Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Nghiên cứu hiệu quả điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp nut động mạch tuyến tiền liệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 105 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (LTTTL) thường bắt đầu vào độ tuổi
trung niên ở người đàn ông. Ở Việt Nam theo Trần Đức Thọ có tới 86% nam
giới mắc tăng sản lành tính tuyến tiền liệt ở độ tuổi 81-90 [1]. Trên thế giới
theo Rubenstein có khoảng 50% nam giới từ 50 tuổi bị tăng sản lành tính
tuyến tiền liệt, tỷ lệ này lên đến 75% ở những người 80 tuổi [2].
Bệnh tiển triển từ từ, thường gây ra triệu chứng sau 50 tuổi. Tăng sản lành
tính tuyến tiền liệt gây ra rối loạn tiểu tiện kích thích và tắc nghẽn đường tiểu,
cùng các biến chứng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân.
Có rất nhiều vấn đề đặt ra trong chẩn đoán và xử trí tăng sản lành
tính tuyến tiền liệt đặc biệt là ở những người cao tuổi, những người có các
bệnh lý mạn tính hay cấp tính kèm theo.
Ngày nay nhiều bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt không
muốn phẫu thuật vì nhiều lý do như phẫu thuật có thể gây các biến chứng
như: bí tiểu, tiểu máu, viêm đường tiết niệu, thời gian nằm viện dài, thời gian
tái phát tương đối ngắn, đặc biệt có thể gây xuất tinh ngược, rối loạn cương
dương [3].
Cùng với sự tiến bộ của khoa học ngày càng có nhiều phương pháp
điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt trong đó có phương pháp nút động
mạch tuyến tiền liệt làm tuyến tiền liệt không được nuôi dưỡng và nhỏ đi,
giảm hoặc mất các triệu chứng lâm sàng giúp cải thiện và nâng cao chất lượng
cuộc sống cho bệnh nhân.


2

Trên thế giới, năm 2000 Carnevale và cộng sự (tại Brazil) đã thực hiện
kỹ thuật nút động mạch tiền liệt tuyến trong điều trị tăng sản lành tính tuyến


tiền liệt và đưa lại kết quả khả quan. Sau đó phương pháp này đã được áp
dụng tại Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc,… Ở Việt Nam, chưa thực hiện cũng
như chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
“Nghiên cứu hiệu quả điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt bằng
phương pháp nút động mạch tuyến tiền liệt” với các mục tiêu sau:
1.

Mô tả phân tích kỹ thuật điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt
bằng phương pháp can thiệp nội mạch.

2.

Bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt
bằng phương pháp can thiệp nội mạch.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LỆU
1.1. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU, CHỨC NĂNG TUYẾN TIỀN LIỆT
1.1.1. Giải phẫu học

Hình 1.1: Giải phẫu tuyến tiền liệt
(Nguồn: Frank H.Neter.MD; ATLAS giải phẫu người; Tr 373)

TTL là một tuyến nằm trên hoành chậu hông, dưới bàng quang sau
xương mu, giữa hai cơ nâng hậu môn, trước trực tràng và bọc xung quanh
niệu đạo sau. TTL hình nón, đáy ở trên, đỉnh ở dưới, phía sau bờ dưới khớp
mu khoảng 15mm, có 4 mặt: mặt trước, mặt sau, mặt dưới phải và dưới trái.

Theo mô tả giải phẫu kinh điển TTL được chia thành 3 thuỳ là thuỳ phải, thuỳ
trái và ngăn cách với nhau bởi một thuỳ thứ 3 gọi là eo TTL hay thuỳ giữa.
Trọng lượng trung bình ở người lớn tuyến nặng 15-25g. Khái niệm này có thể
hữu ích trong đánh giá bệnh nhân tăng sản LTTTL [4].
McNeal đã phân chia TTL thành các vùng ngoại biên, vùng chuyển
tiếp, vùng trung tâm, vùng tuyến quanh niệu đạo [5].


4

Vùng ngoại biên là vùng lớn nhất chứa khoảng 70% mô tuyến và là
nguồn gốc của phần lớn ung thư TTL. Vùng này bao quanh đoạn xa niệu đạo,
chiếm vùng sau, bên và đỉnh của TTL.
Vùng chuyển tiếp: ở người bình thường chứa khoảng 5% mô tuyến tiền
liệt. Nó hiện diện lên dưới dạng hai vùng tuyến nhỏ nằm cạnh niệu đạo đoạn
gần. Đây là vị trí phát sinh tăng sản LTTTL. Nghiên cứu của Aaranink René
và cộng sự cho thấy có sự liên quan rất chặt chẽ (r = 0,921) giữa thể tích quá
sản TTL với gia tăng số lượng mô vùng chuyển tiếp [6]. Kết quả cũng tương
tự với nghiên cứu của Aus. G. và cộng sự trên 159 trường hợp tăng sản
LTTTL, với hệ số r = 0,91 [7].
Vùng trung tâm chiếm khoảng 25% mô tuyến, nằm ở vùng đáy TTL.
Những ống dẫn tinh, túi tinh đi vào trung tâm và ống phóng tinh đi xuyên qua
nó. Vùng này tương đối đề kháng với quá trình bệnh lý và chỉ là nơi phát sinh
của 5% ung thư TTL.
Vùng tuyến quanh niệu đạo chiếm khoảng 1% thể tích tuyến. Chúng
bám theo cơ dọc của niệu đạo gần, cũng được coi là cơ thắt trong TLT [5].
1.1.2 Giải phẫu mạch máu
a. Động mạch cấp máu cho tuyến tiền liệt
* Các kiểu phân chia động mạch chậu trong
Các động mạch chính để xác định cách phân chia động mạch trong là:

động mạch mông trên, động mạch mông dưới, động mạch thẹn trong. Ba
động mạch này dùng để phân loại các cách chia nhánh của động mạch chậu
trong [8].
Nhóm A (được tìm thấy khoảng 60% bên khung chậu) chia làm hai
nhánh chính: động mạch mông trên (nhánh sau) và thân chung của động mạch
mông dưới với động mạch thẹn trong (nhánh trước).


