tỷ lệ sinh lời cao. Chính động cơ lợi nhuận này đã khiến các
nhà phê bình chỉ trích các nhà kinh doanh rằng họ chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền
mà quên đi những nghĩa vụ của họ đối với xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các
áp lực thị trường về cung và cầu được tự do tác động qua lại và có rất nhiều cơ hội
làm ra lợi nhuận hợp lý. đồng thời cũng có nhiều nhà kinh doanh với sự ham thích
lợi nhuận, sẵn lòng đầu tư để cung ứng những hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho xã
hội.
- Thứ hai, phải đảm bảo độ an toàn cao, vì trong cơ chế thị trường, kinh
doanh chịu sự tác động của vô vàn nhân tố chủ quan, khách quan có những thuận
lợi nhưng cũng đầy những cạm bẫy và rủi ro. Do vậy, phải duy trì hoạt động của
doanh nghiệp trong hành lang an toàn.
- Thứ ba, phải củng cố, nâng cao được vị trí và thế lực của doanh nghiệp, thể
hiện bằng doanh số bán và phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được, bằng

uy tín đối với khách hàng, thế lực gián tiếp tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Cơ sở quyết định các mục đích này là các quy luật giá trị (Hàng hoá - tiền);
quan hệ thị trường và các quy luật của kinh tế thị trường (cạnh tranh, phá sản...);
quy luật lợi ích trong nền kinh tế thị trường. Để có thể thắng lợi mục tiêu kinh
doanh, các doanh nghiệp thương mại hoạt động trên thương trường phải tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Tìm kiếm được thị trường đang lên và chiếm lĩnh thị trường nhanh chóng.
+ Phải xác định được nhu cầu của khách hàng, của thị trường và tìm mọi
cách đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó.
+ Đầu tư vào tài năng và nguồn lực để tạo ra được nhiều giá trị về sản phẩm
và dịch vụ.

12


Muốn đạt được các mục tiêu trên, các doanh nghiệp thương mại phải thực
hiện nhiều biện pháp khác nhau như: Xây dựng mục tiêu và chiến lược kinh doanh
phù hợp với tình hình thị trường, nghiên cứu thị trường làm cơ sở xây dựng kế
hoạch hoạt động kinh doanh. Không ngừng hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh, tăng
tốc độ lưu chuyển hàng hoá. Cải tiến bộ máy kinh doanh, giảm chi phí kinh doanh
và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kinh doanh giỏi.
1.4. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.4.1. Quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Quan niệm thứ nhất: Theo Adam Smith và Ogiephri cho rằng: “Hiệu quả
kinh doanh là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng
hoá”.
Hiệu quả ở đây được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh
doanh. Quan điểm này khó giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do
tăng chi phí mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả có 2 mức
chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng hiệu quả.

Quan niệm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của hiệu quả và phần tăng thêm của chi phí”.
Quan niệm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số
giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”.
Hiệu quả kinh tế xã hội, chủ yếu được thẩm định bởi thị trường là tiêu chuẩn
cơ bản để xác định phương hướng hoạt động thương mại: Tuy vậy hiệu quả ấy là
gì? Như thế nào là có hiệu quả?... Vấn đề này chưa được giải quyết triệt để. Thật
khó mà đánh giá mức độ đạt được hiệu quả kinh doanh của một hoạt động thương
mại hay một doanh nghiệp kinh doanh thương mại khi mà bản thân phạm trù này
chưa được định rõ bản chất và biểu hiện của nó
1.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh

13


Hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu của kinh tế học vì các nguồn lực của
kinh tế là có hạn. Hiệu quả là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá kết qủa hoạt
động kinh doanh thương mại.
Trong quá trình đánh giá hiệu quả kinh doanh chúng ta cần quán triệt một số
quan điểm trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh. Bởi vì hiệu quả kinh doanh là
một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp. Nó không những liên quan đến nhiều yếu tố khác
nhau, mà còn phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố đó. Vì vậy để xem xét hiệu quả
kinh doanh trong doanh nghiệp cần phải nắm vững tiêu chuẩn hiệu quả và quán
triệt các quan điểm sau:
-Đảm bảo tính toàn diện và tính bộ phận trong quá trình nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
-Kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, tập thể và lợi ích xã hội.
-Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị, xã hội với nhiệm cvụ kinh tế
trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào mặt hiện vật lẫn mặt giá trị

của hàng hoá.
1.4.2.1. Chỉ tiêu tổng quát [1, tr38]
Hiệu quả kinh doanh là vấn đề phức tạp có quan hệ toàn bộ với các yếu tố
của quá trình kinh doanh. Vì vậy doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi
sử dụng có hiệu quả các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh một cách khoa học đòi hỏi phải xác định
được hệ thống chỉ tiêu phù hợp..
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp
M
HQ

