CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO
DOANH NGHIỆP VÀ LỢI THẾ ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ thì doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam được hiểu là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô
tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng
nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 1.1 Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quy mô
Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn
vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ Từ trên 200
đồng đến
người đến
100 tỷ đồng 300 người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ Từ trên 200
đồng đến
người đến
100 tỷ đồng 300 người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ
đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
Khu vực
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
Từ trên 50
người đến
100 người
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ đã thay thế cho
Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 quy định: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa
là các đơn vị sản xuất, kinh doanh độc lập có đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 100 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
1
hàng năm không quá 300 người”. Như vậy, theo nghị định 90/2001/NĐ-CP khu
vực doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam bao gồm:
+ Các Doanh nghiệp nhà nước có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký
theo luật doanh nghiệp nhà nước.
+ Các Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn (TNHH), Doanh nghiệp
Tư nhân (DNTN) và Hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo luật Doanh
nghiệp, Luật Hợp tác xã đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu thức mà Nghị
định 90/2001/NĐ-CP đưa ra.
+ Các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và hoạt động theo
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng được hai hoặc một trong hai tiêu thức
mà nghị định 90/2001/NĐ-CP đưa ra. Về cơ bản, loại hình doanh nghiệp thuộc khu
vực DNVVN không có gì thay đổi trong cả hai nghị định. Điểm mới trong Nghị
định số 56/2009/NĐ-CP so với Nghị định 90/2001/NĐ-CP là có phân chia
DNVVN thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Nghị định cũng chia doanh nghiệp
thành ba khu vực (KV1: Nông, lâm nghiệp và thủy sản – KV2: Công nghiệp và
xây dựng – KV3: Thương mại và dịch vụ) với quy mô vốn và lao động cụ thể theo
từng cấp. Việc phân chia DNNVV vẫn theo chỉ số lao động và vốn tuy nhiên nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên để phân loại.
1.1.2 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế.
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tính đến ngày 3112-2011, VN có 543.963 doanh nghiệp (DN), với số vốn khoảng 6 triệu tỷ đồng.
Trong tổng số DN đó, có gần 97% quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu là DN tư nhân. Các
DN nhỏ và vừa (DNVVN) sử dụng 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40%
GDP cả nước. Nếu tính cả 133.000 HTX, trang trại và khoảng 3 triệu hộ kinh
doanh cá thể thì khu vực này đóng góp tới 60% vào cơ cấu GDP. Không chỉ đóng
góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước, DNVVN còn tạo ra hơn một
triệu việc làm mới mỗi năm cho số lao động phần lớn chưa qua đào tạo, góp phần
xóa đói giảm nghèo, tăng cường an sinh xã hội.
Khu vực DNVVN đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững của các nền
kinh tế nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đặc biệt là đối với Việt Nam đang
2
trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Vai trò của các DNVVN thể hiện
qua các mặt sau đây:
- Tạo ra việc làm mới, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
- Huy động các nguồn vốn và sức mạnh của xã hội trong sản xuất, kinh doanh.
- Đóng góp quan trọng vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa và hiện đại hóa.
- Tạo thêm thu nhập cho phần lớn người lao động.
- Đóng góp vào phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau.
- Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
- Đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
- Đào tạo các cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp lớn trong tương lai và tạo
nền tảng kinh tế ban đầu cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn.
- Cùng với các doanh nghiệp lớn tạo ra các mối liên kết hiệu quả trong tổng thể
các chuỗi giá trị và chuỗi giá trị toàn cầu.
Các vai trò kể trên có thể gộp thành hai nhóm chính: phát triển kinh tế và xã hội.
Các DNVVN luôn là kênh huy động quan trọng nguồn vốn của xã hội phục vụ cho
sản xuất, kinh doanh. Điều này có được nhờ đặc tính dễ hình thành của các
DNVVN. Đặc tính linh hoạt, dễ chuyển đổi và thay đổi định hướng kinh doanh đã
giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng với các doanh nghiệp lớn tạo ra các mối
liên kết hiệu quả trong các chuỗi giá trị. Các DNVVN cũng đóng vai trò quan trọng
trong các ngành công nghiệp phụ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Tạo công ăn việc
làm và nâng cao thu nhập cho người lao động là vai trò quan trọng của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển xã hội. Các doanh nghiệp này được đánh giá là
bộ phận năng động của nền kinh tế.
1.2 Lý luận chung về cạnh tranh.
1.2.1 Khái niệm cạnh tranh.
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, khái niệm cạnh
tranh đã xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển sản xuất, trao đổi hàng
hoá và phát triển kinh tế thị trường.
3
Có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về cạnh tranh, theo từ điển kinh doanh
của Anh, cạnh tranh được hiểu là “Sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh
trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một
loại khách hàng về phía mình”. Theo quan điểm này, cạnh tranh được hiểu là các
mối quan hệ kinh tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để
đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy
khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Cạnh tranh xuất phát từ hai điều kiện cơ bản là phân công lao động xã hội và
tính đa nguyên chủ thể lợi ích kinh tế, điều này làm xuất hiện các cuộc đấu tranh
giành lợi ích kinh tế giữa người sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ và các tổ chức
trung gian, thực hiện phân phối lại các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Cuộc đấu tranh
này dựa trên sức mạnh về tài chính, kỹ thuật công nghệ, chất lượng đội ngũ lao
động, quy mô hoạt động của từng chủ thể. Mục đích cuối cùng của các chủ thể
kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, với người sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận và với người tiêu dùng là tiện ích tiêu dùng.
