Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tranh tụng giữa kiểm sát viên và người bào chữa tại phiên tòa hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ TUYẾT HẠNH

TRANH TôNG GI÷A KIÓM S¸T VI£N Vµ NG¦êI BµO CH÷A
T¹I PHI£N TßA H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ TUYẾT HẠNH

TRANH TôNG GI÷A KIÓM S¸T VI£N Vµ NG¦êI BµO CH÷A
T¹I PHI£N TßA H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Thị Tuyết Hạnh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG GIỮA

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.

1.2.3.
1.3.

1.3.1.
1.3.2.
1.4.

KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN
TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................. 8
Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự ................................. 8
Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự ..... 8
Sự thể hiện nguyên tắc tranh tụng trong các giai đoạn tố tụng
hình sự ............................................................................................... 13
Sự thể hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự ................... 17
Khái niệm, đặc điểm và nội dung tranh tụng giữa Kiểm sát
viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ở Việt Nam .......... 21
Khái niệm tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại
phiên tòa hình sự ............................................................................... 21
Đặc điểm tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại
phiên tòa hình sự ............................................................................... 24
Nội dung tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại
phiên tòa hình sự ............................................................................... 26
Các điều kiện đảm bảo và tiêu chí đánh giá chất lượng tranh
tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự
ở Việt Nam ........................................................................................ 28
Các điều kiện đảm bảo tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người
bào chữa tại phiên tòa hình sự ở Việt Nam ....................................... 28
Tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng giữa Kiểm sát viên và
Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ở Việt Nam ............................ 31
Tìm hiểu mô hình tranh tụng của các nước trên thế giới ............ 32



1.4.1. Mô hình tố tụng tranh tụng ................................................................ 33
1.4.2. Mô hình tố tụng thẩm vấn ................................................................. 34
1.4.3. Mô hình tố tụng hỗn hợp ................................................................... 34
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 36
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TRANH
TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM .................................................38
2.1.
Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên
tòa hình sự ........................................................................................ 38
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Quốc hội ban hành Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988 ................................................................. 38
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến
trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ..................... 41
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến nay ... 45
2.2.
Thực tiễn hoạt động tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người
bào chữa tại phiên tòa hình sự ....................................................... 60
2.2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động tranh tụng giữa Kiểm
sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ............................. 60
2.2.2. Một số hạn chế, bất cập trong hoạt động tranh tụng giữa Kiểm
sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ............................. 69
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 79
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN
VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY........................................................................................80

3.1.
Quan điểm về việc nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng
giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ở
nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp ........................................ 80
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng
giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay ................................................... 84


3.2.1.

Hoàn thiện các quy định pháp luật tạo cơ sở đảm bảo nâng cao
hiệu quả tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại
phiên tòa theo đúng tinh thần cải cách tư pháp ................................. 85
3.2.2. Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng trong tố tụng hình sự ....................................................... 87
3.2.3. Xây dựng cơ chế đảm bảo dân chủ, bình đẳng cho việc thực hiện
tranh tụng tại phiên tòa ...................................................................... 89
3.2.4. Đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử và chế độ đãi ngộ
phù hợp với những người tiến hành tố tụng ...................................... 89
3.2.5. Tăng cường công tác giám sát đối với hoạt động xét xử của Toà
án nhân dân và tăng cường quan hệ phối hợp giữa Tòa án với
các cơ quan, tổ chức hữu quan ......................................................... 90
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt

Nghĩa

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CCTP

Cải cách tư pháp

KSV

KSV

NBC

NBC

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTHS


Tố tụng hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tòa án là một thiết chế đặc biệt có chức năng xét xử để bảo vệ công lý,
bảo vệ Quyền con người và thể hiện đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư
pháp của mỗi nhà nước. Trong xét xử, phiên tòa là giai đoạn có vai trò đặc
biệt quan trọng và mang tính quyết định trong giải quyết vụ án, thực hiện các
nhiệm vụ, mục đích tố tụng đặt ra.
Ở nước ta, nhằm đảm bảo xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng ta đã có nhiều quan
điểm, định hướng CCTP, hoàn thiện pháp luật để nâng cao chất lượng hoạt
động xét xử, trong đó có vấn đề tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Tranh tụng
tại phiên tòa hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính công
bằng, dân chủ giữa người tham gia tố tụng với KSV (người thực hành quyền
công tố) để xác định sự thật vụ án và là cơ sở để hội đồng xét xử đưa ra phán
quyết khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, tầm quan
trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa được xác định là một nội dung
trọng tâm của CCTP, khâu đột phá của CCTP. Cụ thể là Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trong tâm

công tác tư pháp thời gian tới” đã xác định:
Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, NBC và những người tham gia tố
tụng khác…; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của NBC, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để