5

Nhóm B (khoảng 30% bên khung chậu): nhánh sau lớn hơn vì nó tách
ra động mạch mông trên và động mạch mông dưới, nhánh trước nhỏ hơn chỉ
tách ra động mạch thẹn trong.
Nhóm C (khoảng 10% bên khung chậu): 3 nhánh động mạch mông
trên, động mạch mông dưới và động mạch thẹn trong tách độc lập.
Nhóm D (rất hiếm): động mạch mông trên và động mạch thẹn trong
cùng tách ra từ một nhánh, còn động mạch mông dưới thì tách riêng.
Động mạch mông trên có hình cong lõm lên trên, sau khi đi qua lỗ ngồi
lớn, sẽ đi ra sau, trước khi vào vùng mông trên sẽ tách ra một số nhánh nhỏ
cho cơ. Động mạch mông dưới là nhánh lớn thứ hai, kết thúc ở mặt dưới của
mông, nó tách ra một số nhánh cho cơ. Động mạch thẹn trong thường nhỏ, có
thể có những mảng xơ vữa vôi hóa lớn ở những người bệnh cao tuổi. Nó có
đặc điểm điển hình là uốn cong một góc gần 90 độ khi đi ra và vào lại tiểu
khung (đi qua màng của cơ lỗ bịt). Sau đó đi theo quỹ đạo thẳng, bàng hệ với
một số nhánh của vùng đáy chậu trước khi kết thúc bằng động mạch của
dương vật.

Hình 1.2 Các kiểu phân chia động mạch chậu trong [8]
A. Phân chia động mạch chậu trong nhóm A
B. Phân chia động mạch chậu trong nhóm B

C. Phân chia động mạch chậu trong nhóm C


6

* Động mạch tuyến tiền liệt
TTL có giàu nguồn cấp máu. Động mạch tuyến tiền liệt rất thay đổi: từ
số lượng động mạch tuyến tiền liệt đến vị trí xuất phát giữa các bệnh nhân và
giữa các bên khung chậu trên một bệnh nhân. Theo Clegg EJ, khi nghiên cứu
21 bên khung chậu trên tử thi, động mạch TTL gồm hai phần: phần đầu đi
giữa phần đáy bàng quang và TTL, phần đuôi xuất phát thấp hơn và liên quan
với động mạch trực tràng giữa [9], [[9, 10]. Sau khi vào vỏ của TTL, các phần
này chia ra làm 4 nhánh: 2 nhánh trước và bên của phần đầu, 2 nhánh sau và
bên của phần đuôi. Theo Tiago Bilhim và cộng sự, khi nghiên cứu 214 động
mạch TTL (của 75 bệnh nhân) chỉ có 73 động mạch TTL (chiếm 34,1%) tách
ra từ động mạch thẹn trong, có 43 động mạch TTL (chiếm 20,1%) tách ra từ
động mạch bàng quang, có 38 động mạch TTL (chiếm 17,8%) tách ra từ
nhánh trước của động mạch chậu trong [11]. Nghiên cứu cho thấy đường kính
của động mạch TTL 1,6 ± 0,3mm, không có mối liên hệ nào giữa đường kính
của động mạch TTL với thể tích TTL, với tuổi bệnh nhân và hàm lượng PSA
huyết thanh.
Cũng theo Tiago Bilhim, khoảng 60% bên khung chậu chỉ có một động
mạch TTL, 40% bên khung chậu có 2 động mạch TTL. Động mạch TTL có
kích thước nhỏ khoảng dao động từ 1mm đến 2mm, không phụ thuộc vào
thể tích TTL, tuy nhiên nó phụ thuộc vào số động mạch TTL mỗi bên
khung chậu: các bệnh nhân với 1 động mạch TTL có đường kính động
mạch lớn hơn (khoảng 2mm), các bệnh nhân với 2 động mạch TTL có
đường kính nhỏ hơn (khoảng 1mm) [12]. Động mạch TTL thường tách ra
từ động mạch thẹn trong (khoảng 35%), từ thân chung với động mạch bàng
quang trên (20%), từ thân chung động mạch mông – sinh dục (comon

anterior gluteal – pudendal truck) (15%), từ động mạch bịt (10%), từ thân


7

chung động mạch TTL – trực tràng (10%). Động mạch TTL có thể tách ra
từ các nhánh khác nhưng hiếm hơn đó là: động mạch mông dưới, động
mạch mông trên, hoặc từ động mạch sinh dục phụ.
Nếu có 2 động mạch TTL riêng biệt: một cuống tách ra ở trên (cuống
động mạch trước bên), thường tách ra ở thân động mạch mông-sinh dục trước
(the common anterior gluteal-pudendal trunk), cuống này liên quan chặt chẽ
với động mạch bàng quang trên. Cuống động mạch sau bên tách ra ở dưới,
thường từ động mạch thẹn trong và động mạch bịt, liên quan với động mạch
trực tràng. Trên thực tế chỉ cần gây tắc một trong hai nhánh trên là đủ vì
chúng thường thông với nhau bên trong tuyến. Cuống động mạch trước bên
cung cấp máu cho trung tâm tuyến và các nốt tăng sản, cho nên được ưu tiên
gây tắc. Cuống động mạch sau bên cung cấp máu cho vùng ngoại vi, cuống
này được thực hiện gây tắc khi cuống trước bên không thể vào được.
Cuống động mạch trước bên thường khó vào vì chúng thường tách ra từ
động mạch bàng quang trên với góc hẹp và mạch máu ngoằn ngoèo. Các
mảng xơ vữa gần lỗ vào động mạch TTL gây khó khăn cho việc tiếp cận
động mạch này. Cuống sau bên thường dễ vào hơn vì nó tách ra riêng với
động mạch bàng quang.

Hình 1.3 Động mạch tuyến tiền liệt [12]
Hình A: Bên khung chậu có 2 động mạch tuyến tiền liệt
Hình B: Bên khung chậu có 1 động mạch tuyến tiền liệt


8


Nếu có một động mạch TTL, thường nó sẽ tách ra độc lập với động
mạch bàng quang (từ động mạch thẹn trong, động mạch bịt, hoặc nhánh trước
của thân chung động mạch mông-sinh dục) và sau đó có độ dài thay đổi, nó sẽ
chia thành 2 cuống trước bên và sau bên. Trong trường hợp này thì nên gây
tắc trước vị trí chia hai nhánh. Lên đến 60% các trường hợp có sự bàng hệ với
các nhánh TTL và với các động mạch xung quanh như: động mạch thẹn trong,
động mạch đối bên TTL, cùng bên TTL, với động mạch trực tràng, động
mạch bàng quang.
b. Tĩnh mạch
Tĩnh mạch TTL đi ra từ tĩnh mạch của vỏ, các tĩnh mạch này được dẫn
lưu từ đám rối Santorini và kết thúc bởi sự tỏa ra trong tĩnh mạch bàng quang
cuối cùng đổ vào tĩnh mạch chậu trong.
c. Thần kinh, bạch huyết
Bó thần kinh-mạch máu nằm phía sau-bên tương ứng vị trí 5 và 7
giờ, bao gồm các nhánh động mạch, tĩnh mạch và thần kinh chủ yếu đi đến
dương vật. Hệ thống bạch huyết của TTL hướng về đám rối bạch huyết
quanh TTL được dẫn về 4 cuống: cuống chậu ngoài, một cuống hạ vị,
cuống sau về hạch gốc đốt sống cùng và cuống dưới về hạch nằm dọc theo
động mạch thẹn trong.
1.1.3. Chức năng của tuyến tiền liệt
TTL là một trong ba tuyến sinh dục phụ của nam giới. TTL tiết ra dịch
trong đục với PH ~ 6,5. Độ PH kiềm hơn dịch âm đạo của dịch TTL, đóng vai
trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng và bảo vệ tinh trùng cho đến khi thụ
thai. Lượng dịch do tuyến tiết ra chiếm khoảng 30% thể tích tinh dịch phóng
ra mỗi lần giao hợp. Dịch TTL chứa nhiều acid citric, ion Ca²+, nhiều loại
enzym, prostaglandin [13].