1.2.2. Các loại hình cạnh tranh.
1.2.2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia thành
3 loại.
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hóa của
mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối
cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên
gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá cao
để mua được hàng hóa mà họ cần.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành
giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người
mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được
sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ
mạnh hơn.
4
1.2.2.2. Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế cạnh tranh được phân thành hai
loại.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này
có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành
tỷ suất lợi nhuận bình quân.
1.2.2.3. Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành 3 loại.
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition): Là hình thức cạnh tranh giữa
nhiều người bán trên thị trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế
giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức,
tức là không khác nhau về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong
cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành
hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh tranh
giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm
đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành được ưu thế trong cạnh
tranh, người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại,
cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai
đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có một
hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm
hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu.
5
1.2.2.4. Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh
thành.
- Cạnh tranh lành mạnh: cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã
hội và được xã hội thừa nhận, nó thường diễn ra sòng phẳng, công bằng và công
khai.
- Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật pháp, trái
với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án (như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc, …)
1.2.3. Vai trò của cạnh tranh.
1.2.3.1.Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân.
- Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng nhằm cao năng suất lao động xã
hội. Một nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp
phát triển có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải là cạnh
tranh hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng
phát triển, cùng đi lên thì mới làm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Còn cạnh
tranh độc quyền sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra môi trường kinh
doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã
hội, làm cho nền kinh tế không ổn định. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành lệnh
chống độc quyền trong cạnh tranh, trong kinh doanh để tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Cạnh tranh hoàn hảo sẽ đào thải các doanh nghiệp làm ăn không hiệu
quả. Do đó buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn phương án kinh doanh có chi phí
thấp nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Như vậy cạnh tranh tạo ra sự đổi mới
mang lại sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.3.2 Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng.
- Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt thì
người được lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng không
phải chịu một sức ép nào mà còn được hưởng những thành quả do cạnh tranh mang
lại như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng phục vụ cao
hơn... Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với cạnh tranh bằng những
yêu cầu về chất lượng hàng hoá, về giá cả, về chất lượng phục vụ... Khi đòi hỏi của
6
người tiêu dùng càng cao làm cho cạnh tranh giữa các DN ngày càng gay gắt hơn
để giành được nhiều khách hàng hơn.
1.2.3.3. Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp.
- Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường. Cạnh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh
nghiệp không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế và
chiến thắng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao chất lượng
sản phẩm, dịch vụ, thay đổi kiểu dáng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới, hiện đại,
tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của
mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm
mới khác biệt có sức cạnh tranh cao.
- Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng “bản
lĩnh” của mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp càng vững
mạnh và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.
- Chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền kinh
tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị
trường.
1.3. Năng lực cạnh tranh.
1.3.1. GIới thiệu một số khái niệm về cạnh tranh.
1.3.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh.
- Theo WEF (1997) báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu thì năng lực cạnh
tranh được hiểu là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó
một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ
lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng
thời đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra. Năng lực cạnh tranh có thể
chia làm 3 cấp:
7
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng
trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao
đời sống của nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của DN trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó có được.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ: được đo bằng thị phần của sản
phẩm dịch vụ thể hiện trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ
phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó. Nó dựa vào chất lượng, tính độc đáo của
sản phẩm, dịch vụ, yếu tố công nghệ chứa trong sản phẩm dịch vụ đó.
1.3.1.2. Khái niệm khả năng cạnh tranh.
- Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh doanh nghiệp.
- Là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến đổi
trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường (Theo Fafchams).
- Là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất
định (Theo Randall).
- Là khả năng cung ứng sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường
khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó. (Theo
Dunning).
- Là trình độ công nghệ sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường
đồng thời duy trì được thu nhập của mình (Quan điểm khác).
- Có thể thấy rằng các quan niệm đứng trên các góc độ khác nhau nhưng chung
quy lại đều nói đến việc chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận.
- Tóm lại, có thể khái quát khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là việc huy
động, sử dụng có hiệu quả các năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, biến chúng
thành những lợi thế cạnh tranh và sử dụng chúng như những công cụ cạnh tranh
nhằm đạt được vị thế cạnh tranh nhất định.
8
1.3.1.3. Khái niệm lợi thế cạnh tranh.
- Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia
mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra
một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi
thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được “Quyền lực thị trường” để
thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh phải là khả
năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách hàng, nhà
đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh nghiệp.
Lợi thế cạnh tranh được sử dụng để xác định mức độ ưu thế trong cạnh tranh xuất
khẩu hàng hóa của quốc gia trên thị trường quốc tế.