1


ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn quy định… [2].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến
lược CCTP đến năm 2020” cũng xác định:
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [3].
Trên cơ sở quan điểm, định hướng nêu trên, yêu cầu đảm bảo tranh
tụng tại phiên tòa cũng được thể chế hóa trong BLTTHS, theo đó:
KSV, bị cáo, NBC, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra
yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm
tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật
khách quan của vụ án [28, Điều 19].
Đặc biệt là với quy định tại khoản 5, Điều 103 Hiến pháp năm 2013

quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, có thể nói
rằng tranh tụng là nguyên tắc có tính hiến định.
Thực hiện những định hướng, quy định về CCTP nêu trên, trong thời
gian qua việc tranh tụng tại phiên tòa hình sự đã được quan tâm và có những
chuyển biến tích cực, góp phần vào việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án,
khắc phục những bất cập của tình trạng xét xử theo “án bỏ túi”. Tuy nhiên,
thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây cũng cho thấy rằng
việc xét xử chưa thực sự đáp ứng yêu cầu CCTP. Trong nhiều phiên tòa, KSV

2


vẫn còn tâm lý coi việc trình bày xong bản luận tội là hoàn thành nhiệm vụ
mà không cần tranh luận với các ý kiến của bị cáo và những người tham gia
tố tụng; thời gian Hội đồng xét xử dành cho việc xét hỏi bị cáo và người tham
gia tố tụng nhiều hơn là nghe các bên tranh tụng… Vì vậy, việc xét xử trong
một số vụ án hình sự chưa đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật; tỷ lệ bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm còn chiếm tỷ lệ tương đối cao; nhiều vụ án Tòa án phải trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung và còn có bản án, quyết định bị
hủy, bị sửa. Trong năm 2016, tỷ lệ các bản án, quyết định sơ thẩm có kháng
cáo, kháng nghị phúc thẩm là 24,1%; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là
0,72%; bị sửa là 5,28% [38]. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên
là do việc tranh tụng chưa được coi trọng, địa vị pháp lý của các chủ thể tham
gia tranh tụng tại phiên tòa chưa thực sự được bình đẳng; trình tự, thủ tục tranh
tụng chưa đảm bảo tính khoa học…
Thực tế nêu trên cho thấy rằng việc nhận thức đúng đắn về tranh tụng
nói chung, phân tích, làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc
đảm bảo chất lượng tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự của Tòa án. Vì

vậy, tác giả chọn đề tài luận văn “Tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người
bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam" với mong muốn đưa ra một số
kiến nghị nâng cao chất lượng tranh tụng, đảm bảo tính khách quan, dân chủ
trong xét xử các vụ án hình sự và tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến tranh tụng nói chung, tranh tụng giữa KSV và NBC tại
phiên tòa hình sự nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu ở các góc độ
khác nhau. Cụ thể là một số công trình nghiên cứu sau đây:
- "Vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự và việc thể chế