=
Gv +F

Trong đó:

14


HQ: Hiệu quả kinh tế
M: Doanh thu
Gv: Trị giá vốn hàng hoá đã tiêu thụ
F: Chi phí đã bỏ ra để đạt doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh, có nghĩa là trong thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu
được bao nhiêu đồng doanh thu bán hàng trên 1 đồng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ trình độ sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp càng cao
1.4.2.2. Hệ thống các chỉ tiêu cụ thể [1, tr42]
Nhà quản trị phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh khả
sinh lợi hiện tại và dài hạn, sử dụng hiệu quả nguồn vốn, sức lao động và các nguồn

lực khác. Để đáng giá được hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thông
thường các nhà quản trị dựa vào hệ thống các chỉ tiêu sau:
* Tỷ suất lợi nhuận
LN

HQLN (Tỷ suất lợi nhuận)

=

* 100

M

Trong đó:
LN: tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu bán hàng thuần. Chỉ tiêu này
càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao.
Ngoài hai chỉ tiêu trên ta có thể sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng chi phí
LN
HQLN (Tỷ suất lợi nhuận)

=

Gv +F

15

* 100



Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận doanh nghiệp thu được trên 1 đồng chi phí bỏ
ra.
* Hiệu quả sử dụng chi phí
M
HQ(f) =
F

Trong đó: HQ(f) là hiệu quả sử dụng chi phí
Chỉ tiêu này phản ánh mức doanh thu đạt được trên 1 đồng chi phí. Đây là
chỉ tiêu thuận nghĩa là HQ (f) càng cao thì hiệu quả sử dụng lao động sử dụng lao
động càng cao.
Hiệu quả sử dụng chi phí có thể đo lường bằng chỉ tiêu tỷ suất chi phí.
Ta có :

F
F’

=

*100
M

Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng chi phí.
Dây là chỉ tiêu nghịch đảo, có nghĩa là tỷ suất chi phí càng cao thì hiệu quả sử dụng
chi phí càng thấp và ngược lại.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng


=

Vốn cố định bình quân

vốn cố định

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu thuần trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ

Lợi nhuận thuần
=

Vốn cố định bình quân

16


Chỉ tiêu phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trước thuế.
* Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Sức sinh lợi của vốn lưu động phản ánh một đồng vốn lưu động làm ra mấy
đồng lãi ròng trong kỳ. Ta có thể so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc, nếu sức sinh
lợi vốn cố định tăng lên thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng chung tăng lên hoặc ngược
lại.

Lợi nhuận thuần
Sức sinh lời của VLĐ

=


Vốn lưu động bình
quân

Phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng,
thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (Dự trữ - sản xuất – tiêu
thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu
cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác
định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu
sau:

Doanh thu thuần
Số vòng quay của VLĐ

=

Vốn lưu động bình
quân

Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu đông quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại.
Chỉ tiêu này còn được chỉ số luân chuyển
Thời gian 1 kỳ phân tích
Thời gian 1 vòng luân
chuyển

=

Số vòng quay của VLĐ


Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng.
Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng
lớn.

17


Ngoài hai chỉ tiêu trên, khi phân tích còn có thể tính ra chỉ tiêu “ Hệ số đảm
nhiệm của vốn lưu động”. Hệ số này càng nhỏ thể hiện hiệu quả sử dụng vốn càng
cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Qua chỉ tiêu này ta biết được: để có một
đồng luân chuyển thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động
VLĐ bình quân
Hệ số đảm nhiệm VLĐ