1.3.1.4. Khái niệm lợi thế so sánh.
- Lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế, khi các
quốc gia tập trung chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi
nhỏ nhất hoặc những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có
lợi. Lợi thế so sánh được sử dụng để xác định lợi thế kinh tế (mức độ hiệu quả sử
dụng tài nguyên) của quốc gia/vùng trong mở rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa.
1.3.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Quan niệm cạnh tranh của doanh nghiệp cũng có nhiều khác biệt. Năng lực
cạnh tranh là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong
muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như
năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị
trường mới.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đấy là các
yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp…một cách riêng biệt
mà đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoạt động trên cùng một lĩnh vực,
cùng một thị trường.
9
- Có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với ưu
thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm gắn năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng
nhất doanh nghiệp với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào
thực lực và lợi thế của mình thì chưa đủ, bởi trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế,
lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực tế chứng minh một số doanh
nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong yếu nhưng vẫn tồn tại
và phát triển trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Như vậy, “năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên
trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm-dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để
tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Năng lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn
với các công ty so sánh (các đối thủ) về doanh thu, thị phần, khả năng sinh lời và
đạt được thông qua các hành vi chiến lược, được định nghĩa như là một tập hợp các
hành động tiến hành để tác động tới môi trường nhờ đó làm tăng lợi nhuận công ty,
cũng như bằng những công cụ marketing khác. Nó cũng đạt được thông qua việc
nâng cao chất lượng sản phẩm mà sự sáng tạo sản phẩm là những khía cạnh rất
quan trọng của quá trình cạnh tranh.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mô hình kim cương của M. Porter đưa ra khung phân tích để hiểu bản chất và đo
lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo mô hình này, các nhóm hình
thành nên 4 đỉnh của cấu trúc kim cương là các điều kiện yếu tố (con người, các
yếu tố vật chất, tri thức), các điều kiện về nhu cầu (quy mô, cơ cấu và sự tinh tế
của thị trường), các ngành cung cấp và ngành có liên quan, hiện trạng của doanh
nghiệp. Như vậy, theo mô hình kim cương của M. Porter, việc đo lường năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ dựa vào khả năng bên trong doanh nghiệp
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Các yếu tố cấu thành và đo lường
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải thể hiện được bản chất của năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp, thể hiện được mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong việc chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, thu hút yếu tố đầu vào.
10
Chiến lược cấu trúc và cạnh
tranh trong nước của công ty
Sự ngẫu nhiên
Điều kiện nhu
cầu
Điều kiện yếu tố
sản xuất
Các ngành công nghiệp có lien quan và
các ngành công nghiệp bổ trợ
Chính phủ
Hình 1.1: Mô hình kim cương của M. Porter
1.3.3.1. Thị trường:
- Khả năng duy trì và mở rộng thị phần của doanh nghiệp
Đây là chỉ tiêu tổng hợp, quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh theo kết quả
đầu ra của doanh nghiệp, cho dù đó là cạnh tranh trong nước hay cạnh tranh quốc
tế. Tiêu chí này gồm hai tiêu chí thành phần là thị phần và tốc độ tăng thị phần của
doanh nghiệp.
Thị phần là tiêu chí thể hiện vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Tiêu chí này
thường được đo bằng tỷ lệ doanh thu hay số lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh
nghiệp trong một giai đoạn nhất định so với tổng doanh thu hay sản lượng tiêu thụ
trên thị trường. Trong trường hợp không tính được thị phần và tốc độ tăng trưởng
thị phần thì có thể sử dụng chỉ tiêu tố độ tăng trưởng doanh thu để thay thế. Chỉ
tiêu này phản ánh sự thay đổi đầu ra của doanh nghiệp theo thời gian và được tính
theo công thức:
Doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ hiện tại
Rt = -------------------------------------------------------------------- x 100%
Doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ trước
11
Chỉ tiêu này có thể tính toán cho từng doanh nghiệp tại mọi thời điểm và có thể
so sánh mức độ biến đổi đầu ra giữa các doanh nghiệp, tuy nhiên nó không phản
ánh được vị thế của từng doanh nghiệp trong tổng thể.
- Phân khúc thị trường: là việc phân chia thị trường thành những nhóm khách
hàng mua khác nhau có những nhu cầu hay phản ứng khác nhau. Đối với mỗi khúc
thị trường phải xác định được những đặc điểm riêng biệt của nhóm khách hàng để
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của họ.
- Mạng lưới phân phối: Kênh phân phối có vai trò rất quan trọng, nó là cầu nối
giữa người sản xuất với người tiêu dùng, kênh phân phối bao gồm tập hợp các tổ
chức, cá nhân khác nhau, có chức năng khác nhau, có mối quan hệ qua lại nhằm
tạo dòng vận động cho sản phẩm về mặt vật chất, tạo dòng thương lượng, chuyển
quyền sở hữu, dòng thông tin, dòng xúc tiến và dòng tiền tệ. Cạnh tranh trong kênh
phân phối gồm: cạnh tranh giữa các kênh (có thể là giữa các kênh cùng loại và
giữa các kênh khác loại); cạnh tranh giữa các cấp (chiều dọc) trong cùng kênh;
cạnh tranh giữa các phần tử cùng cấp. Những hành động cạnh tranh có thể vì phân
phối lợi ích hoặc giành thị phần hoặc giành địa vị trong hệ thống. Một doanh
nghiệp muốn phát triển và phát triển bền vững, trước hết phải xây dựng và quản trị
tốt kênh phân phối. Việc quản trị kênh phân phối phải duy trì được sự hợp tác giữa
các phần tử trong kênh; phải duy trì được lợi ích đủ kích thích các phần tử gắn bó
với kênh; phải khuyến khích những trạng thái cạnh tranh phù hợp góp phần giảm
tổng chi phí hoạt động của kênh.