9


1.2. TỔNG QUAN VỀ BỆNH LÝ TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN
TIỀN LIỆT
U xơ tuyến tiền liệt là cách gọi quen thuộc mà các nhà lâm sàng ngoại
khoa thường gọi đối với bệnh lý tăng sản LTTTL. Tăng sản LTTTL chính là
sự tăng kích thước, thay đổi hình thái TTL và khi quan sát đại thể tăng sản
LTTTL cho thấy hình ảnh của những dải xơ chiếm ưu thế [13], [14]. Nghiên
cứu của Ishigooka Manabu và những cộng sự cho thấy ở những bệnh nhân
tăng sản LTTTL khối lượng gia tăng TTL liên quan rất chặt chẽ đến sự gia
tăng khối lượng và số lượng của mô xơ (r = 0,970), trong khi đó đối với mô
cơ lại có sự tương quan nghịch (r = - 0,488) [15].
Những thập niên gần đây, sự phát triển của mô bệnh học đã cho thấy
bản chất của bệnh lý tăng sản LTTTL ngoài những dải xơ còn có sự tăng sản
của tế bào tuyến và mô đệm. Vì thế tăng sản LTTTL thường được dùng với
các thuật ngữ như quá sản TTL (benign prostatic hyperplasia) hay phì đại lành
tính TTL (benign prostatic hypertrophy) hay tăng sinh LTTTL [13], [16],
[17]. Hiện nay thuật ngữ chính thức của tăng kích thước tuyến tiền liệt là tăng
sản LTTTL (benign prostatic hyperplasia).
1.2.1. Dịch tễ học
Isaacs J. T. và Coffey D. S. đã nghiên cứu trên 10.000 đàn ông trên 40
tuổi ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ về độ tuổi có liên quan đến tăng sản
LTTTL nhận thấy tuổi càng cao tỷ lệ bệnh càng tăng, 50% trên 60 tuổi và đạt
đỉnh 100% ở tuổi 80 bị tăng sản LTTTL [14]. Trong đó khoảng 50% cần phải
điều trị phẫu thuật [14], [15].
Ở Việt Nam, Trần Văn Sáng và cộng sự qua xây dựng phác đồ điều trị
TTL trên 796 trường hợp, tuổi trung bình là 72, 100% có chỉ định điều trị có
độ tuổi trên 60 [18]; Nguyễn Phú Việt, Nguyễn Đức Trung và cộng sự nghiên


10


cứu ở 467 bệnh nhân tăng sản LTTTL từ năm 1999-2002 tại Bệnh viện 103
thì tuổi vào viện điều trị từ 54-90 tuổi, trung bình là 69 tuổi [19].
1.2.2. Bệnh sinh
Có nhiều giả thuyết để giải thích bệnh nguyên của tăng sản LTTTL
nhưng hiện nay một số các yếu tố chính sau đây được nhiều tác giả xem là có
liên quan đến bệnh lý tăng sản LTTTL:
Tuổi già là yếu tố được đề cập trước hết. Tăng sản LTTTL thường bắt
đầu xuất hiện ở tuổi trên 40 và có sự liên quan chặt chẽ giữa tuổi và bệnh lý
tăng sản LTTTL [20]. Bệnh nhân thường có những triệu chứng lâm sàng khi
trên 55 tuổi, với đỉnh cao là 65-75 tuổi [21].
Vai trò của tinh hoàn và giả thuyết hormon với vai trò của
Dihydrotestosteron (DHT) và vai trò của đồng vận estrogen/androgen.
Yếu tố tăng trưởng peptid như EGF (Epiderman Growth Facter), KGF
(Keratin Growth Facter), FGF (Fibroblast Growth Facter) [13], [16], [22].
1.2.3. Thời gian mắc bệnh
Tăng sản LTTTL là bệnh tiến triển chậm và âm thầm. Thời điểm bắt
đầu có những triệu chứng khó tiểu nhẹ cho đến khi các triệu chứng trở nên rõ
ràng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách quan: quá trình tiến
triển của bệnh, vị trí của tăng sản LTTTL, sự xuất hiện của các biến chứng và
sự thích ứng của cơ thể bệnh nhân [23], [16], [24].
Theo nghiên cứu của Lý Văn Quảng trên 44 bệnh nhân tăng sản
LTTTL, thời gian mắc bệnh đến khi vào viện trong khoảng từ 1 đến 3 năm là
hay gặp nhất. Trong đó lý do vào viện là vì các biến chứng như bí tiểu cấp
hay nhiễm trùng đường tiết niệu [25].


