Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THÚY VÂN

B¶O §¶M QUYÒN BÊT KH¶ X¢M PH¹M VÒ TH¢N THÓ
CñA C¤NG D¢N THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THÚY VÂN

B¶O §¶M QUYÒN BÊT KH¶ X¢M PH¹M VÒ TH¢N THÓ
CñA C¤NG D¢N THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. CHU THỊ TRANG VÂN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thúy Vân


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ THÂN THỂ CỦA CÔNG DÂN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................................. 7
1.1.

Khái niệm, nội dung bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân theo Luật Tố tụng hình sự .......................... 7

1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo Luật Tố tụng hình sự..................................................... 7
1.1.2. Nội dung bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo Luật Tố tụng hình sự................................................... 11
1.2.


Ý nghĩa của bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của công dân trong Luật Tố tụng hình sự ..................................... 18

1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân trong Luật Tố tụng hình sự ....... 20

1.3.1. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật ............................................... 21
1.3.2. Năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, tinh thần
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng ............................................ 22
1.3.3.

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền ........ 23

1.3.4. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với người
tiến hành tố tụng ................................................................................. 24
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 26


Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ THÂN
THỂ CỦA CÔNG DÂN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ............................. 28
2.1.

Khái quát pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân ..................... 28

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến khi Quốc hội ban hành Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 1988 ....................................................................... 28
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến
trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ..................... 34
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến nay.... 38
2.2.

Thực tiễn bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo Luật Tố tụng hình sự............................................... 59

2.2.1. Những kết quả đạt được về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân theo Luật Tố tụng hình sự .............................. 59
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân theo Luật Tố tụng hình sự ............... 63
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 73
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN BẤT
KHẢ XÂM PHẠM VỀ THÂN THỂ CỦA CÔNG DÂN THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .....74
3.1.

Quan điểm bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của công dân theo Luật Tố tụng hình sự ....................................... 74

3.1.1. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân theo
Luật Tố tụng hình sự cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối
của Đảng về bảo đảm quyền con người và cải cách tư pháp hiện nay .... 74
3.1.2. Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động TTHS,
nhất là kiểm sát hoạt động tư pháp..................................................... 76


3.1.3. Đảm bảo tính độc lập và năng lực của người tiến hành tố tụng

trong việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân ............................................................................................. 77
3.2.

Một số giải pháp bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể của công dân theo Luật TTHS .................................................. 79

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nói chung, các quy
định về các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng ...... 79
3.2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
của người tiến hành tố tụng ................................................................. 84
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam của các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự để tránh oan, sai ............................................................. 86
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.............................................. 87
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện bảo đảm cho việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân .......................................................... 92
3.2.6. Tăng cường sự tham gia của người bào chữa kể từ khi tạm giữ người ........ 93
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người, quyền công dân luôn là vấn đề được các quốc gia
quan tâm và bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm

đến việc bảo vệ quyền con người:
Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [21, Điều 14].
Để bảo vệ quyền con người, Nhà nước luôn hoàn thiện hệ thống pháp
luật và các cơ chế, thiết chế phù hợp, đặc biệt là ngăn ngừa, bảo vệ sự vi
phạm các quyền cơ bản là quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính
trị của một cá nhân, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong các quyền cơ bản
của con người, được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc
năm 1948, Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966 và
hiện tại được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, theo đó:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai
bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm
tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định…[21, Điều 20].

1


Việc Hiến pháp quy định như vậy cho thấy quyền bất khả xâm phạm về
thân thể là nguyên tắc quan trọng nhằm ngăn chặn mọi hành vi tùy tiện xâm
phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người. Bởi vậy, để bảo
đảm thực thi nguyên tắc này trong thực tế, các cơ quan có thẩm quyền đã ban

hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về các tội phạm xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; quy định quyền
được bồi thường thiệt hại khi bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe…, đặc biệt
“Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân” là một trong
những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS). Theo đó, để
tôn trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, Nhà nước quy
định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt, nếu
không có quyết định của Toà án , quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang ; việc giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật TTHS ;
nghiêm cấm tra tấn , bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể , tính mạng, sức khỏe của con người.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Bộ luật TTHS, có thể thấy rằng
để bảo đảm quyền bất khả xâm phạm của công dân, đồng thời đảm bảo ngăn
chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện hành vi phạm tội có thể trốn, tiêu
huỷ chứng cứ hoặc gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hình sự thì vấn đề quan trọng nhất là phải có những quy định cụ thể,
chặt chẽ về việc bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHS. Thực tiễn thời gian qua
cho thấy việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
nhìn chung của các cơ quan có thẩm quyền ở nước ta luôn được tôn trọng,
việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng được đảm bảo
đúng pháp luật, có căn cứ, kịp thời, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng oan, sai