- Thương hiệu: Thương hiệu là tài sản vô hình có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với mọi doanh nghiệp. Thương hiệu là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu lâu
dài của doanh nghiệp nhằm khắc sâu hình ảnh doanh nghiệp vào trong tâm trí
khách hàng. Trong lĩnh vực ngân hàng, thương hiệu là uy tín của ngân hàng trên thị
trường và là vũ khí hiệu quả nhất để duy trì và phát triển lợi thế cạnh tranh.
- Hoạt động xúc tiến thương mại và nghiên cứu thị trường: Xúc tiến thương
mại là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết trong quá trình kinh doanh của
công ty. Trong nhiều tình thế hiệu lực của hoạt động này có tác dụng quyết định
12
đến kết quả của hành vi mua bán hàng hoá và thông báo cho công chúng biết về
những thông tin quan trọng về sản phẩm như chất lượng và tác dụng của sản phẩm.
Nghiên cứu thị trường là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng, nếu công tác
nghiên cứu thị trường được làm tốt, nó cung cấp đầy đủ thông tin chính xác để
giúp người làm marketing đưa ra một chiến lược phù hợp và do đó mang lại hiệu
quả cao. Ngược lại, nếu công tác nghiên cứu thị trường thu thập về những thông tin
không chính xác, không phản ảnh đúng tình hình thực tế thị trường, và do không
dựa trên cơ sở thông tin vững chắc nên quyết định được đưa ra sẽ không sát với
thực tế, dẫn đến hoạt động marketing sẽ không hiệu quả, lãng phí nhân vật lực.
- Khả năng liên kết và hợp tác của doanh nghiệp
Cạnh tranh trong điều kiện hiện nay không hoàn toàn đồng nghĩa với tiêu diệt
lẫn nhau mà đặt trong sự liên kết và hợp tác để cạnh tranh cao hơn. Do vậy, khả
năng liên kết, hợp tác được coi là tiền đề cho hoạt động kinh doanh hiệu quả, đồng
thời đây cũng là một tiêu chí định tính của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tiêu chí này thể hiện qua số lượng và chất lượng các mối quan hệ với các đối tác,
các liên doanh, hệ thống mạng lưới kinh doanh theo lãnh thổ.
- Khả năng thích ứng và đổi mới của doanh nghiệp:
Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế với nhiều biến động đòi hỏi doanh nghiệp có khả năng thích
ứng cao và đổi mới nhanh chóng. Đây là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
“động” của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải thích ứng với sự thay đổi của thị
trường trong nước và quốc tế (sở thích, nhu cầu, giá cả, chất lượng, mẫu mã…) và
sự thay đổi trong môi trường kinh doanh như chính sách của nhà nước, sự thay đổi
của các đối tác kinh doanh, đối thủ cạnh tranh,…). Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp
phải phản ứng linh hoạt, điều chỉnh linh hoạt và hiệu quả. Đây được coi là tiền đề
cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, do đó đây cũng là một trong những
chỉ tiêu quan trọng nhất tạo ra lợi thế cạnh tranh và phản ánh năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
1.3.3.2. Sản phẩm.
13
Sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Do nhiệm
vụ cơ bản của doanh nghiệp là sản xuất kinh doanh nên nếu sản phẩm của doanh
nghiệp có sức cạnh tranh thấp thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể
cao được.
-Chất lượng sản phẩm: là một chỉ tiêu tổng hợp gồm các nhóm chỉ tiêu thành
phần: các chỉ tiêu kinh tế (chi phí sản xuất, chi phí bảo đảm chất lượng, chi phí sử
dụng, chi phí môi trường) và các chỉ tiêu kỹ thuật (công dụng, thẩm mỹ, an toàn vệ
sinh, tiện dụng). Phần lớn các chỉ tiêu này được so sánh với tiêu chuẩn của ngành,
của quốc gia và quốc tế. Các chỉ tiêu kỹ thuật cụ thể rất khác nhau đối với các hàng
hóa khác nhau. Một số chỉ tiêu về thẩm mỹ, tiện dụng thường được xác định thông
qua điều tra khách hàng.
- Giá cả sản phẩm: cho đến nay, đây vẫn là yếu tố rất quan trọng cấu thành năng
lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu có cùng chất lượng như nhau thì hàng hóa có giá
cả thấp hơn sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn. Giá cả hàng hóa là chỉ tiêu tổng hợp.