11

1.2.4. Đặc điểm sinh lý bệnh ảnh hưởng của tăng sản lành tính tuyến tiền liệt

1.2.4.1. Ảnh hưởng của tăng sản lành tính tuyến tiền liệt lên bàng quang
Tăng sản LTTTL gây nên hội chứng tắc nghẽn đường tiểu dưới, làm
bàng quang tăng cường co bóp. Người ta chia sự đáp ứng của bàng quang làm
3 giai đoạn:
Giai đoạn kích thích: bàng quang chống lại sự tắc nghẽn của tăng sản
LTTTL trở thành bàng quang chống đối. Cơ bàng quang bắt đầu tăng sản, các
thớ cơ phì đại tạo thành các bè.
Giai đoạn bù trừ: thành bàng quang xuất hiện những hốc giữa các thớ cơ.
Giai đoạn mất bù: đã có những thay đổi trầm trọng ở thành bàng quang.
Từ các hốc nhỏ ở giai đoạn trước đã trở thành các túi thừa ở thành bàng
quang. Cơ vùng tam giác bàng quang và quanh chóp niệu đạo bắt đầu phì đại.
Bàng quang giãn, trương lực bàng quang giảm đáng kể, chức năng bài xuất
nước tiểu của bàng quang suy yếu một cách trầm trọng [16], [13], [26].
Thường giai đoạn đầu chỉ có triệu chứng cơ năng như tiểu không kiểm
soát, tiểu rắt và sự thay đổi về mặt hình thái học trên siêu âm không đặc hiệu.
Giai đoạn sau xuất hiện các triệu chứng như tiểu khó, tiểu rắt, tia tiểu yếu, tiểu
ngắt quãng, hay tiểu máu và bắt đầu có sự thay đổi rõ rệt hình thái, chức năng
của bàng quang trên siêu âm với những biểu hiện như thành bàng quang dày,
thể tích nước tiểu tồn lưu tăng, có các biến chứng như sỏi, túi thừa bàng
quang [16], [26], [27], [28].
1.2.4.2. Ảnh hưởng lên hệ tiết niệu trên
Sự gia tăng áp lực mạn tính trong lòng bàng quang cùng với sự suy giảm
trương lực cơ bàng quang gây ra sự trào ngược nước tiểu, hậu quả làm giãn niệu
quản và cuối cùng là giãn đài bể thận. Chính sự tắc nghẽn này và kết hợp với
những đợt nhiễm trùng tiết niệu sẽ đưa đến suy thận mạn [16], [26].


12

Trong nghiên cứu của Nguyễn Đức Dũng trên 50 bệnh nhân tăng sản

LTTTL, ghi nhận có 7 trường hợp có biến chứng phát hiện qua siêu âm gồm 4
trường hợp có đài bể thận giãn và tất cả đều có urê và crêatinin máu tăng trên
mức bình thường [29].
1.3. CHẨN ĐOÁN TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYỀN TIỀN LIỆT
1.3.1. Tiền sử
Theo Trần Văn Sáng, tăng sản LTTTL có đặc điểm tiến triển chậm, kéo
dài nhiều năm, do đó bệnh nhân thích nghi dần, khó xác định được thời điểm
khởi phát của bệnh. Vì vậy, khai thác tiền sử rất có giá trị trong chẩn đoán [23].
1.3.2. Lâm sàng
1.3.2.1. Cơ năng
Triệu chứng cơ năng trong tăng sản LTTTL chủ yếu là những triệu
chứng của rối loạn về bài xuất nước tiểu. Những triệu chứng này là hậu quả
của mức độ lớn và chèn ép đường thoát nước tiểu từ trong bàng quang của
tăng sản LTTTL [30], [26]. Được đánh giá qua chỉ số IPSS, Qol, Qmax, PVR.
Hội chứng kích thích bàng quang: vì luôn phải tăng cường sức co bóp
để chống đối với sức cản gây nên do tăng sản LTTTL, nên bàng quang trở
nên nhạy cảm hơn so với bình thường.
+ Tiểu rắt nhiều lần, lúc đầu tiểu rắt về đêm sau đó cả ban ngày.
+ Tiểu khẩn cấp, buồn tiểu phải đi ngay, đôi khi tiểu són vì vội.
Hội chứng tắc nghẽn:
+ Tiểu khó ngập ngừng lúc khởi động tiểu, có thể ngừng tiểu đột ngột.
+ Tiểu không hết, tia tiểu yếu, dòng tiểu nhỏ và nhỏ giọt cuối bãi.
+ Có nước tiểu tồn lưu thể hiện qua triệu chứng: có cảm giác chưa
tiểu hết sau khi đi tiểu xong, hoặc đi tiểu lại trong vòng 2 giờ.


13

Các triệu chứng khi có biến chứng:
+ Bí tiểu có thể xảy ra sau một thời gian rối loạn tiểu tiện hoặc có khi

khởi phát đột ngột sau một thời gian tiềm ẩn lâu dài.
+ Tiểu không tự chủ thường xảy ra ở giai đoạn mất bù.
+ Tiểu máu thường gặp tiểu máu đầu bãi, có khi toàn bãi và có máu
cục. Đây là triệu chứng thường xuất hiện do các biến chứng mà tăng sản
LTTTL hay gây ra như: nhiễm khuẩn tiết niệu, sỏi bàng quang…
1.3.2.2. Thực thể
Rối loạn tiểu tiện, cần đánh giá sự khó khăn của sự đi tiểu và hình thái
của rối loạn [23], [30]. Theo nghiên cứu của Tubaro A. và Carlo V. trên 802
bệnh nhân tăng sản LTTTL nhận thấy không có sự liên quan chặt chẽ giữa độ
trầm trọng của các triệu chứng rối loạn tiểu tiện với thể tích TTL [31].
Thăm trực tràng là một động tác thăm khám không thể thiếu, thực hiện
tốt sau khi cho bệnh nhân đi tiểu. Thăm khám trực tràng sẽ thấy TTL tăng thể
tích, tạo một khối lồi trong lòng trực tràng, to đều, nhẵn, hơi tròn, mật độ
chắc, đàn hồi, không đau, mất rãnh giữa và ranh giới rõ ràng [32], [30]. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn trên 103 bệnh nhân tăng sản LTTTL,
thăm khám trực tràng ghi nhận TTL nhẵn, mất rãnh giữa và không đau chiếm
100%, chỉ có 1 trường hợp có nhân rắn khi thăm khám chiếm 0,98% [33].
1.3.3. Cận lâm sàng
1.3.3.1. X Quang và chụp niệu đồ tĩnh mạch
X Quang thường quy không có vai trò trong chẩn đoán bệnh lý tăng sản
LTTTL, niệu đồ tĩnh mạch thường được chỉ định khi nghi ngờ tổn thương phối
hợp. Hình ảnh tăng sản LTTTL có thể được thấy gián tiếp như đáy bàng quang
nâng cao với dấu ấn của TTL, niệu quản và đài bể thận hai bên giãn [23], [16].