2


trong điều tra, bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử gây nhiều bức xúc trong
dư luận xã hội và xâm phạm đến các quyền con người, quyền công dân được
pháp luật bảo vệ. Theo Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, năm

2016, Viện kiểm sát các cấp đã:
Thay đổi, hủy bỏ 6.807 lệnh tạm giam, không phê chuẩn 108 trường
hợp bắt khẩn cấp và 181 trường hợp bắt tạm giam; hủy quyết định
tạm giữ và không phê chuẩn gia hạn tạm giữ đối với 374 người;
không phê chuẩn lệnh tạm giam 222 bị can, không gia hạn tạm
giam 11 bị can; quyết định trả tự do cho 54 người bị tạm giam
không có căn cứ, trái pháp luật; quyết định trả tự do cho 05 phạm
nhân… và phát hiện 08 trường hợp quá hạn tạm giữ, 10 trường hợp
quá hạn tạm giam [28].
Nguyên nhân của thực trạng trên là do thể chế và thực tiễn hoạt động
của các cơ quan có thẩm quyền nói chung, các cơ quan tiến hành TTHS nói
riêng trong việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân còn những hạn chế, bất cập. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân tác giả chọn đề tài:
“Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân theo Luật
tố tụng hình sự Việt Nam” nhằm đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải
pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của công dân theo Luật tố tụng hình sự đã có một số công trình nghiên cứu
với những góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu sau đây:
- "Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam” của tác
giả Nguyễn Tiến Đạt đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 (34)/2006.

3


- “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của

tác giả Đinh Thế Hưng, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia
Hà Nội, 2007.
- "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Phượng, Luận án Tiến sỹ luật học, Khoa Luật
Đại học quốc gia Hà Nội, 2008.
- "Bảo đảm quyền trẻ em trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân” của tác giả Trương Thị Hương Mai, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
- "Bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Quang Hiền, Luận án Tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, 2009.
- "Về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2009.
- "Áp dụng pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự ở tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Nguyễn Thái
Thịnh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2010.
- “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người” (Sách chuyên khảo) của
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2011.
- “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành viên theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Hưng Bình, Luận án
Tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội, 2013.
- "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự” của tác giả Phạm
Hồng Phong đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 10 (2014)...
Ngoài ra, liên quan đến đề tài cũng còn nhiều công trình nghiên cứu

4



được công bố trên các báo, tạp chí, trang web… Đánh giá chung có thể thấy
các các công trình được công bố đã đề cập đến một số vấn đề về bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể như khái niệm, đặc điểm, nội dung bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong TTHS... Tuy
nhiên, trên cơ sở kế thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu đã công bố, luận văn
tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, qua đó đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân trong Luật TTHS ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân dưới góc độ là một nguyên tắc trong Luật TTHS ở Việt Nam và đưa ra
một số giải pháp bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân trong Luật TTHS như: khái niệm, nội dung,
vai trò của bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong
Luật TTHS.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phân tích một số quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân theo Luật TTHS trong giai đoạn hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Bảo đảm quyền bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân theo Luật TTHS có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác
5



nhau, đối với bất kỳ công dân nào bị tác động hoặc ảnh hưởng bởi các hoạt
động TTHS. Tuy nhiên, dưới góc độ bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là những người trực
tiếp là đối tượng của hoạt động TTHS, bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo theo các quy định pháp luật TTHS hiện hành và các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin; kết hợp các phương
pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh thống kê, tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Từ việc phân tích có hệ thống các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong Luật TTHS; đánh giá thực
trạng và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bảo đảm quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân theo Luật TTHS ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu luận văn có thể sử dụng tham khảo phục vụ công
tác giảng dạy, đào tạo về nghiệp vụ khoa học TTHS cho các chức danh của cơ
quan tiến hành TTHS ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân theo Luật TTHS.
Chương 2: Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
trong Luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân theo Luật TTHS ở nước ta hiện nay.