=

Doanh thu thuần

1.4.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Các doanh nghiệp h

iện nay đều quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả sản

xuất kinh doanh, vì gắn liền với mục tiêu kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Nó quyết
định sự tồn tại và phát triển của cả một doanh nghiệp. Nếu chỉ xác định mục tiêu tồn
tại, doanh nghiệp chỉ cần quan tâm đến việc bán hàng đủ để trang trải các khoản chi
phí bỏ ra. Còn nếu muốn phát triển thì doanh nghiệp luôn phải tính đến việc thu được
kết quả cao hơn nhiều so với chi phí bỏ ra. Phần thưởng của doanh nghiệp có thể được
tích lũy để tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh hơn nữa. Do vậy doanh nghiệp luôn

tìm mọi cách để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của mình.
Mặc dù vậy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại chịu sự tác động của
các yếu tố môi trường bên trong và bên ngoài. Cho nên bài toán đặt ra là doanh nghiệp
phải giải quyết được tổng thể các vấn đề ảnh hưởng bằng các biện pháp hữu hiệu.
Doanh nghiệp phải dựa trên các yếu tố cơ bản trong kinh doanh trước khi xem xét đến
việc đưa ra quyết định điều chỉnh lại hoạt động. Những vấn đề này có thể là :
+ Nghiên cứu và hiểu nhu cầu thị trường, đánh giá khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp. Từ đó đề xuất chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp.
+ Tổng hợp được các yếu tố ảnh hưởng từ đầu vào đến các yếu tố đầu ra. Đây là
căn cứ quan trọng để nâng cao chất lượng, hạ giá thành, giảm chi phí cho doanh
nghiệp.

18


+ Tổ chức điều hành hoạt động bán sản phẩm nhằm đạt khối lượng lớn nhất,
doanh thu cao nhất.
Qua những nội dung trên có thể thấy nhiệm vụ mà doanh nghiệp cần thực hiện
để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh gồm:
+ Áp dụng các biện pháp nhằm tăng kết quả sản xuất kinh doanh cả về số lượng
và giá trị của sản phẩm.
+ Rà soát, cắt giảm các chi phí một cách khoa học, hợp lý nhằm giảm gánh
nặng chung lên tổng chi phí.
+ Tìm cách tăng năng suất sản xuất bằng việc tiết kiệm thời gian sản xuất tính
trên đơn vị sản phẩm.
Cụ thể hóa những nhiệm vụ trên sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các biện pháp
cắt giảm chi phí. Sau đây là những chỉ tiêu chúng ta cần quan tâm khi áp dụng các
biện pháp:
- Giá tăng sản lượng sản phẩm sản xuất, điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm
được chi phí cố định tính trên 1 đơn vị sản phẩm.

Về mặt lý thuyết hàm tổng chi phí trong ngắn hạn chính là hàm tuyến tính được
tính theo công thức sau.
TC = FC + Q. AVC
Đây là hàm có dạng hypecbol (nghĩa là chi phí sẽ giảm dần theo sản lượng):
Vậy chỉ khi công suất sản xuất của doanh nghiệp đạt mức tối đa thì mức sản
lượng mới đạt mức cao nhất. Nhưng vấn đề là khi sản xuất ở mức này thì liệu có bán
được hết số lượng sản xuất ra hay không vì điều này phụ thuộc vào nhu cầu tiêu thụ
trên thị trường. Vì vậy việc định ra mức giá hợp lý để thị trường chấp nhận lại là một
bài toán khác, hoặc doanh nghiệp lại phải sử dụng đến các công cụ khác của hoạt động
Marketing như quảng cáo, khuyến mại…
Như vậy doanh nghiệp có thể áp dụng các cách sau:
+ Sử dụng nhiều loại hình quảng cáo.

19


+ Phát triển mạng lưới đại lý và các cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
+ Thực hiện kinh doanh tổng hợp.
+ Nâng cao về mặt chất lượng của sản phẩm.
+ Giảm giá thành từ đó giảm giá bán.
+ Nâng cao chất lượng, tạo thêm các dịch vụ cho khâu bán hàng.
+ Quan tâm tới các dịch vụ sau bán.
Bên cạnh việc gia tăng doanh số bán thì doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới
việc tiết kiệm chi phí thông qua các biện pháp:
+ Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.
+ Đưa ra các sáng kiến cải tiến tổ chức sản xuất và tổ chức lao động.
+ Áp dụng các mô hình quản lý hiện đại trong doanh nghiệp.