14

1.3.3.2. Siêu âm 2D và siêu âm doppler
Hình ảnh điển hình của tăng sản LTTTL thể hiện bằng sự giảm âm,
tăng thể tích cân đối với đường viền rõ và đều, đẩy phần còn lại của tuyến

lành ra sau tạo ra hình ảnh cổ điển là quả trứng nằm trong vỏ. Còn siêu âm
Doppler thì đánh giá tình trạng cấp máu cho khối u.
- Ưu điểm:
+ Xác định được hình thể, vị trí của tuyến tiền liệt tăng sản, đặc biệt là
thùy giữa mà thăm trực tràng khó thấy.
+ Đánh giá được thể tích TTL và tình trạng cấp máu cho TTL.
+ Đánh giá được ảnh hưởng của tăng sản LTTTL lên bàng quang:
thành bàng quang dày lên (bàng quang chiến đấu), túi thừa bàng quang, sỏi
bàng quang,… Trong nghiên cứu của chúng tôi, siêu âm còn dùng để phát
hiện túi thừa lớn, viêm bàng quang để loại trừ các trường hợp không được can
thiệp. Nếu phát hiện sỏi bàng quang thì cần phải cho bệnh nhân đi tán sỏi rồi
mới tiến hành can thiệp.
+ Xác định lượng nước tiểu tồn dư trong bàng quang, một yếu tố rất
quan trọng trong chỉ định điều trị tăng sản LTTTL.
+ Dùng phổ biến vì có giá trị chẩn đoán tăng sản LTTTL.
+ Dễ thực hiện, chi phí thấp, có thể làm đi làm lại nhiều lần, không gây
hại cho bệnh nhân.
- Nhược điểm:
+ Phụ thuộc vào trình độ người làm và máy siêu âm.
+ Đối với TTL to, đo thể tích không chính xác.
1.3.3.3. Siêu âm qua đường trực tràng
Siêu âm đường trên xương mu không có vai trò để đánh giá nhu mô
tuyến tiền liệt, nó dùng để làm bilan đánh giá sự xâm lấn bụng và tiểu khung.


15

Siêu âm qua đường tầng sinh môn sử dụng khi không có đầu dò đường trực
tràng. Trên thực tế phải thăm khám siêu âm cả qua đường trên xương mu và
qua đường trực tràng.

Siêu âm qua đường trực tràng cho phép nghiên cứu nhu mô tuyến. Sử
dụng đầu dò 7-7,5 MHz cho phép nghiên cứu trên lớp cắt dọc (cổ bàng quang,
đáy TTL, đỉnh, ống phóng tinh), cắt ngang (đối xứng). Trong mặt phẳng trục
tuyến giảm âm, tuyến ngoài tăng âm, cấu trúc đồng âm và đối xứng. Nghiên
cứu của Harada chỉ ra rằng tuyến trong bao gồm tổ chức xơ cơ trước, vùng
chuyển tiếp và vùng quanh niệu đạo. Tuyến ngoài bao gồm vùng trung tâm và
ngoại vi. Tuyến tiền liệt bao quanh bởi viền mỏng tăng âm đều, tương ứng với
lớp mỡ quanh tuyến tiền liệt.
1.3.3.4. Chụp cắt lớp vi tính
Cắt lớp vi tính có nhiều ưu điểm trong khảo sát tăng sản LTTTL, giúp
đánh giá tương đối chính xác kích thước TTL, hình thái và sự ảnh hưởng của
của bệnh lý TTL với các cơ quan xung quanh, phát hiện những thay đổi tỷ
trọng bất thường của TTL. Nhược điểm của cắt lớp vi tính là kỹ thuật có
nhiễm xạ, tốn kém và cần thiết bị đắt tiền [24]. Do đó, cắt lớp vi tính không
được chỉ định rộng rãi trong việc chẩn đoán tăng sản LTTTL.
Tuy nhiên chụp cắt lớp vi tính đa dãy tiểu khung có dựng hình mạch
máu được dùng để đánh giá kiểu phân chia của động mạch chậu trong, số
lượng, đường đi, đường kính động mạch TTL và loại trừ các bệnh nhân không
thích hợp trước khi nút mạch (mảng xơ vữa, mạch máu nhỏ ngoằn ngoèo,
mạch máu bàng hệ với động mạch bàng quang, động mạch trực tràng) [12].
Nghiên cứu này của chúng chưa bệnh nhân nào được thực hiện chụp cắt lớp
vi tính đa dãy tiểu khung dựng hình động mạch TTL để tiên lượng nút mạch
tăng sản LTTTL.


16

1.3.3.5. Chụp cộng hưởng từ tuyến tiền liệt
Cộng hưởng từ hiện nay là một phương tịên đang được sử dụng phổ
biến trong chẩn đoán bệnh lý vùng chậu nói chung và TTL nói riêng. Độ nhạy

và độ đặc hiệu khá cao, đặc biệt là những máy CHT có từ lực mạnh trên 1
Tesla. CHT có thể khảo sát cả hình thái, kích thước, cấu trúc và phân vùng
TTL [20]. Do đó, CHT có giá trị chẩn đoán rất cao trong bệnh lý ung thư
TTL. Trên hình ảnh CHT giúp phân biệt được vùng tuyến lành và ung thư,
phát hiện những khối u có kích thước nhỏ, ngoài ra có thể khảo sát di căn
vùng chậu của ung thư TTL [24], [34].
Hiện nay cộng hưởng từ đã trở thành một kỹ thuật hình ảnh mạnh nhất
để đánh giá TTL [35]. Đây là một phương pháp đánh giá nhiều mặt phẳng,
không xâm lấn, không bị nhiễm xạ, cho phép đánh giá cấu trúc vị trí hình thái,
thể tích TTL rất tốt, đánh giá đặc điểm ngấm thuốc của tuyến [36]. Ngoài ra,
cộng hưởng từ TTL còn là phương pháp đánh giá khách quan, không phụ
thuộc vào kinh nghiệm người làm và máy siêu âm như phương pháp siêu âm
qua trực tràng (phương pháp đánh giá khá tốt hình ảnh tuyến tiền liệt). Vì các
lý do trên, chúng tôi chọn cộng hưởng từ là phương pháp đánh giá trước và
sau điều trị tăng sản LTTTL bằng phương pháp nút động mạch TTL.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cộng hưởng từ được sử dụng để loại trừ
ác tính, đánh giá mức độ ngấm thuốc của tuyến để tiên lượng hiệu quả can thiệp,
so sánh thể tích khách quan trước và sau can thiệp, đánh giá vùng nhồi máu sau
can thiệp. Ngoài ra có thể đánh giá biến chứng sau can thiệp sau 1 tháng.
1.3.3.5. Đo thể tích nước tiểu tồn dư
Thể tích nước tiểu tồn dư (hay thể tích nước tiểu tồn lưu) là thể tích
nước tiểu còn lại trong bàng quang ngay sau khi đi tiểu hoàn toàn [23], [30],
[37]. Theo Nguyễn Văn Sáng, thể tích nước tiểu tồn dư có giá trị rất lớn vì nó
phản ánh khá trung thực mức độ tắc nghẽn do tăng sản LTTTL gây nên. Thể


17

tích nước tiểu tồn dư > 100ml, nếu để lâu sẽ ảnh hưởng tới chức năng thận
[4], [23], [16].