3


hóa trong quá trình hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả
Lê Hữu Thể đăng trên Thông tin khoa học pháp lý, (5 + 6/2002), tr. 4-5.
- "Kết hợp các yếu tố tranh tụng vào thủ tục tố tụng xét hỏi - một yêu
cầu của CCTP" của tác giả Phan Hữu Thư đăng trên Đặc san Nghề luật,
(5/2003), tr. 3-12.
- "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" của tác giả Trần Đại
Thắng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số chuyên đề (9/2003), tr. 25-30.
- "Một số vấn đề cần nghiên cứu thêm trong dự thảo Bộ luật tố tụng hình
sự" của tác giả Lê Kim Quế đăng trên Tạp chí Tòa án, (10/2003), tr. 10-11;
- "NBC trong giai đoạn điều tra" của tác giả Lê Kim Quế, đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật (12/2004), tr. 45- 47.
- “Vai trò của Hội đồng xét xử trong việc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
hình sự" của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Tòa án, (1/2004), tr. 4-8.
- "Về việc thực hiện thủ tục xét hỏi kết hợp với tranh tụng tại phiên tòa"
của tác giả Huỳnh Sáng đăng trên Tạp chí Tòa án, (3/2004), tr. 4-5.
- "Cơ quan thực hành quyền công tố trong CCTP ở nước ta hiện
nay" của tác giả Đỗ Văn Đương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

(7/2006), tr.22-24.
- "Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Dương Thanh Biểu,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007.
- "Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát theo yêu cầu CCTP"
của tác giả Nguyễn Duy Giảng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, (14/2008), tr.32-33.
- "Chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam” của tác giả Thị
Đông, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.

4


- "Chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên” của tác giả Phạm Văn
Hòa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012.
- "Chất lượng thực hành quyền công tố phiên tòa xét xử các vụ án hình
sự của KSV Viện Kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” của
tác giả Lê Hồng Phong, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2013.
- "Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự” của tác giả Hoàng Thị
Quỳnh Chi,
- “Cần nâng cao năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận của KSV tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm” của tác giả Thanh Nghị, http://www. tapchikiemsat.org.vn.
Ngoài ra cũng còn nhiều đề tài, công trình nghiên cứu được công bố
trên các báo, tạp chí… đề cập đến hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự,
trong đó có vấn đề tranh tụng giữa KSV và NBC. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu được công bố đã đề cập đến một số vấn đề như khái niệm tranh
tụng, mô hình tranh tụng trong tố tụng hình sự; chất lượng tranh tụng trong

xét xử các vụ án hình sự... Tuy nhiên, ít có công trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề tranh tụng trong phiên tòa hình sự giữa KSV và NBC. Vì vậy, trên cơ
sở kế thừa, tham khảo các kết quả nghiên cứu đã công bố, luận văn tiếp tục
làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn tranh tụng giữa KSV và NBC tại
phiên tòa hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam nhằm góp phần
đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa hình sự trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực trạng tranh tụng giữa KSV và NBC tại phiên tòa hình sự theo pháp luật tố
5


tụng hình sự của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tranh tụng giữa KSV và NBC tại
phiên tòa hình sự Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của tranh tụng
giữa KSV và NBC tại phiên tòa hình sự...
- Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về tranh tụng giữa KSV và NBC tại phiên tòa hình sự.
- Phân tích một số quan điểm, giải pháp đảm bảo nâng cao hiệu quả
tranh tụng giữa KSV và NBC trong phiên tòa hình sự ở nước ta hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng giữa KSV và NBC có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều
góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên
cứu thực trạng tranh tụng giữa KSV và NBC tại phiên tòa hình sự theo các
quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và các văn bản quy phạm pháp

luật liên quan.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, phương pháp luận tiếp cận nghiên cứu
của luận văn là phép duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phân tích, tổng hợp, so sánh
thống kê, tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về
tranh tụng trong xét xử hình sự nói chung, tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói
riêng. Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận, đánh giá khoa học, thấy rõ những mặt
được, những vướng mắc bất cập và có những giải pháp nâng cao hiệu quả

6


hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự, góp phần đảm bảo quyền con
người, quyền công dân trong tố tụng hình sự ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng giữa Kiểm sát viên và
Người bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tranh tụng
giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh
tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự ở Việt Nam
hiện nay.