Để sản xuất hàng hóa ở mức giá thấp, cần có một số điều kiện như: có lợi thế về
nguồn lực, sử dụng nguồn lực có hiệu quả, trình độ công nghệ phù hợp, tổ chức
sản xuất tốt, tiết kiệm chi phí, khai thác tối đa thiết bị, công nghệ … Chỉ tiêu này
được xác định trên cơ sở so sánh giữa các hàng hóa cùng loại hoặc tương đương.
Khi có sự khác biệt về chất lượng thì giá cả luôn đặt trong sự so sánh với lợi ích do
hàng hóa mang lại, độ bền, thẩm mỹ.
- Mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng: là chỉ tiêu thể hiện việc cung cấp
cho khách hàng đúng hàng hóa, đúng thời điểm với giá cả hợp lý. Đây là một chỉ
tiêu định tính, phản ánh khả năng kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp. Để cung
cấp “đúng” đòi hỏi DN phải tổ chức tốt, đảm bảo các nguồn lực ổn định, kiểm soát
chất lượng tốt. Chỉ tiêu này được xác định thông qua điều tra khách hàng.
- Dịch vụ đi kèm: bao gồm việc hướng dẫn sử dụng, theo dõi sử dụng, bảo trì,
bảo hành. Dịch vụ sau bán hàng là một yếu tố quan trọng tạo niềm tin cho khách
hàng, củng cố và phát triển quan hệ với khách hàng, nhờ đó để nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hóa.
14
1.3.3.2. Vốn và tài chính
Vốn và tài chính được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng
vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính…trong doanh nghiệp.
- Vốn: Thể hiện ở qui mô vốn, cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, việc sử
dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh, khả năng huy động vốn kịp thời
nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ
chức hệ thống bán lẻ.
- Hiệu suất sử dụng vốn: là tỷ lệ giữa doanh thu thuần trên vốn kinh doanh (hoặc
vốn cố định và đầu tư dài hạn) của doanh nghiệp.
- Năng suất sử dụng toàn bộ tài sản: là tỷ số giữa doanh thu thuần trên tổng tài
sản hay tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Năng lực duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp: thể hiện
qua một số chỉ tiêu sau:
Tỷ suất sinh lời tổng tài sản (ROA: Return on Assets):
ROA =
Lợi nhuận ròng sau thuế
Tổng tài sản có bình quân
x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chất
lượng của công tác quản lý tài sản có. Tài sản sinh lời càng lớn thì hệ số trên càng
lớn.
Tỷ suất sinh lời vốn tự có (ROE: Return on Equity):
Lợi nhuận ròng sau thuế
ROE =
Vốn tự có
x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận, khả năng sinh lời trên một đồng vốn của doanh nghiệp. Hệ số càng lớn, khả
năng sinh lời tài chính càng lớn.
Chi phí đơn vị sản phẩm: chỉ tiêu này phản ánh lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp. Chi phí đơn vị sản phẩm thấp hơn phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cao hơn. Để xác định chỉ tiêu này, có thể sử dụng công thức của Singgel
(1998):
TC
TC
15
UC = ------- = -------- < 1
D
QxP
Trong đó: UC: Chi phí của 1 đơn vị sản phẩm
TC: Tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp
P: Giá sản phẩm cuối cùng của người sản xuất
Q: Số lượng hàng hóa
D: Tổng doanh thu
Theo đó, doanh nghiệp có chỉ số UC càng nhỏ hơn 1 thì có khả năng cạnh tranh
cao Trong công thức trên, giá sản phẩm có thể tính theo giá nội địa đối với hàng
bán trong nước hoặc giá FOB đối với hàng xuất khẩu.
1.3.3.3. Nguồn nhân lực và tổ chức
- Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp:
Được coi là yếu tố có tính quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
nói chung cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ
chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện trên các mặt:
- Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý:
Được thể hiện bằng những kiến thức cần thiết để quản lý và điều hành, thực hiện
các công việc đối nội và đối ngoại của doanh nghiệp. Trình độ của đội ngũ này
không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn
và phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, từ pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng đến kiến thức
về xã hội, nhân văn.
- Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp:
+ Thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân rõ chức
năng, nhiệm vụ của các bộ phận, thể hiện trong việc hoạch định chiến lược kinh
doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp …
+ Trình độ, năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch
định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp…
- Trình độ lao động trong doanh nghiệp:
16
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào, vừa là lực lượng trực tiếp
sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ. Lao động
còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quy
trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến, sáng chế. Do vậy trình độ
của lao động tác động rất lớn đến chất lượng và độ tinh xảo của sản phẩm, ảnh
hưởng lớn đến năng suất và chi phí của doanh nghiệp.
- Năng suất lao động:
chỉ tiêu tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh, năng lực sử
dụng các yếu tố sản xuất, trình độ công nghệ. Năng suất lao động được đo bằng tỷ
số giữa doanh thu thuần và số lao động trung bình trong kỳ.
1.3.3.4. Thiết bị - Công nghệ.
- Công nghệ thiết bị sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời
gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế quan trọng đối với sản phẩm
của doanh nghiệp.
- Công nghệ còn tác động tới tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao trình
độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp. Để có công nghệ phù hợp, doanh
nghiệp cần có thông tin về công nghệ, chuyển giao công nghệ, tăng cường nghiên
cứu cải tiến công nghệ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư đổi mới
công nghệ. Đồng thời, doanh nghiệp cần đào tạo nâng cao trình độ tay nghề để sử
dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại.