Thể tích nước tiểu tồn dư > 30ml được xem là có tình trạng tắc nghẽn
đường tiểu dưới. Có hai cách đo thể tích nước tiểu tồn dư:
Cách đo trực tiếp bằng phương pháp đặt thông tiểu, giá trị chính xác
nhưng xâm nhập nhiều biến chứng. Thông thường cách này được làm đồng
thời khi bệnh nhân được thực hiện đo lưu lượng dòng tiểu.
Cách đo gián tiếp qua siêu âm bụng là phương pháp không xâm nhập,
không biến chứng và sai số không đáng kể nếu tuân thủ đúng kỹ thuật [27], [30].
1.3.3.6. Nội soi bàng quang
Nội soi bàng quang được chỉ định khi nghi ngờ u bàng quang. Bằng
chứng của tắc nghẽn biểu hiện trên thành bàng quang là các cột, hốc, túi thừa.
Nội soi bàng quang phải được tiến hành trong môi trường vô trùng và thường
được thực hiện kết hợp thông qua phẫu thật cắt đốt tăng sản LTTTL bằng nội
soi. Nội soi bàng quang giúp khảo sát hình thái TTL, hình thái của cổ và
thành bành quang. Vì thế nó đánh giá trung thực nhất tình trạng chèn ép niệu
đạo, hình thái và ảnh hưởng của tăng sản LTTTL lên bàng quang [30], [32].
Theo nghiên cứu của Hoàng Văn Tùng và cộng sự trên 84 bệnh nhân tăng sản
LTTTL, hình thái của tăng sản LTTTL qua nội soi niệu đạo: phì đại cả 3 thuỳ
là hay gặp nhất chiếm 39%, phì đại thuỳ giữa ít gặp nhất chiếm 22,6% và gây
hẹp cổ bàng quang chiếm 13,2%, trong đó hơn 50% ca hẹp cổ bàng quang gặp
ở hình thái TTL lớn thuỳ giữa [38].
1.3.3.7. Đo lưu lượng nước tiểu
Đây là một phương giúp chẩn đoán có sự tắc nghẽn bàng quang và
cùng với đo thể tích tiểu tồn dư giúp đánh giá về tính hiệu quả của hoạt động
tiểu, là một trong những yếu tố góp phần tiên lượng và lựa chọn phương án
điều trị [23], [16], [30]. Nghiên cứu của Foen C. H. và cộng sự cho thấy có


18

tương quan không đáng kể giữa tình trạng tắc nghẽn bàng quang và thể tích

TTL với r = 0,2 [39]. Lưu lượng dòng tiểu (Qmax), được đánh giá là một
khám nghiệm có ý nghĩa đánh giá khách quan sự tắc nghẽn đường tiết niệu
dưới (Qmax < 10 ml/s). Các cách khám thông thường khó đánh giá đúng
được Qmax. Phương pháp này đòi hỏi phải có trang bị máy đo niệu động học
(Uroflowmetry). Lưu lượng dòng tiểu phụ thuộc vào sự tắc nghẽn đường tiểu
dưới, nhưng cũng phụ thuộc vào trương lực cơ bàng quang, và lượng nước
tiểu trong bàng quang trước khi đo. Lưu lượng dòng tiểu sau can thiệp được
cải thiện rõ ràng là kết quả đánh giá khách quan nhất của điều trị.
Đo tốc độ dòng tiểu bằng máy niệu động học (uroflowmetry) là những
số liệu chắc chắn đáng tin cậy, đánh giá sự tắc nghẽn bàng quang, niệu đạo
của bệnh nhân với triệu chứng đường tiểu dưới [40]. Với khối lượng nước
tiểu trong bàng quang trên 150 ml, tiến hành đo tốc độ dòng nước tiểu tối đa
(Qmax). Nếu Qmax > 15 ml/s, được coi là bình thường; Qmax từ 10-15 ml/s
được coi là có cản trở nhẹ; Qmax < 10 ml/s được coi là nặng [40].
Đa số các tác giả đều đánh giá lưu lượng dòng tiểu của bệnh nhân bằng
lưu lượng dòng tiểu tối đa (Qmax). Một số ít không đo được Qmax thì tiến hành
đo lưu lượng dòng tiểu trung bình (Qmean) như là một giá trị tham khảo.
Qmean: Tốc độ dòng tiểu trung bình (ml/s)
Qmean =

V
t

V: Dung tích nước tiểu của 1 lần tiểu tiện (ml)
t: Thời gian của một lần tiểu tiện (giây)

Tuy là số liệu đáng tin cậy để chẩn đoán sự tắc nghẽn đường tiểu
dưới, nhưng đây là biện pháp không dễ gì thực hiện được tại các Bệnh viện
tuyến tỉnh vì đây là phương pháp cần có trang thiết bị hiện đại. Trong
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 5 bệnh nhân được thực hiện đo lưu lượng

dòng tiểu trước và sau điều trị vì trước đó Bệnh viện chưa triển khai rộng
rãi phương pháp này.


19

1.3.3.8. Xét nghiệm
Xét nghiệm nước tiểu: bệnh nhân có tăng sản LTTTL có tắc nghẽn
đường tiểu nên tỷ lệ nhiễm trùng đường tiểu rất cao. Cần phải xét nghiệm
tế bào vi trùng nước tiểu và cấy làm kháng sinh đổ ở các bệnh nhân tăng
sản LTTTL.
Xét nghiệm máu: định lượng urê, crêatinin máu. Các bệnh nhân tăng
sản LTTTL giai đoạn muộn đều có nguy cơ suy thận. Nhiều nghiên cứu cho
thấy tỷ lệ suy thận của các bệnh nhân tăng sản LTTTL khoảng 5-10% [29],
[41]. Do đó cần phải định lượng urê, crêatinin máu để đánh giá chức năng
thận [13], [23], [16].
Định lượng PSA (prostate specific antigen): đây là một kháng nguyên
đặc hiệu cho TTL. Thường 1g TTL tiết ra khoảng 0,3ng/ml PSA [39]. Hàm
lượng PSA bình thường trong máu của bệnh nhân tăng sản LTTTL < 4 ng/ml.
PSA tăng cao trong trường hợp ung thư TTL [23], [42]. Đối với bệnh nhân có
nồng độ PSA > 4ng/ml và < 10ng/ml, chúng tôi sử dụng hai chỉ số để loại trừ
phần lớn ung thư TTL:
Mật độ (hay tỷ trọng = tỷ lệ PSA/thể tích vùng chuyển tiếp của TTL
trên cộng hưởng từ) PSA < 0,15 và tỷ lệ PSA tự do/toàn phần > 0,20.
1.3.3.9. Giải phẫu bệnh
Đây là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán xác định tăng sản LTTTL.
Về đại thể, tăng sản LTTTL là một khối hình tròn hay bầu dục gồm hai
hay ba thuỳ áp sát vào nhau về phía trước và dính chặt về phía sau.
Về mặt vi thể, đó là tăng sản mô đệm và mô tuyến, cùng với sự thay
đổi tỷ lệ chất tuyến, sợi cơ và chất keo [14], [16], [43].