7



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG
GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
hình sự
1.1.1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Trong đời sống xã hội, việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật có
dấu hiệu tội phạm được quy định trong BLHS được thực hiện theo các trình
tự, thủ tục pháp luật quy định. Về nguyên tắc, việc thực hiện các trình tự, thủ
tục tố tụng dựa trên chức năng, thẩm quyền của các chủ thể tiến hành tố tụng,
bởi vậy có thể quan niệm các giai đoạn TTHS là các bước của quá trình
TTHS tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của chủ thể tiến hành tố tụng có
thẩm quyền nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan
và đúng pháp luật. Tuy nhiên, tùy vào cách tiếp cận, việc xác định các giai
đoạn TTHS cũng có quan điểm khác nhau. Căn cứ các quy định về thẩm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng theo BLTTHS, có thể chia quá trình
TTHS thành các giai đoạn khởi tố - điều tra - truy tố - xét xử - thi hành án
hình sự. Có quan điểm khác cho rằng việc giải quyết vụ án hình sự nhằm mục
đích quan trọng nhất là xác định một người có phạm tội và phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không, vì vậy có thể chia quá trình TTHS thành các giai
đoạn: khởi tố- điều tra- truy tố - xét xử.
Tuy có thể có nhiều quan niệm khác nhau về các giai đoạn TTHS
nhưng vấn đề quan trọng nhất của quá trình TTHS là Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát (cơ quan công tố) và Tòa án phải xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội

8



và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Vì vậy, căn cứ vào chức năng của
các cơ quan tiến hành TTHS, chúng tôi đồng tình với quan điểm chia quá
trình TTHS thành các giai đoạn cơ bản là khởi tố - điều tra- truy tố - xét xử.
“Tranh tụng”, về mặt thuật ngữ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Theo Từ điển tiếng Việt, “tranh tụng có nghĩa là sự kiện cáo lẫn nhau
giữa hai người (bên nguyên và bên bị) có lập trường tương phản yêu cầu Tòa
án phân xử” [22, tr.1238]. Tranh tụng có thể hiểu theo nghĩa Hán – Việt là
tranh luận trong tố tụng. Có quan điểm khác cho rằng tranh tụng là một thủ
tục trong TTHS và trong một số trường hợp có thể đồng nhất tranh tụng với
tranh luận tại phiên tòa. Có quan điểm cho rằng tranh tụng là tranh luận trong
quá trình tố tụng tại phiên tòa và được tính từ khi “khai mạc phiên tòa đến
trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án” [32, tr.16]. Tuy có nhiều quan niệm
khác nhau về tranh tụng nhưng về bản chất, để đảm bảo tính khách quan,
công bằng, đúng pháp luật trong việc xác định sự thật của vụ án hình sự thì
trong quá trình tố tụng phải có sự cọ sát các quan điểm, tranh luận, chứng
minh, bảo vệ ý kiến giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham
gia tố tụng về các tình tiết của vụ án, hay nói cách khác là để xác định sự thật
của vụ án hình sự thì cần phải có sự tranh tụng trong quá trình TTHS. Tuy
nhiên, vấn đề đang còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau là cần hiểu
và nhận thức tranh tụng là hình thức tố tụng, thủ tục xét xử vụ án hay là một
nguyên tắc trong tố tụng TTHS nói chung, hoặc chỉ trong phiên toà xét xử
hình sự nói riêng. Thực tế cho thấy quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua
các giai đoạn tiếp nối nhau nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, kết quả
của các giai đoạn tố tụng có mối quan hệ biện chứng, logic với nhau, do đó
việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự không chỉ thể hiện ở từng
giai đoạn mà phải trong toàn bộ quá trình TTHS; hay nói cách khác là tranh