1.3.4. Các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các
yếu tố bên ngoài doanh nghiệp: môi trường vĩ mô, môi trường vi mô và yếu tố bên
trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào càng bỏ ra nhiều công sức cho việc điều
tra, thu thập thị trường môi trường trên diện càng rộng thì khả năng sống sót của
doanh nghiệp đó càng cao. Việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là nhằm tìm ra những cơ hội, đe dọa, điểm mạnh cũng như
điểm yếu của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp có thể tận dụng và phát huy
17
các điểm mạnh, khắc phục các điểm yếu trong việc khai thác triệt để các cơ hội và
tránh các mối đe dọa từ môi trường bên ngoài mang lại.
1.3.4.1 Môi trường bên ngoài.
a. Môi trường vĩ mô.
- Các yếu tố kinh tế: Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến khả năng tạo lợi
nhuận, khả năng ổn định và phát triển vững mạnh của các doanh nghiệp. Bất cứ sự
biến động nào của lạm phát, tăng trưởng kinh tế xã hội, chính sách tiền tệ… cũng
là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,
thậm chí còn tạo ra khủng hoảng do tác động lây lan của kinh tế thị trường.
Tăng trưởng kinh tế cao hay thấp đều ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Gắn với quá trình tăng trưởng cao là nhu cầu vốn cũng
tăng cao. Tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, an toàn và hiệu quả chính là nền
tảng để hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả.
Thị trường là môi trường kinh doanh rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Thị
trường vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm các đầu vào thông qua hoạt động
mua-bán hàng hóa dịch vụ đầu ra và các yếu tố đầu vào. Thị trường đồng thời còn
là công cụ định hướng, hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp, thông qua mức
cầu, giá cả, lợi nhuận…để định hướng chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Như vậy,
sự ổn định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của doanh
nghiệp nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.
- Các yếu tố xã hội, văn hóa: Những yếu tố này là nhân tố chính trong việc
hình thành thị trường sản phẩm, dịch vụ yếu tố sản xuất. Đây là những yếu tố có
tính biến đổi chậm nên dễ bị các doanh nghiệp lãng quên khi xác định các vấn đề
chiến lược, trong một số trường hợp có thể đưa doanh nghiệp đi đến những thất bại
nặng nề. Các yếu tố này bao gồm: tỷ lệ gia tăng dân số, cơ cấu dân cư về độ tuổi,
giới tính, những chuẩn mực đạo đức, trình độ dân trí, các phong tục tập quán và sự
hiểu biết của người dân, các giá trị văn hoá của quốc gia, địa phương mà doanh
nghiệp đó đặt tại. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh đều tìm
hiểu phong tục tập quán, các yếu tố văn hóa đặc trưng của dân tộc đó. Trong xu thế
18
cạnh tranh hiện nay, các doanh nghiệp sẽ phát huy được ưu thế này vì không ai
hiểu rõ Việt Nam bằng người Việt.
- Các yếu tố chính trị, chính sách và pháp luật: Nếu hệ thống pháp luật (Luật,
pháp lệnh, nghị định, thông tư, quy định…) minh bạch, rõ ràng, kịp thời, đồng bộ
sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Từ đó, các
doanh nghiệp mới phát huy được quyền chủ động, linh hoạt trong hoạt động kinh
doanh và yên tâm rằng mình đã thực hiện đúng pháp luật.
Thể chế, chính sách là tiền đề quan trọng cho hoạt động của doanh nghiệp. Thể
chế chính sách bao gồm pháp luật, chính sách về đầu tư, tài chính, tiền tệ, đất đai,
công nghệ, thị trường…nghĩa là các biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng
như toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, đây là nhóm yếu tố rất
quan trọng và bao quát rất nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp
nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.
Mặt khác, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động của các
DN cũng đa dạng, biến đổi và phát triển không ngừng, vì vậy hệ thống pháp lý
định kỳ phải bổ sung, điều chỉnh một cách kịp thời cho phù hợp với thực tiễn.
- Kết cấu hạ tầng và khoa học, công nghệ:
Kết cấu hạ tầng bao gồm hạ tầng vật chất-kỹ thuật và hạ tầng xã hội, bao gồm
hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục đào
tạo…Đây là tiền đề quan trọng tác động mạnh đến hoạt động của doanh nghiệp,
ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông đã tạo điều kiện cho việc
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, đẩy nhanh quá trình cung cấp
các sản phẩm và dịch vụ với chi phí thấp nhất, tiện lợi nhất, nhanh chóng và kịp
thời sẽ thuận lợi hơn trong việc thu hút khách hàng, từ đó làm cho hiệu quả hoạt
động được nâng cao.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông cũng góp phần vào việc hội
nhập và quốc tế hóa các hoạt động giao dịch của DN, từ đó hiệu quả hoạt động của
DN ngày càng được mở rộng và nâng cao.
- Các yếu tố về tự nhiên: Các yếu tố này bao gồm: khí hậu, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, nguồn năng lượng, môi trường tự nhiên của quốc gia, địa phương…
b. Môi trường vi mô.