6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ THÂN THỂ CỦA
CÔNG DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, nội dung bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân theo Luật Tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo Luật Tố tụng hình sự
Quyền con người là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trịxã hội quốc tế và mỗi quốc gia. Dưới góc độ lịch sử và ở bình diện quốc tế,
quyền con người gắn với sự đấu tranh vì tự do, bình đẳng, dân chủ và sự công
bằng của con người. Điều này được thể hiện qua các văn kiện quốc tế ghi
nhận yêu cầu tôn trọng và bảo đảm các quyền con người như: Tuyên ngôn
độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ (Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc); Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Cộng hòa Pháp
(Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng và quyền lợi…); Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm
1948 (Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể) [10, Điều 3];
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Mọi người đều
có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân; không ai bị bắt hoặc bị giam giữ
vô cớ) [11, Điều 9]...
Trên cơ sở các văn kiện quốc tế về quyền con người được các quốc gia
thông qua, phê chuẩn cho thấy quyền con người có tính phổ quát, không có sự
phân biệt, không thể bị tước bỏ và có tính đặc thù tùy thuộc vào điều kiện

7



chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia (quyền được
bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền bất khả xâm
phạm về thân thể; quyền bào chữa, quyền được bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khỏe bị xâm phạm; quyền không bị tra tấn, dùng nhục hình...). Bởi
vậy, để bảo đảm các quyền con người, mỗi quốc gia đều ghi nhận và bảo vệ
các quyền con người cho công dân bằng các biện pháp lập pháp, hành chính
và tư pháp phù hợp với điều kiện của quốc gia mình.
Ở Việt Nam, kế thừa truyền thống tôn trọng và bảo vệ quyền con người
trong lịch sử và những tư tưởng tiến bộ về quyền con người trên thế giới, ngay
sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa được thành lập, ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong đó nêu rõ: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc". Với tư tưởng đó, từ năm 1945 đến nay, các quyền
con người đã được ghi nhận, bảo đảm bởi pháp luật trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội và không ngừng được hoàn thiện qua các giai đoạn phát triển của đất
nước. Trong các quyền con người, cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế
giới, pháp luật của nước ta luôn đề cao quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
cá nhân và bảo đảm bởi các cơ chế pháp luật đặc biệt thông qua các quy định của
Hiến pháp, các đạo luật và văn bản hướng dẫn thi hành. Ví dụ như: “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể” [18, Điều 20]; Chương XIV Bộ luật
Hình sự năm 2015 quy định về các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người); Bộ luật TTHS 2015 quy định: “Bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể” [25, Điều 10]; Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, thân thể...; người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe... của


8


người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [22, Điều 33, Điều 584].
Các quy định pháp luật về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân như vậy không chỉ thể hiện thái độ trân trọng của Nhà nước ta mà
còn là cơ chế ngăn chặn mọi hành vi tùy tiện xâm phạm thân thể con người.
Về bản chất, quyền bất khả xâm phạm về thân thể gắn liền với sự tự do
cá nhân của con người (quyền được sống và hoạt động xã hội theo ý nguyện
của mình, không bị cấm đoán, ràng buộc, xâm phạm) [31, tr. 1762-1763] mà
pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Bởi
vậy, có thể nói rằng quyền bất khả xâm phạm và tự do có mối quan hệ biện
chứng với nhau; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm của con người là điều kiện
để giải phóng, phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, thể chất của con người và
ngược lại khi cá nhân bị xâm phạm về thân thể thì cũng có nghĩa là cá nhân đó
đã bị xâm hại đến quyền tự do của mình. Từ đó có thể khái niệm “Bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là bảo đảm quyền không bị
xâm phạm tự do về thân thể của công dân được pháp luật công nhận”.
Khái niệm trên cho thấy rằng khi pháp luật công nhận quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân thì Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo
đảm quyền này; đồng thời có biện pháp nghiêm cấm việc bắt, giữ, giam
người (hạn chế sự tự do thân thể của con người) trái pháp luật và nếu có sự
hạn chế quyền tự do thân thể của con người thì phải được thực hiện theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, về nguyên tắc, khi Nhà nước công nhận các quyền con người,
quyền công dân thì các quyền đó là các giá trị xã hội cần được bảo đảm trở
thành hiện thực vì lợi ích chung thông qua các biện pháp chính trị, kinh tế,
pháp lý, văn hóa..., trong đó bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Bảo đảm pháp lý theo nghĩa chung nhất có thể được hiểu là các phương tiện,