9


tụng để đảm bảo sự thật khách quan của vụ án hình sự cần được coi là nguyên
tắc xuyên suốt quá trình TTHS. Vì vậy, có thể quan niệm “Tranh tụng là quá
trình xác định sự thật khách quan về vụ án hình sự, đồng thời cũng là phương
tiện để đạt được mục đích và nhiệm vụ của quá trình TTHS”.
Những phân tích khái quát trên cho thấy rằng để đạt được mục đích
tranh tụng thì quá trình tranh tụng phải đảm bảo sự bình đẳng của bên buộc
tội và bên bị buộc tội trong việc thu thập và đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo
vệ các quan điểm, lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm, lợi ích của
phía đối lập theo các trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Từ đó, có thể khái
niệm: Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS là những tư tưởng chỉ đạo và định
hướng đường lối cho toàn bộ hoạt động TTHS để giải quyết vụ án hình sự
một cách khách quan, đúng pháp luật.
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng, để việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng
là đảm bảo sự bình đẳng cho bên buộc tội và bên bị buộc tội trong việc thu
thập và đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo vệ các quan điểm, lợi ích của mình.
Trong quá trình TTHS, tranh tụng có thể coi như được bắt đầu khi xuất hiện
sự buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân cụ thể
hoặc một số người xác định qua việc ra quyết định tạm giữ, khởi tố bị can cho
đến khi có bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án (bởi vì, kể từ khi có
quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can thì người bị tạm giữ, bị can với
góc độ là bên bị buộc tội có quyền có sự bào chữa để chống lại sự buộc tội đó
- tức là khi xuất hiện sự đối trọng giữa bên buộc tội và bên bào chữa).
1.1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Như đã đề cập ở trên, mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách
quan về vụ án hình sự, đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích
của quá trình TTHS, vì vậy việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong Hiến


10


pháp nói chung, trong Luật tố tụng hình sự nói riêng có một số ý nghĩa quan
trọng sau đây:
Một là, tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho việc làm rõ sự thật khách quan
của vụ án hình sự.
Mục đích của quá trình TTHS là để xác định một người có phạm tội
theo quy định của Bộ luật Hình sự và có phải chịu trách nhiệm hình sự hay
không, vì vậy pháp luật quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách
nhiệm chứng minh tội phạm thông qua việc thực hiện các biện pháp hợp pháp
để xác định sự thật khách quan của vụ án, còn người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
cũng có quyền tranh tụng để chứng minh mình vô tội (tuy rằng không bắt
buộc). Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng sự thật khách quan của vụ án không
chỉ dựa trên những quyết định, hành vi tố tụng đơn phương của các cơ quan
tiến hành tố tụng mà cần phải dựa trên sự tranh luận, phản biện giữa người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra đến xét xử để
xác định một người có bị coi là có tội hay không. Bởi vậy, tranh tụng có thể
coi là một cơ chế, biện pháp hiệu quả bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật
khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hai là, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng; nâng cao trách nhiệm và ngăn ngừa việc lạm quyền của những người
tiến hành tố tụng.
Về nguyên tắc, pháp luật đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể trong
quá trình tố tụng, tuy nhiên, trong thực tế người tham gia tố tụng thường có “vị
thế yếu hơn” so với người tiến hành tố tụng, do đó để hướng đến sự bình đẳng
thực sự, pháp luật đã quy định về quyền của những người tham gia tố tụng, đặc
biệt là quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [28, Điều 11]. Như

vậy, quyền bào chữa có thể coi là tiền đề quan trọng đảm bảo cho việc

11


tranh tụng trong TTHS, tuy nhiên tùy từng giai đoạn tố tụng mà nguyên tắc
tranh tụng được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Ví dụ như trong giai
đoạn điều tra, bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì; được
trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa...
Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng không chỉ đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của những người tham gia tố tụng (nhất là người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo) trong việc trình bày, tranh luận với người tiến hành tố tụng về các
chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án mà còn đảm bảo nâng cao trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền
hạn, nghĩa vụ pháp luật quy định, trong đó quan trọng nhất là “trách nhiệm
chứng minh tội phạm”, đồng thời nguyên tắc tranh tụng có thể coi là cơ chế
ngăn ngừa, cảnh báo cơ quan, người tiến hành tố tụng có các quyết định, hành
vi tố tụng trái pháp luật (ví dụ: mớm cung, ép cung, dùng nhục hình...).
Ba là, việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong Luật TTHS thể hiện
sự tương đồng, hội nhập quốc tế của pháp luật TTHS Việt Nam với các nước
trên thế giới và tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong TTHS.
Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng đã được quan tâm và đề cập
trong nhiều văn kiện của Đảng cũng như các văn bản quy phạm pháp luật,
tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rằng nhiều quy định về tranh tụng trong TTHS
còn thiếu cụ thể, chưa đảm bảo tính khả thi. Vì vậy, việc Hiến pháp chính
thức ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử nói chung, trong TTHS nói
riêng đã thể hiện cam kết mạnh mẽ hơn về tinh thần CCTP và hội nhập quốc
tế của pháp luật TTHS Việt Nam nhằm phát huy tính công bằng, dân chủ