1.4. SƠ LƯỢC VỀ ĐIỀU TRỊ
Có nhiều phương pháp điều trị khác nhau tuỳ thuộc vào các triệu chứng
lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó đặc biệt quan trọng là dựa vào thang điểm
IPSS, hình ảnh TTL và thể tích nước tiểu tồn dư [16], [44].


20

* Điều trị nội khoa gồm các thuốc đối kháng alpha – adrenergic [16], [45], các
thuốc chủ vận LHRH 5-alpha reductase và các thuốc thảo mộc... [23], [16].
Ưu điểm:
 Ưu tiên hàng đầu trong bệnh lý TTL vì không xâm lấn, ít biến
chứng nặng.
 Thuốc có tác dụng hạn chế tăng sinh tuyến tiền liệt, giãn cơ trơn của
tuyến tiền liệt và cổ bàng quang để cải thiện dòng nước tiểu và làm
giảm tắc nghẽn.
 Hiện nay, có thuốc giảm thể tích TTL nhưng thời gian điều trị trên 6 tháng.
Nhược điểm:
 Thuốc có tác dụng không mong muốn là tụt huyết áp tư thế, chóng
mặt, nhức đầu.
 Chỉ định trên những bệnh nhân tăng sản LTTTL chưa có rối loạn
tiểu tiện nhiều, ít ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, hoặc bệnh
nhân chưa có điều kiện phẫu thuật, bệnh nhân chờ phẫu thuật.
 Thời gian điều trị kéo dài.
* Điều trị ngoại khoa:
- Chỉ định: Theo khuyến cáo của Hiệp hội Niệu khoa Mỹ (1994), tăng
sản LTTTL được điều trị ngoại khoa khi: bí tiểu dai dẳng, nhiễm trùng tái
diễn, đái máu đại thể, sỏi bàng quang, túi thừa bàng quang, suy thận do tăng
sản LTTTL [46]. Theo Trần Văn Sáng điều trị ngoại khoa được chỉ định khi
chỉ số IPSS > 20, Qol > 3, thể tích nước tiểu tồn dư > 100ml [18].

- Các phương tiện phẫu thuật có thể sử dụng như phẫu thuật bóc tăng
sản LTTTL; phẫu thuật cắt đốt nội soi qua đường niệu đạo; điều trị bằng
laser, đốt và gây hoại tử mô bằng sóng cao tần hay siêu âm, điều trị bằng
nhiệt, nong niệu đạo bằng bóng... [13], [23], [16], [46], [47].


21

- Phẫu thuật nội soi cắt tăng sản LTTTL qua niệu đạo, đây là phương
pháp điều trị chiếm 95% trường hợp phẫu thuật tăng sản LTTTL ở Mỹ [13],
[46]. Kết quả cho thấy các thang điểm triệu chứng và tốc độ dòng tiểu đạt
được của phẫu thuật nội soi cắt tăng sản LTTTL cao hơn so với những
phương pháp trên [48], [49], [50], [51]. Tuy nhiên phuơng pháp này có thể
gây biến chứng: chảy máu nặng khi thể tích TTL lớn hơn 80cm3, xuất tinh
ngược, bàng quang không tự chủ và bất lực. Năm 1990, tỷ lệ phẫu thuật nội
soi qua niệu đạo 97% (Mỹ) (Denmark và Sweden), ở Nhật (70%) và Pháp
(69%). Trong đó khoảng 5% bệnh nhân phẫu thuật nội soi qua niệu đạo có
biến chứng rối loạn cương dương [52].
Ưu điểm:
 Mổ mở: có thể lấy hết được khối tăng sản.
 Mổ nội soi: không để lại sẹo, ít gây chảy máu hơn.
 Giảm các triệu chứng, đạt tốc độ dòng tiểu cao nhất.
 Chi phí thấp.
Nhược điểm:
 Thời gian nằm viện kéo dài.
 Bệnh nhân đau nhiều, chảy máu.
 Biến chứng: bí tiểu, tiểu không kiểm soát, nhiễm trùng tiết niệu, xơ
hẹp cổ bàng quang hoặc hẹp niệu đạo, xuất tinh ngược dòng, rối loạn
cương dương.
Nhược điểm của cả hai phương pháp điều trị nội khoa và ngoại khoa đều

liên quan đến thời gian điều trị, đau sau mổ, suy giảm khả năng sinh dục và chảy
máu. Vì vậy vấn đề trong điều trị tăng sản TTL được đặt ra là tìm một phương
pháp mới cải thiện hiệu quả điều trị mà biến chứng ít, hậu phẫu nhẹ nhàng và với
chi phí thấp. Trong các phương pháp mới trên thế giới, nút động mạch TTL để
điều trị tăng sản LTTTL đang là một trong các lựa chọn cho bệnh nhân.


22

1.5. NÚT ĐỘNG MẠCH TIỀN LIỆT TUYẾN
1.5.1. Sơ lược kỹ thuật nút mạch
Tắc mạch trong điện quang nói chung đã được sử dụng từ năm 1975,
ban đầu kỹ thuật này chỉ được sử dụng trong một số trường hợp như chảy
máu sau phẫu thuật và giảm chảy máu tiền phẫu, từ đó cho tới nay kỹ thuật
này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong điều trị dị dạng thông động tĩnh
mạch, phình mạch, chảy máu sau phẫu thuật, điều trị ung thư gan, điều trị
thông động mạch cảnh xoang hang,… Trong sinh dục – tiết niệu can thiệp
mạch được sử dụng trong trường hợp chảy máu sau mổ đẻ, chảy máu sau đẻ,
chảy máu do sau cắt bỏ hoặc sinh thiết TTL,...
Năm 1976, Mitchell và cộng sự báo cáo 4 trường hợp dùng phương
pháp nút động mạch TTL kiểm soát chảy máu sau cắt bỏ, sinh thiết TTL [53].
Năm 2000, DeMeritt (đại học y khoa Hackensack tại Mỹ) nút động mạch TTL
của bệnh nhân bị tăng sản LTTTL có chảy máu nặng và tái phát nhiều lần để
cầm máu, bệnh nhân ngừng chảy máu, giảm các triệu chứng gây ra do tăng
sản TTL. Đồng thời thể tích TTL giảm sau 5 tháng, 12 tháng lần lượt là 52%
và 62% so với thể tích ban đầu [54]. Đây là cơ sở cũng như tiền đề phát triển
phương pháp điều trị tăng sản LTTTL bằng nút động mạch TTL. Đến năm
2010, Pisco báo cáo thực hiện 12 bệnh nhân [55], [56]. Năm 2014, Pisco và
cộng sự đã thực hiện trên 600 bệnh nhân [57], [58].
1.5.2. Nút động mạch tuyến tiền liệt

+ Nguyên lý và mục đích của kỹ thuật:
TTL được nuôi dưỡng bằng máu từ động mạch TTL. Gây tắc các nhánh
này làm cho phần tăng sản TTL không phát triển, teo nhỏ lại làm giảm hoặc
mất triệu chứng do tăng sản TTL gây ra như tiểu đêm, tiểu không hết, tiểu
nhiều lần.