9


biện pháp được pháp luật quy định để bảo vệ quyền công dân trước mọi sự
xâm hại và đảm bảo thực hiện quyền công dân trên thực tế. Căn cứ vào đối
tượng cần bảo đảm, mục đích bảo đảm, có thể có bảo đảm pháp lý trong lĩnh
vực dân sự, tố tụng dân sự, hình sự, TTHS, tố tụng hành chính…
Đối với quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, từ thực tiễn
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, có thể nói rằng bảo đảm pháp lý
trong TTHS đối với quyền này có ý nghĩa quan trọng nhất - đó là các biện
pháp và phương tiện nhà nước quy định nhằm bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm của công dân trong TTHS. Tuy nhiên, trong TTHS - hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự thì một cá nhân có thể bị áp dụng các
biện pháp hạn chế quyền tự do thân thể (vì mục đích bảo vệ lợi ích chung của
xã hội), tuy nhiên, để bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, pháp luật
quy định việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền tự do thân thể đó phải
theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định; trường hợp cá nhân bị hạn chế quyền
tự do thì cũng không bị tra tấn , bức cung , dùng nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể , tính mạng, sức khỏe của con người.
Từ đó có thể khái niệm: “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo Luật TTHS là các biện pháp pháp luật quy định để ngăn cấm
việc bắt, giữ, giam người trái pháp luật và các hành vi xâm phạm thân thể

,

tính mạng, sức khỏe của con người”.
Định nghĩa trên cho thấy việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động TTHS của các
cơ quan có thẩm quyền và là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật

TTHS – “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể”. Bởi vậy, nguyên
tắc này được coi là kim chỉ nam trong nhận thức và hoạt động của con người
nói chung, các hoạt động TTHS của các cơ quan tiến hành TTHS nói riêng.

10


1.1.2. Nội dung bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân theo Luật Tố tụng hình sự
Mục đích của luận văn là nghiên cứu bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân dưới góc độ là một nguyên tắc của Luật TTHS
ở Việt Nam, bởi vậy, trên cơ sở Hiến pháp, Bộ luật TTHS, có thể phân tích
nguyên tắc này ở một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, bảo đảm quyền không bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp
phạm tội quả tang
Trong đời sống xã hội, pháp luật là cơ sở cho hành vi xử sự của các cá
nhân, tổ chức trong đời sống xã hội nhưng thực tế do nhiều nguyên nhân khác
nhau vẫn có những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, xâm hại các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ. Khi cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật xâm
hại các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ bị coi là tội phạm thì Nhà
nước quy định các biện pháp TTHS để xem xét, buộc họ phải chịu trách
nhiệm hình sự, trong đó có các biện pháp ngăn chặn để bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án hình sự. Các biện pháp ngăn chặn, theo nghĩa chung nhất có thể
hiểu là biện pháp cưỡng chế về TTHS do người có thẩm quyền tiến hành để
ngăn chặn tội phạm hoặc đảm bảo cho hoạt động TTHS. Đó là các biện pháp
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa
bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm
tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra truy

tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Trong các biện pháp ngăn chặn, bắt là biện pháp trực tiếp hạn chế
quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, thậm chí cả danh
dự, nhân phẩm của công dân, bởi vậy, để đồng thời đảm bảo mục tiêu của
TTHS và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, việc quy
11