đầy đủ hơn trong TTHS, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (ví dụ
như: quyền bình đẳng trước tòa án; quyền được coi là vô tội cho tới khi

12


hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật; quyền được
bào chữa…) [18]; đồng thời cũng là cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện các
quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong TTHS, nhất là tại phiên tòa
hình sự và hướng đến mô hình vừa xét hỏi vừa tranh tụng hoặc mô hình
tranh tụng (hiện nay là mô hình xét hỏi).
1.1.2. Sự thể hiện nguyên tắc tranh tụng trong các giai đoạn tố tụng
hình sự
Để việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng là đảm bảo sự bình đẳng cho bên
buộc tội và bên bị buộc tội trong việc thu thập và đưa ra tài liệu, chứng cứ để
bảo vệ các quan điểm, lợi ích của mình. Trong quá trình TTHS, tranh tụng có
thể coi như được bắt đầu khi xuất hiện sự buộc tội của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với một cá nhân cụ thể hoặc một số người xác định qua việc
ra quyết định tạm giữ, khởi tố bị can, bởi vì, kể từ khi có quyết định tạm giữ,
quyết định khởi tố bị can thì người bị tạm giữ, bị can với góc độ là bên bị
buộc tội có quyền có sự bào chữa để chống lại sự buộc tội đó (tức là khi xuất
hiện sự đối trọng giữa bên buộc tội và bên bào chữa) và quá trình tranh tụng
được xem là kết thúc khi có bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án.
Giải quyết vụ án công khai, dân chủ, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội, đảm bảo công lý, công bằng là trách nhiệm không chỉ thuộc
về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là quyền của
NBC và những người tham gia tố tụng khác, đồng thời cũng là đòi hỏi của xã
hội. Quá trình TTHS gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau được thể hiện qua việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan

tiến hành tố tụng. Ở mỗi giai đoạn TTHS đều thể hiện việc tranh luận, phản
biện, trao đổi giữa bên giữ chức năng buộc tội (cơ quan tiến hành tố tụng) và
bên bào chữa (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư) và tùy thuộc vào đặc

13


điểm của mỗi giai đoạn TTHS mà nguyên tắc tranh tụng được thể hiện với
cách thức, kết quả cụ thể.
- Ở giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố vụ án hình sự: Tranh tụng mới
chỉ xuất hiện hai chức năng: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa mà
chưa có sự tham gia của chức năng xét xử, bản thân các chủ thể bào chữa và
buộc tội cũng chưa hiện diện công khai thực hiện quyền năng của mình. Quá
trình tranh tụng thể hiện bằng các quyền đưa ra lập luận yêu cầu bác bỏ lập
luận ý kiến của bên kia mới chỉ ở giai đoạn giả thiết về từng vấn đề mà giai
đoạn này chứng minh (ví dụ như bị can cho rằng hành vi vi phạm của mình
không đủ yếu tố cấu thành tội phạm; luật sư cho rằng việc khởi tố bị can
không đúng tội danh…). Tuy nhiên, sự đối lập của chức năng buộc tội và
chức năng bào chữa chỉ dừng ở việc đưa ra các lý lẽ, quan điểm, viện dẫn
khác nhau mà chưa đi đến đỉnh điểm khi chưa có sự phân xử, đánh giá có tính
chất trọng tài của người có thẩm quyền là Thẩm phán hay Hội đồng xét xử.
- Ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự: theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tư
pháp tức là pháp đình, là tòa án, là y theo pháp luật mà xét định các việc trong
phạm vi pháp luật, “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi vi
phạm các qui định của pháp luật nhà nước” [5, tr. 23] và có thể nói rằng sự xuất
hiện của tòa án và xét xử từ khi nhà nước ra đời. Vì vậy, có thể nói rằng giai đoạn
xét xử thể hiện vị trí trung tâm của Tòa án, thể hiện rõ nét nhất hoạt động tranh
tụng, trong đó tập trung nhất ở phần tranh luận giữa KSV và những người
tham gia tố tụng… tại phiên tòa.
Theo quy định pháp luật, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,

bị cáo và người bị hại…có thể tự bào chữa hoặc nhờ NBC và NBC có thể là
Luật sư; Người đại diện hợp pháp của bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy rằng trong hầu hết các vụ án, NBC chủ yếu là Luật sư,
vì vậy việc tranh tụng trong giai đoạn xét xử được thể hiện tập trung ở tranh
tụng giữa KSV và Luật sư.
14