19
- Môi trường vi mô có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó quyết định tính chất cũng như
mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong một ngành, một lĩnh vực hoạt động.
Việc chúng ta xác định ảnh hưởng của môi trường vi mô đến hoạt động của doanh
nghiệp cũng đồng thời là tìm ra cơ hội cũng như thách thức của môi trường này tới
doanh nghiệp.
- Môi trường vi mô của doanh nghiệp bao gồm những yếu tố trong ngành và các
yếu tố ngoại cảnh đối với doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh
trong ngành sản xuất kinh doanh đó. Theo Michael E. Porter (Porter, 1996), có
năm yếu tố cơ bản là đối thủ cạnh tranh, khách hàng, người cung cấp, đối thủ mới
tiềm ẩn và sản phẩm Khả thay thế.
Các đối thủ mới tiềm
ẩn
Khả năng thương
lượng của nhà
cung ứng
Nhà cung
ứng
Nguy cơ có các đối thủ cạnh
tranh mới
Các đối thủ cạnh tranh trong
ngành.
Sự tranh đua giữa các doanh
nghiệp có mặt trong ngành.
Khả năng thương
lượng của người
mua
Người
mua
Nguy cơ do các sản phẩm hoặc dịch
vụ thay thế
Sản phẩm thay thế hoặc
dịch vụ
Hình 1.2: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Michael E. Porter
(Nguồn: "Michael Porter - Competitive Strategy: Techniques Analyzing Industries
and Competitors”)
- Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành: Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong
ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một
cường độ cạnh tranh.
20
Trong nền kinh tế thị trường, vì lợi ích của bản thân mình nên các doanh nghiệp
phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh giữa những đối thủ hiện tại cũng giống như
là ganh đua vị trí, sử dụng những chiến thuật như cạnh tranh về giá, chiến tranh
quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường dịch vụ khách hàng hoặc bảo hành.
Cạnh tranh xảy ra bởi vì các đối thủ hoặc là cảm thấy áp lực hoặc là nhìn thấy cơ
hội cải thiện vị trí. Các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt với nhau để chiếm thị
phần. Trong hầu hết các ngành, hành vi cạnh tranh của một doanh nghiệp có ảnh
hưởng rõ rệt đến các đối thủ và do đó có thể kích động sự trả đũa hoặc những nổ
lực chống lại hành vi đó, nghĩa là các doanh nghiệp có sự phụ thuộc lẫn nhau. Hình
mẫu hành vi và phản ứng này không nhất thiết đem lại lợi ích cho doanh nghiệp
khởi đầu cạnh tranh và cả ngành. Nếu các hành vi đối đầu leo thang, tất cả các
doanh nghiệp trong ngành đều có thể thiệt hại.
-Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn: Theo Michael Porter, đối thủ tiềm ẩn là
các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành
trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu
sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỉ suất
sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
Những rào cản gia nhập ngành: là những yếu tố làm cho việc gia nhập vào một
ngành khó khăn và tốn kém hơn.
Khi hội nhập diễn ra, những rào cản về pháp lý nhằm hạn chế các hoạt động
kinh doanh được gỡ bỏ. Khi đó sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ tăng lên. Sự cọ sát với các doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ là động lực
thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn.
- Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế:
21
Áp lực thứ 3 mà Michael Porter muốn đề cập đến trong lý thuyết Porter 5 forces
là sản phẩm và dịch vụ thay thế, là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu
cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm có chức năng gần giống chức năng của
sản phẩm mà doanh nghiệp đang cung cấp. Sản phẩm thay thế có tác động mạnh
đến vòng đời sản phẩm đồng thời có ảnh hưởng đến lợi nhuận tiềm ẩn của doanh
nghiệp thông qua việc áp đặt mức giá trần cho các sản phẩm. Mối đe dọa của sản
phẩm thay thế được đánh giá qua sự đa dạng của sản phẩm thay thế và mức độ đáp
ứng các nhu cầu của khách hàng.
Sản phẩm thay thế đáng được chú ý nhất là những sản phẩm (1) đang có xu
hướng cải thiện đánh đổi giá-chất lượng với sản phẩm của ngành hoặc (2) được các
ngành có lợi nhuận cao sản xuất. Trong trường hợp thứ 2, các sản phẩm thay thế
thường nhanh chóng xuất hiện nếu cạnh tranh trong các ngành đó tăng lên gây sức
ép cắt giảm giá hoặc cải thiện chất lượng.
- Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp.
Các nhà cung cấp có thể thể hiện sức mạnh mặc cả đối với các thành viên trong
một ngành bằng cách đe dọa tăng giá hay giảm chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ.
Các nhà cung cấp hùng mạnh có thể bằng cách đó vắt kiệt lợi nhuận trong một
ngành nếu ngành đó không thể tăng giá bán để bù đắp sự gia tăng chi phí đầu vào.
Những điều kiện khiến cho nhà cung cấp có sức mạnh mặc cả thường ngược lại
những điều kiện đem lại sức mạnh cho khách hàng.
Quy mô nhà cung cấp: Số lượng nhà cung cấp nguồn vốn sẽ quyết định đến áp
lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên
thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh
hưởng tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngành.