định bắt người phải có quyết định hoặc phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền
(Tòa án, Viện kiểm sát) là cần thiết để ngăn ngừa việc bắt người tùy tiện, trái
pháp luật, xâm phạm quyền tự do cá nhân cũng như làm mất niềm tin vào
công lý. Từ đó để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân, pháp luật quy định cụ thể các căn cứ, thẩm quyền, thủ tục bắt người
trong các trường hợp cụ thể như: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; bắt quả tang; bắt người bị truy nã.
Hai là, bảo đảm việc khám người phải theo trình tự, thủ tục pháp
luật quy định
Trong TTHS khi thực hiện việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thì đồng
thời phải thực hiện việc khám người, khám xét nơi ở, thư tín, điện thoại...của
người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Khám
xét là lục tìm cái đang che giấu" [31, tr.887], vì vậy, khám người hay khám
xét người có thể hiểu là việc lục soát, tìm tòi trong người, trong quần áo đang
mặc và đồ vật đem theo của bị can, bị cáo, người bị bắt giữ trong trường hợp
quả tang hoặc khẩn cấp, người đang bị truy nã hoặc người có mặt ở nơi đang
bị khám xét khi có căn cứ cho rằng người đó đang giấu trong người đồ vật cần
thu giữ, nhằm mục đích phát hiện, thu giữ những vật chứng và tài liệu liên
quan đến vụ án. Việc khám người có thể ảnh hưởng, xâm hại đến việc bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ và ảnh hưởng đến tính
hợp pháp của các chứng cứ thu thập từ việc khám người, do đó để ngăn ngừa

việc xâm phạm các quyền này của cá nhân, pháp luật TTHS luôn quy định cụ
thể về thẩm quyền; trình tự, thủ tục và các trường hợp khám người cụ thể.
Ba là, bảo đảm việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt,
tạm giữ, tạm giam phải theo đúng quy định pháp luật
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam

12


là những biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp
dụng có tính lựa chọn, chỉ trong trường hợp cần thiết và bắt buộc phải sử
dụng vì mục tiêu của TTHS và chỉ trong trường hợp có căn cứ theo quy định
của Bộ luật TTHS. Yêu cầu đặt ra là khi lựa chọn thực hiện các biện pháp
ngăn chặn này, cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra được những căn cứ luật
định đối với từng trường hợp cụ thể cũng như phải tiến hành theo các trình tự,
thủ tục pháp luật TTHS quy định. Nếu cơ quan có thẩm quyền không thực
hiện đúng các căn cứ, trình tự pháp luật quy định thì người bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn có quyền khiếu nại, đề nghị huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đó,
thậm chí có quyền cầu bồi thường thiệt hại nếu việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn trái pháp luật đã gây ra thiệt hại.
Vì vậy, để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân,
pháp luật TTHS đã quy định cụ thể các căn cứ; thẩm quyền; trình tự, thủ tục
áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ,
tạm giam. Cụ thể như: Việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
phải dựa trên một trong các căn cứ pháp luật quy định (để kịp thời ngăn chặn
tội phạm; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội);
trong các trường hợp nhất định (bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy
nã); theo thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam của từng chủ

thể (thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra; thẩm
quyền của Chánh án, thẩm phán Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các
cấp; thẩm quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
và Viện kiểm sát quân sự các cấp...); và theo trình tự, thủ tục thực hiện các
biện pháp ngăn chặn pháp luật quy định. Ví dụ như: Người thi hành lệnh bắt
phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập

13


biên bản về việc bắt; khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có
đại diện chính quyền cấp xã và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến;
khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc chứng kiến; trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam phải căn cứ vào các
hiệp định tư pháp giữa Việt Nam và nước mà người nước ngoài là công dân....
Như vậy, việc tuân thủ đúng các quy định về giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam không chỉ đảm bảo quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân mà còn đề cao trách nhiệm của người ra
lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt cũng như đảm bảo sự giám sát của các cơ
quan có thẩm quyền và xã hội.
Bốn là, bảo đảm quyền không bị tra tấn , bức cung, dùng nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể , tính mạng, sức
khỏe của con người
Tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của công dân là
những giá trị xã hội cao nhất được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong Hiến
pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Hoạt động TTHS phải được
tiến hành trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân và việc áp dụng các biện pháp TTHS nhằm hạn
chế quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, tài sản của công dân chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở và phù hợp
với các quy định của pháp luật TTHS, nhất là đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Vì vậy, việc lạm dụng, áp dụng tràn lan các biện pháp cưỡng chế
TTHS bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của công dân và bị xử lý theo quy định pháp luật.
Tra tấn , bức cung , dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào

14


khác xâm phạm thân thể , tính mạng, sức khỏe của con người là những hành vi
đối xử trái pháp luật khác đối với con người, là những hành vi vi phạm pháp
luật nghiêm trọng, không những dẫn đến oan sai, xâm phạm quyền con người
mà còn xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật và
gây mất niềm tin của công dân vào cơ quan nhà nước. Tra tấn, bức cung, dùng
nhục hình có chung mục đích là những thủ đoạn, phương pháp trái pháp luật
mà người tiến hành tố tụng sử dụng làm cho người bị thẩm vấn hoặc người bị
giam giữ đau đớn về thể xác hay tinh thần mà khai báo không đúng sự thật,
khai theo ý muốn chủ quan của người thẩm vấn hay vì những mục đích như
lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng
phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị
nghi ngờ đã thực hiện... Các biện pháp này có thể giúp người tiến hành tố
tụng có được lời nhận tội của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để hoàn tất hồ
sơ vụ án, bảo đảm tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nhưng về bản chất lại không
đúng với chân lý của vụ án hình sự, dẫn đến oan sai trong TTHS, không đạt
được mục đích quan trọng của TTHS là giáo dục người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Bởi vậy, những hành vi này đã bị nghiêm
cấm trong các công ước, điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia.
“Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo

hoặc hạ thấp nhân phẩm” [10, 11, 12].
Từ đó để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân, trên cơ sở các cam kết quốc tế, pháp luật TTHS của nước ta đã có
những quy định ngăn ngừa , nghiêm cấm , trừng phạt các hành vi tra tấn
bức cung , dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử

,

nào khác xâm phạm

thân thể , tính mạng , sức khỏe của con người. Cụ thể như: các quy định về
trình tự hỏi cung bị can (hỏi cung bị can phải được tiến hành sau khi có
quyết định khởi tố bị can); trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc giám

15


sát của hoạt động hỏi cung, giam giữ bị can, bị cáo; quy định về trách
nhiệm hình sự đối với người tiến hành tố tụng có hành vi truy bức, dùng
nhục hình (ví dụ Tội dùng nhục hình, Tội bức cung); quyền khiếu nại, tố
cáo, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, quyền lợi của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng gây ra; các
quy định về tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù...
Năm là, các biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của công dân phải trên cơ sở pháp luật quy định
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là nguyên tắc được thừa
nhận trong Công ước ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966,
theo đó “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai
bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp

việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã
quy định...”, đồng thời cũng là một nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS của
nước ta. Tuy nhiên, vì mục tiêu của TTHS, trong thực tế vẫn có những trường
hợp cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp hạn chế quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, hạn chế quyền tự do thân thể của công dân (bắt,
tạm giữ, tạm giam người). Vì vậy, một trong những nội dung cơ bản của
nguyên tắc này là việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người
phải trên cơ sở pháp luật quy định. Điều này thể hiện ở một số đặc điểm của
việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam như sau:
- Việc áp dụng pháp luật biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam về nguyên
tắc chỉ do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án tiến hành, không một cơ
quan, tổ chức xã hội nào có quyền áp dụng. Đây là điểm khác biệt với việc áp
dụng pháp luật trong các lĩnh vực khác. Người có thẩm quyền áp dụng pháp
luật của Cơ quan điều tra gồm có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng và các Điều tra

16


viên; của Viện kiểm sát gồm có Viện trưởng, Phó Viện trưởng và các Kiểm
sát viên, của Toà án gồm có Chánh án, Phó Chánh án và các Thẩm phán có
chức danh pháp lý tiến hành tố tụng. Trong quá trình tố tụng, Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán được giao nhiệm vụ phân tích, đánh giá chứng cứ,
đề xuất việc bắt bị can để tạm giam, bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam... lựa
chọn quy phạm pháp luật để áp dụng và soạn thảo các quyết định tố tụng (văn
bản áp dụng pháp luật như lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, lệnh bắt khẩn
cấp, lệnh tạm giam) nhưng chỉ có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng; Viện trưởng,
Phó Viện trưởng; Chánh án, Phó Chánh án, Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa án
cấp cao, Hội đồng xét xử mới là người có thẩm quyền quyết định việc bắt bị
can để tạm giam, bắt khẩn cấp, lệnh tạm giữ, lệnh tạm giam.
- Việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là một dạng hoạt động