Hoạt động tranh tụng diễn ra dưới sự điều khiển của chủ toạ phiên toà,
chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm
dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp tranh tụng cho
phù hợp với quy định của pháp luật và sự cần thiết làm rõ các vấn đề của vụ
án. Tại phiên tòa, với sự tham gia đầy đủ của những người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng, vì vậy với việc tiến hành các trình tự, thủ tục xét
xử trực tiếp, công khai, có thể nói rằng việc tranh tụng tại phiên tòa thể hiện
đầy đủ ba chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử và thể hiện một cách toàn
diện kết quả của các hoạt động tranh tụng đã diễn ra trước đó. Các chủ thể
tiến hành tranh tụng tại phiên tòa gồm KSV và người tham gia tố tụng khác
(bị cáo, NBC, người bị hại…) mặc dù có địa vị pháp lý khác nhau nhưng bình
đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu và tranh luận về
các quan điểm, luận cứ, luận chứng có tính xung đột để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án; khẳng định quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa
nhận quan điểm của bên tranh tụng đối lập. Trên cơ sở các quan điểm, tranh
luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa như vậy, Hội đồng xét xử sẽ xác định
quan điểm có tính thuyết phục về từng vấn đề cần xem xét để làm cơ sở cho
việc giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật.
Tuy nhiên, trong xét xử các vụ án hình sự, việc tranh tụng cũng có sự
khác biệt tùy thuộc vào tính chất của phiên tòa. Đó là:
+ Tại phiên tòa sơ thẩm, với tính chất là xét xử lần đầu đối với vụ
án, theo đó tại phiên tòa có mặt đầy đủ các chủ thể và quá trình tranh tụng

được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội,
bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và
xét xử. Vì vậy, nội dung và phạm vi tranh tụng xoay quanh nội dung của
cáo trạng và các yêu cầu khác của chủ thể buộc tội nêu ra đề nghị Hội đồng
xét xử giải quyết.

15


+ Tại phiên tòa phúc thẩm, với tính chất là xét xử lại khi bản án sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị nên Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ có trách nhiệm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định
sơ thẩm có kháng cáo hoặc bị kháng nghị (ngoại trừ trường hợp có thể xem
xét các phần khác của bản án sơ thẩm tuy không có kháng cáo hoặc kháng
nghị nhưng có cơ sở để xem xét giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo). Do đó,
phạm vi tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm tập trung chủ yếu vào những nội
dung có kháng cáo, kháng nghị; trong trường hợp người tham gia tố tụng
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, kháng cáo kêu oan thì cấp phúc thẩm có
trách nhiệm xem xét lại toàn bộ vụ án và trong trường hợp này, việc tranh
tụng là nhằm kiểm tra lại toàn bộ quan điểm truy tố và toàn bộ hồ sơ vụ án.
Cũng xuất phát từ phạm vi kháng cáo, kháng nghị để xét xử theo thủ tục phúc
thẩm nên thành phần tham gia tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm cũng hạn
chế hơn so với phiên tòa sơ thẩm, đó là chỉ người kháng cáo hoặc bị kháng
cáo, kháng nghị là bắt buộc phải có mặt; còn các chủ thể khác như bị cáo
không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị, người bị hại, người
làm chứng... thì không bắt buộc mà tùy thuộc vào Tòa án xem xét có cần thiết
phải triệu tập hay không.
+ Đối với việc xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, có quan
điểm cho rằng đây là những thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật trong một số trường hợp đặc biệt và có thể dẫn đến việc phải

thực hiện những thủ tục tố tụng mới như điều tra, xét xử lại vụ án hình sự nên
không có sự hiện diện của các bên (nhất là bên gỡ tội) nên không có tranh
tụng. Tuy nhiên, tác giả luận văn cho rằng trong xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm và tái thẩm, pháp luật quy định khi cần thiết Tòa án phải triệu tập người
bị kết án, NBC và có thể triệu tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa [28, Điều 280, 297], do đó tại