23

+ Các chất gây tắc mạch trong điều trị tăng sản LTTTL
Hạt nhựa (PVA = Poly Vinyl Alcohol): Gây tắc mạch vĩnh viễn bằng
cách gây giảm lưu lượng dòng chảy và gây viêm thành mạch vô khuẩn tại các
mạch máu mà nó tắc lại, dẫn đến các cục máu đông có chứa hạt nhựa gây tắc
hoàn toàn dòng chảy của động mạch, các cục máu đông này sẽ tự phân hủy
trong vòng 4 tuần còn các hạt nhựa thì tồn tại vĩnh viễn trong khối u. Hạt
nhựa được sử dụng lần đầu tiên trong Y học là vào năm 1974 để gây tắc mạch
khối u đang chảy máu. Hạt nhựa được sử dụng trong nút động mạch TTL có
kích thước 50 – 500µm.
+ Phương pháp điều trị tăng sản LTTTL bằng nút mạch TLT có ưu điểm:
 Thực hiện với tăng sản LTTTL kích thước bất kỳ.
 Ít biến chứng.
 Ít xâm lấn, không để lại sẹo.
 Thời gian nằm viện 2-3 ngày.
 Không phải gây mê nên tránh được các biến chứng do thủ thuật này

gây ra.
 Nút mạch ở người bệnh cao tuổi có ý nghĩa quan trọng đến quá

trình phục hồi sức khoẻ cho người bệnh.
1.5.3. Chỉ định

 Bệnh nhân tăng sản LTTTL (≥ 25cm3), có triệu chứng mà không
đáp ứng với điều trị nội 6 tháng.
 Chỉ số IPSS (International Prostate Symptoms Score) > 19 và ảnh
hưởng tới chất lượng cuộc sống (> 3).
 Thể tích TTL 40cm3 trở lên.
 Bệnh nhân tăng sản LTTTL không đáp ứng điều trị nội tuy nhiên
không muốn phẫu thuật.


24

1.5.4. Chống chỉ định
 Trong trường hợp viêm nhiễm TTL và nghi ngờ có bệnh ác tính
TTL cần sinh thiết để đánh giá.
 Giống như chống chỉ định của chụp mạch máu: Đang có bệnh
nhiễm trùng, suy gan, suy thận nặng, mắc các bệnh ưa chảy máu,
đái tháo đường, có tiền sử dị ứng với các chế phẩm có iốt, có tiền sử
hen phế quản.
1.5.5. Chuẩn bị
1.5.5.1. Cán bộ chuyên khoa
Cần một nhóm chụp mạch và can thiệp bao gồm:
 02 bác sĩ chuyên khoa làm điện quang can thiệp mạch
 01 điều dưỡng trong phòng chụp mạch
 01 kỹ thuật viên điện quang
1.5.5.2. Phương tiện
 Máy chụp mạch số hóa nền.
 Bộ dụng cụ luồn động mạch: ống đặt động mạch (Sheath), ống
thông (Catheter, microcatheter), dây dẫn (Guide wire).
 Vật liệu gây tắc mạch: Hạt PVA 45-150µm hoặc 255-350µm.
 Dịch truyền Natriclorua 0,9%, dây truyền, kim luồn 18G, thuốc gây

tê, dao mổ, Heparin Thuốc giảm đau (Efferalgan Codein, Dolargan)
 Hộp chống sốc.
1.5.5.3. Người bệnh
Người bệnh phải được vào viện và làm các xét nghiệm cần thiết:
 Đông máu cơ bản và công thức máu.
 Chức năng gan thận (Glucose, Ure, Creatinin).
 Người bệnh và gia đình được giải thích kỹ về thủ thuật để phối hợp
với thầy thuốc.
 Nhịn ăn làm thủ thuật trước 4 tiếng.


25

1.5.5.4 Hồ sơ bệnh án
 Bệnh án chi tiết.
 Có đầy đủ các xét nghiệm:
- Đông máu cơ bản, công thức máu.
- Chức năng gan thận: Glucose, Ure, Creatinin
- Xét nghiệm: PSA (tự do và toàn phần)
 Đo lưu lượng dòng tiểu.
 Siêu âm TTL.
 Chụp cộng hưởng TTL có tiêm thuốc.
1.5.5.5 Kỹ thuật Cone - beam CT
Đây là kỹ thuật được thực hiện khi dùng vi ống thông vào động mạch
TTL. Kỹ thuật Cone - beam CT được thực hiện để đánh giá: xác định phần tổ
chức bị gây tắc, xác định vùng tuyến tiền liệt sẽ bị nút khi gây tắc và gợi ý
động mạch tuyến tiền liệt phụ còn cấp máu cho TTL. Theo báo cáo của Pisco,
trong 86 bệnh nhân sau khi nút động mạch tuyến tiền liệt để điều trị tăng sản
LTTTL có 1 bệnh nhân bị hoại tử 1,5cm2, bệnh nhân này đã phải phẫu thuật
cắt phần hoại tử [3].

Thủ thuật được thực hiện với gây tê tại chỗ, trước đó đã dùng chống
viêm không steroid và kháng sinh đường uống. Với đường vào là động mạch
đùi, đã chọn lọc vào động mạch bời ống thông Cobra 5-F (Cook hoặc
Terumo), vi ống thông 2.7-F hoặc 2.0-F Progreat (Terumo) dưới máy can
thiệp số hóa xóa nền. Sau khi chọn lọc vào động mạch, trước khi nút tắc, kỹ
thuật Cone - beam CT được thực hiện với 3 bệnh nhân với sự sử dụng 1,5-2.0
ml thuốc cản quang, bằng tiêm tay trong 8 giây, mỗi giây quay 26 độ, tổng số
quay 208 độ, nguồn phát 125 kVp, với tổng số 417 ma trận [59]. Liều bức xạ
khoảng 0,36 μGy. Nhiều mặt phẳng được tái tạo ảnh với lát cắt độ dày 5mm.


×