mang tính quyền lực Nhà nước chỉ được thực hiện khi có hành vi phạm tội
xảy ra và phải dựa trên căn cứ thực tế và căn cứ pháp luật. Ví dụ như: Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải căn cứ vào hành vi phạm tội và đặc
điểm về nhân thân người phạm tội để ra lệnh bắt, ra quyết định tạm giữ, lệnh
tạm giam đối với người phạm tội nhằm ngăn ngừa họ bỏ trốn, tiếp tục phạm
tội hoặc gây khó khăn, trở ngại cho công tác điều tra, truy tố, xét xử... Việc
bắt, tạm giữ, tạm giam một người phải tuân thủ các quy định về trình tự, thủ
tục tố tụng do Bộ luật TTHS quy định. Do đó, khi bắt, tạm giữ, tạm giam
người phạm tội đòi hỏi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét
kỹ lưỡng, khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết định tội, định khung
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các căn cứ để bắt, tạm
giữ, tạm giam bị can và nhân thân người phạm tội.
- Việc áp dụng biện pháp tạm bắt, tạm giữ, tạm giam phải trên cơ sở lựa
chọn quy phạm pháp luật phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Thực tế cho thấy
rằng các tình huống phạm tội xảy ra rất đa dạng, phức tạp, việc giải quyết vụ

17


án hình sự luôn có sự thay đổi về thông tin tội phạm, khả năng chống đối của
người phạm tội, thái độ của dư luận xã hội... vì vậy, để đảm bảo quyền bất
khả xâm phạm về thân thể của công dân, đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải
nhận thức đúng pháp luật, nắm bắt kịp thời, đầy đủ, toàn diện các tình tiết của
vụ án để lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Đặc biệt là kết quả áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là các văn
bản áp dụng pháp luật (lệnh bắt, quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam) phải cụ
thể rõ chủ thể bị áp dụng, căn cứ áp dụng của Bộ luật Hình sự (ví dụ bị bắt về
tội gì, điều khoản nào) và Bộ luật TTHS (thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam).
Từ phân tích nêu trên cho thấy nội dung bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân theo Luật TTHS được thể hiện chủ yếu qua

các quy định về bắt, khám người; giam giữ (tạm giữ, tạm giam) và chống tra
tấn, truy bức, dùng nhục hình đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.2. Ý nghĩa của bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân trong Luật Tố tụng hình sự
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân liên quan trực tiếp
đến quyền tự do cá nhân, bởi vậy việc quy định bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân là một nguyên tắc trong luật TTHS có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
trong luật TTHS là cơ sở đảm bảo quyền tự do của con người.
Việc quy định bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân là một nguyên tắc cơ bản trong TTHS thể hiện rõ nhất bản chất của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân trước
yêu cầu tôn trọng và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Điều
này thể hiện rõ qua các văn bản quy phạm pháp luật TTHS do Nhà nước ban
hành để thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng về bảo đảm quyền con

18


người, tạo cơ sở cho mọi người tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực
hiện các giá trị xã hội là các quyền con người được thừa nhận, trong đó có
quyền tự do về thân thể. Bởi vậy, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân trong TTHS có thể coi là “điều cấm” được bảo đảm bởi Nhà nước,
theo đó các cá nhân, tổ chức nào, kể cả cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng không được xâm phạm và mọi hành vi vi phạm quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy
định pháp luật. Các yêu cầu như vậy là cơ sở để công dân bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của mình, nhất là đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong TTHS, đồng thời các yêu cầu đó cũng đòi hỏi Nhà nước, cơ quan tiến

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm
tôn trọng, giám sát việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm của công dân.
Thứ hai, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là
sự bảo đảm an toàn pháp lý của công dân trong mối quan hệ với nhà nước,
đồng thời xác lập nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong TTHS, nhất là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nguyên tắc này không chỉ giúp cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời
giúp họ nhận thức được rõ trách nhiệm để có thái độ hợp tác tích cực với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của
mình. Trên cơ sở nguyên tắc này, pháp luật quy định rõ thẩm quyền, nghĩa vụ
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trước mục tiêu bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm của công dân trong sự cân bằng với mục tiêu
của TTHS là để đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà các
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dễ có sự xâm phạm
quyền này do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế ở vị thế yếu hơn
so với người tiến hành tố tụng. Đồng thời, nguyên tắc này cũng tạo cơ sở

19


×