20



CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN KINH DOANH VÀ DỊCH VỤ VẬT TƯ KỸ THUẬT SỐ 1
2.1. Giới thiệu chung về công ty cổ phần và kinh doanh vật tư kỹ thuật
số 1
2.1.1. Quá trình và phát triển của công ty
Công ty cổ phần kinh doanh và vật tư kỹ thuật số 1 được thành lập vào ngày
1/4/2004 theo giấy phép đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch đầu tư TP Hải
Phòng, mã số 0200581513. Đến ngày 17/12/2010 công ty bổ sung lĩnh vực ngành
nghề kinh doanh và có tên chính thức là Công ty cổ phần và kinh doanh vật tư kỹ
thuật số 1. Tên giao dịch là TECTRAJSCO – N01. Địa điểm kinh doanh tại số 10B
Chợ Con, phường Trại Cau, quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng. Tổng số vốn ban
đầu khi thành lập là 9.890.000.000 đồng. Lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh chủ yếu
của công ty là:
- Kinh doanh dịch vụ hàng kim khí, thư liệu, phế liệu, vật tư máy móc,
phương tiện vận tải, hàng dân dụng, vật liệu xây dựng, ô tô, xe máy.
- Kinh doanh dịch vụ sản xuất gia công các sản phẩm, bán thành phẩm hàng
kim khí, hóa chất, thiết bị, phụ tùng, điện tử, điện lạnh, điện máy;
- Dịch vụ xuất nhập khẩu;
- Dịch vụ giao nhận hàng hóa;
- Xây lắp công trình công nghiệp và dân dụng;
- Vận tải và dịch vụ vận tải hàng hóa thủy bộ.
Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc của công ty là ông Lê Đức Hậu, chịu trách
nhiệm quản lý và điều hành chung mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Khởi đầu là một doanh nghiệp nhỏ, có số vốn điều lệ niêm yết khoảng gần 10 tỷ
đồng, có số lao động là 50 người, đến nay công ty đã từng bước khẳng định mình

21



trên thị trường Hải Phòng về lĩnh vực kinh doanh vật tư kỹ thuật cho các doanh
nghiệp trong và ngoài nước.
Trong giai đoạn đầu khi thành lập, công ty gặp nhiều rất nhiều khó khăn
trong hoạt động kinh doanh. Vì là một doanh nghiệp mới, với số vốn nhỏ, uy tín
trên thị trường chưa cao. Tuy nhiên, bằng nỗ lực của toàn bộ đội ngũ nhân viên và
sự quản lý của giám đốc Lê Đức Hậu, doanh nghiệp đã dần đi vào ổn định, có
nhiều khách hàng hơn và thị trường ngày càng được mở rộng hơn.
Những năm gần đây khi kinh tế đã phục hồi thì hoạt động kinh doanh đã có
nhiều biến chuyển. Công ty đã từng bước khẳng định về uy tín, thương hiệu, sản
phẩm ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Theo như ông Hậu, định
hướng của doanh nghiệp là phát triển dựa trên nền tảng “uy tín là vàng”, do đó tạo
được sự tin cậy của khách hàng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của TECTRAJSCO
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức
BAN
GIÁM ĐỐC

PHÒNG

PHÒNG

PHÒNG

KỸ THUẬT

KINH DOANH

KẾ TOÁN-TÀI VỤ


PHÂN XƯỞNG
CƠ KHÍ

PHÂN XƯỞNG
SƠN

PHÒNG KCS

Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty

22

KHO HÀNG


2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ các phòng ban
* Phòng kỹ thuật:
Là bộ phận chịu trách nhiệm thiết kế, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm,
quy trình công nghệ của công ty. Dựa vào các hợp đồng kinh tế, các bản vẽ thiết kế
điều hành tổ chức thiết kế, lập quy trình sản xuất, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của
sản phẩm, phù hợp với trang thiết bị của doanh nghiệp, xây dựng định mức vật tư
cho từng loại sản phẩm sản xuất trong kỳ. Tham mưu cho lãnh đạo về phương
hướng duy trì, đẩy mạnh, phát triển công tác khoa học quản lý công nghệ, phục vụ
cho mục tiêu sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng tốt hơn.
* Phòng kinh doanh:
Là bộ phận hoạch định các kế hoạch, phương án kinh doanh của công ty,
nghiên cứu tham mưu cho ban giám đốc trong việc mở rộng các hoạt động kinh
doanh trong công ty một cách hiệu quả đồng thời nghiên cứu tư vấn thị trường,
đánh giá các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
* Phòng kế toán tài vụ:

Là bộ phận chịu trách nhiệm trong công tác quản lý tài chính, hạch toán kế
toán, quản lý nhân sự, tiền lương, tiền thưởng đồng thời phối hợp với phòng kinh
doanh, phòng kỹ thuật và các tổ chức có liên quan trong việc phân tích, tìm ra các
biện pháp kịp thời và hợp lý trong việc kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty.
* Phân xưởng cơ khí:
Chịu trách nhiệm trong việc gia công cắt gọt, chấn, gấp, hàn…kim loại tạo
nên các bộ phận của sản phẩm sao cho đúng quy trình công nghệ, thiết kế, hoàn
thành đúng tiến độ được giao.

23


* Phân xưởng sơn:
Chịu trách nhiệm sơn tĩnh điện và lắp ráp hoàn thiện các sản phẩm của công
ty và nhận làm hàng sơn thuê từ bên ngoài để tạo thêm doanh thu cho công ty.
* Phòng KCS:
Đặt ra các tiêu chuẩn về quy trình sản xuất và theo dõi, kiểm tra chất lượng
sản phẩm từ khâu gia công chế tạo đến bao gói sản phẩm để đảm bảo hàng xuất
xưởng đạt yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm.
* Kho hàng:
Bảo quản và cung ứng nguyên vật liệu, dụng cụ; đáp ứng giao hàng cho các
xưởng; xuất nhập hàng hóa ra vào công ty theo đúng quy định của công ty.
Nhìn chung, mỗi phòng ban trong công ty đều có những chức năng và nhiệm
vụ cụ thể. Mỗi phòng ban đều tập trung thực hiện những nhiệm vụ chính của mình
và kết hợp với các phòng ban chức năng khác thực hiện các kế hoạch chung của
toàn công ty.
Với cơ cấu tổ chức này, giám đốc điều hành doanh nghiệp được sự trợ giúp
của các bộ phận chức năng để chuẩn bị các quyết định, theo dõi kiểm tra việc thực
hiện các quyết định, đồng thời có toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm về

mọi mặt lãnh đạo các công việc trong Công ty
2.1.3 Tình hình các nguồn lực cơ bản của công ty
2.1.3.1. Về đội ngũ lao động
Đây được coi là nhân tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hiện
tại doanh nghiệp phân loại theo 2 nhóm là:

24


-Lao động quản lý: bao gồm những người làm công tác quản lý sản xuất kinh
doanh. Họ là cầu nối để nối liền các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
thành một khối thống nhất.
-Lao động trực tiếp sản xuất: Là doanh nghiệp vật tư kỹ thuật nên lao động
trực tiếp sản xuất đa số là nam, chỉ có một số ít nữ ở các bộ phận hỗ trợ. Công ty có
lực lượng công nhân có trình độ tay nghề cao, phần lớn được học qua các trường
công nhân kỹ thuật. Để tiết kiệm chi phí đối với những công việc đơn giản công ty
vẫn sử dụng những lao động chưa qua đào tạo nhưng có sức khoẻ và gắn bó với
công ty, phần lớn số này đều học hết phổ thông trung học, trong quá trình làm việc
công ty rất chú ý kèm cặp để họ rèn dũa tay nghề, nâng cao trình độ dần trở thành
những công nhân thạo việc
Bảng 2.1. Tình hình lao động của công ty từ 2011-2015
STT

Chỉ tiêu

ĐVT

2011

2012


2013

1

Tổng số lao động

Người

80

82

95

105

106

2

Lao động trực tiếp
Số người

Người

62

64


76

84

85

Tỷ trọng

%

77,5

78

80

80

80,2

Số người

Người

18

18

19


21

21

Tỷ trọng

%

22,5

22

20

20

19,8

3

2014 2015

Lao động gián tiếp

Nguồn: Tài liệu nội bộ công ty
Trong những năm gần đây, công ty rất chú trọng tới việc đầu tư cho nhân lực.
Tỷ lệ giữa công nhân sản xuất trực tiếp và gián tiếp càng hợp lý, hiện tỷ lệ này tại
công ty là 20% quản lý và 80% nhân viên. Trình độ của người lao động ngày càng
được nâng cao, do công ty đã đầu tư đúng mức cho việc phát triển và đào tạo nguồn


25


×