16


phiên tòa khi có sự tham gia của Viện kiểm sát và người bị kết án, NBC thì
cũng có nghĩa là có sự tranh tụng, tuy rằng nội dung, chủ thể tham gia tranh
tụng có hạn chế hơn và phụ thuộc vào việc Tòa án xem xét có cần thiết phải
triệu tập người bị kết án, NBC hay không.
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong các giai đoạn
TTHS nhưng chủ yếu là tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bắt đầu từ khi Toà
án mở phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
cho thấy rằng khi xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm
rất ít khi Tòa án triệu tập người bị kết án, NBC, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, vì vậy có thể nói rằng nguyên tắc tranh tụng được thể hiện đầy đủ
và tập trung nhất trong phần tranh luận, đối đáp hai chiều giữa KSV và những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm vụ án hình sự.
1.1.3. Sự thể hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Thứ nhất, phiên tòa là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định
hiệu quả của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Về bản chất, quá trình tranh tụng chính là quá trình xác định sự thật
khách quan về vụ án. Tranh tụng cũng là phương tiện để đạt được mục đích
và nhiệm vụ đặt ra của TTHS giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện,
nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Tranh tụng còn là hình thức tố tụng
bảo đảm cho các chủ thể (các bên và Toà án) có thể thực hiện có hiệu quả

chức năng của mình trong TTHS, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử vụ án. Tranh
tụng không những thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của TTHS mà còn
là cơ sở để xác định địa vị tố tụng, vị trí, vai trò và chức năng của các chủ thể
tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố tụng. Vì thế, tranh tụng
không chỉ là phương pháp nhằm thực hiện mục đích xác định sự thật khách
quan trong vụ án hình sự mà còn là một nguyên tắc của TTHS. Việc khẳng
định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS có ý nghĩa to lớn trong

17


việc bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực TTHS, vì thế nguyên tắc
tranh tụng đã được thừa nhận có tính phổ quát và được quy định trong pháp
luật của hầu hết các quốc gia. Tại Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
của Liên Hợp Quốc ngày 10/12/1948 ghi nhận: "Mọi người đều có quyền
hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước một Toà
án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình
hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Toà".
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện
dưới hình thức tranh luận, phản bác công khai các quan điểm giữa các bên
về vụ án và được thể hiện rõ nhất khi cùng lúc thể hiện rõ ba chức năng:
buộc tội, bào chữa và tài phán tương ứng thuộc về bên buộc tội, bên bào
chữa và Toà án. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng hình sự không chỉ được
ghi nhận ở một điều luật cụ thể mà nó được thể hiện và cụ thể hoá trong
nhiều quy phạm pháp luật TTHS có liên quan và thống nhất với nhau để tạo
thành một chế định pháp lý hoàn chỉnh xuyên suốt toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Vì vậy, có thể nói rằng nguyên tắc tranh tụng được thể
hiện một cách đầy đủ và tập trung rõ nét nhất ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự (mà rõ nét nhất là ở phiên tòa hình sự). Phiên tòa thể hiện rõ vai
trò và vị trí đặc biệt của Toà án trong tranh tụng, Toà án phải tạo mọi điều

kiện mà pháp luật cho phép để các bên có thể phát huy hết tính chủ động và
tích cực khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Với vai trò là chủ thể chính
trong việc đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên các chứng cứ của các chủ thể
khác xuất trình tại phiên toà, Toà án phải tham gia ở một mức độ cần thiết vào
quá trình tranh tụng để làm rõ các chứng cứ và tình tiết về vụ án. Tuy nhiên,
Toà án không được để chủ thể nào bị động khi tham gia tranh tụng bằng cách
làm thay chức năng của họ và ngược lại không được để quá trình tranh tụng
diễn biến theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ thể nào tham gia phiên toà.

18


×