- Áp lực cạnh tranh từ khách hàng mục tiêu.
Theo Michael Porter, Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng
trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Khách hàng cạnh
tranh với ngành bằng cách ép giá xuống, mặc cả đòi chất lượng cao hơn hay nhiều
dịch vụ hơn và buộc các đối thủ phải cạnh tranh với nhau-tất cả đều làm giảm lợi
22
nhuận của ngành. Sức mạnh của mỗi nhóm khách hàng quan trọng trong ngành
phụ thuộc vào nhiều đặc trưng của thị trường và vào tầm quan trọng tương đối của
lượng mua từ ngành trong tổng thể hoạt động kinh doanh của chúng
Khách hàng được phân làm 2 nhóm: Khách hàng lẻ; nhà phân phối lớn.
Khách hàng là một bộ phận rất quan trọng góp phần vào sự thành công của
doanh nghiệp. Chúng ta cần điều tra tình hình dân cư, sở thích của từng bộ phận
dân cư để kịp thời đáp ứng các nhu cầu của họ bằng các sản phẩm, dịch vụ tương
ứng.
1.3.4.2. Môi trường bên trong doanh nghiệp.
Nếu việc phân tích các nhân tố của môi trường bên ngoài giúp chúng ta xác
định cơ họi và thách thức của doanh nghiệp thì việc phân tích các nhân tố nội bộ
doanh nghiệp sẽ đưa lại cho chúng ta cái nhình tổng quan về những điểm mạnh
điểm yếu của doanh nghiệp so với yêu cầu nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh
doanh với đối thủ cạnh tranh.
- Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp.
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố có tính quyết định
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh
nói riêng. sự yếu kém trong việc quản trị, điều hành và kiểm soát là nhân ố quan
trọng góp phần làm cho doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Năng lực quản trị
phản ánh khả năng đề ra và lựa trọn những chiến lược kinh doanh phù hợp mang
lại hiệu quả cao nhất
- Trình độ thiết bị công nghệ:
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rấtquan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, việc lựa chọn đúng công nghệ và sử
dụng có hiệu quả công nghệ đó là một khâu hết sức qua trọng cần phải triệt để
quan tâm, xem xét để tăng cường năng lực cạnh tranhva2 gia tăng hiệu quả hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
- Trình độ lao động trong doanh nghiệp:
23
Lao động là một yếu tố có tính quyết định của lực lượng sản xuất, nó có vai trò
rất quan trọng trong sản xuất và trong cạnh tranh kinh tế hiện nay. Đây là một yếu
tố tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức
cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải chú trọng về chất lượng, số lượng,và nâng cao
tay nghề của người lao động,đầu tư kinh phí thỏa đáng,khuyến khích người lao
động tham gia vào quá tình sáng chế,cải tiến
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp:
Năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu
đầu tiện, bắt buộc phải có nếu doanh nghiệp muốn thành công trong kinh doanh và
nâng cao năng lực cạng tranh để nậng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải
củng cố và phát triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, vốn vay dưới nhiều hình thức, và
phải sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả
Là khả năng nắm bắt nhu cầu của tị trường, khả năng thực hiện chiến lược 4P,
khả năng, trình độ Marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiệu thụ sản
phẩm, đáp ứng nhu cấu khách hàng, góp phần tăng doanh thu, tăng thị phần nâng
cao vị thế của doanh nghiệp
1.4. Tổng quan về các công trình nghiên cứu tương tự.
1.4.1. Luận án tiến sỹ kinh tế, đề tài nghiên cứu khoa học”nâng cao năng
lực cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế”
-Tác giả: Tiến sỹ Vũ Hùng Phương
1.4.2. Nội dung và kết cấu của luận án.
1.4.2.1. Nội dung.
- Luận án đã nêu rõ được những tồn đọng và yếu kém của ngành giấy Việt Nam
và đồng thời đưa ra được hệ thống các giải pháp cho ngành giấy nhằm phát huy tối
đa nguồn lực quốc gia và nguồn lực doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho ngành giấy Việt Nam trong điiều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
24
1.4.2.2. Kết cấu luận án:
-Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được trình bầy trong 127 trang với 31
bảng biểu, 23 hình và 101 nguồn tài liệu tham khảo trong và ngoài nước, nội dung
chính gồm ba chương:
-Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạng tranh của ngành của
ngành trong điều kiện kinh rế hội nhập.
-Chương 2: Phân tích thực trạng ngành giấy Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
-Chương 3: Những giải pháp vả kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
cho ngành giấy Việt Nam trong điều kiện kinh tế hội nhập.
1.4.3. Những đóng góp của luận án.
- Thứ nhất: góp phần hoàn thiện và làm phong phú hơn cũng như nâng cao hệ
thống lý luận về cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp
giấy Việt Nam.
- Thứ hai: phân tích và làm rõ nguyên nhân những mặt yếu kém làm giảm tính
cạnh tranh của các doanh nghiệp giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
- Thứ ba: Đã xây dựng được một số giải pháp có tính khả thi để nâng cao năng
lực của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập king tế quốc tế.
25