Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại viện bệnh viên đa khoa thành phố thái bình và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.09 KB, 72 trang )

MỤC LỤC

1


2


LỜI CẢM ƠN
Với mỗi sinh viên đại học, khóa luận tốt nghiệp là một mốc cuối cùng đánh dấu việc
kết thúc 4,5 năm học tập trên giảng đường và cũng là bước khởi đầu làm quen với công
việc nghiên cứu và công tác sau này.
Được sự đồng ý của nhà trường, Viện Môi Trường, bộ môn Kỹ thuật Môi trường,
được sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Như Ngọc em đã thực hiện khóa luận tốt
nghiệp với đề tài: “Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện Đa khoa
thành phố Thái Bình và đánh giá một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý ”
Em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Cô Nguyễn Thị Như Ngọc đã dành rất nhiều thời
gian và tâm huyết hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến trưởng phòng hành chính thành phố Thái Bình và
trưởng khoa chống nhiễm khuẩn ở bệnh viện đã nhiệt tình hướng dẫn em, cũng như
những ý kiến giúp em hoàn thiện đề tài này.
Đồng thời, em cũng xin cảm ơn tập thể cán bộ phòng Nội Vụ tại bệnh viện Đa khoa
thành phố Thái Bình đã tạo điều kiện cho em điều tra khảo sát để có dữ liệu viết đồ án.
Mặc dù em đã có nhiều cố gắng hoàn thiện khóa luận bằng tất cả sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên, không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
sự đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hải phòng, ngày

tháng năm 2015


Người thực hiện
Sinh viên
Khiếu Thị Kiều Anh

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTR

Chất thải rắn

CTNH

Chất thải nguy hại

CTRYT

Chất thải rắn y tế

ĐKTPTB

Đa khoa thành phố Thái Bình

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

4



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
1.1
1.2
1.3
2.1
2.2
3.1
3.2

Tên bảng
Nguồn phát sinh các loại CTR đặc thù từ hoạt động y tế
Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Yêu cầu màu sắc, túi, thùng đựng và biểu tượng chỉ chất thải y tế
Thống kê hoạt động y tế bệnh viện năm 2014 và 6 tháng đầu năm
2015
Phân loại và xác định nguồn phát sinh chất thải
Lượng phát sinh CTRYT tại các khoa trong bệnh viện ĐKTPTB
năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015
So sánh các yêu cầu của quy định từ Bộ Y tế và bệnh viện

5

Trang
2
3
10
19
20

30
36


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
3.1
3.2
4.1
4.2
4.3

Tên hình
Phân loại CTRYT phát sinh trực tiếp trong khi khám chữa bệnh
Vật liệu để chứ chất thải của bệnh viện
Hệ thống quản lý bảo vệ môi trường
Thùng đựng vật sắc nhọn trong bệnh viện
Thùng chứa rác y tế tại phòng khoa và vận chuyển về nhà chứa rác

6

Trang
32
32
38
43
47


PHẦN MỞ ĐẦU

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay, kinh tế nước ta ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh hiện đại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thì các vấn đề khác trong xã hội như y tế, văn hóa, giáo
dục ngày càng được quan tâm và đầu tư nâng cao, chất lượng cuộc sống của mọi người
ngày càng được cải thiện. Chính vì vậy, nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân hơn nữa, đã có nhiều chính sách y tế, và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ra
đời, cùng với các bệnh viện, trạm xá đã được xây dựng mới.
Bên cạnh những lợi ích đem tới cho người dân thì các bệnh viện, trạm xá cũng đồng
thời thải ra một khối lượng chất thải y tế rất lớn, nhất là chất thải rắn y tế. Xu thế sử dụng
các sản phẩm chỉ dùng một lần trong y tế càng khiến lượng chất thải rắn y tế phát sinh
ngày càng nhiều hơn, trong đó có nhiều nhóm chất thải thuộc loại nguy hiểm đối với môi
trường và con người. Việc xử lí chất thải rắn y tế nguy hại hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu, theo số liệu của Bộ Y tế năm 2013 mới có khoảng 73% bệnh viện xử lí bằng lò
đốt, trong số đó chỉ có một số nơi áp dụng công nghệ hiện đại, còn lại gần 27% bệnh viện
đang sử dụng biện pháp đốt ngoài trời hoặc chôn lấp trong khuôn viên bệnh viện hoặc bãi
rác chung của địa phương.
Do đó, chất thải bệnh viện đang trở thành vấn đề môi trường và xã hội cấp bách ở
nước ta, nhiều bệnh viện trở thành nguồn gây ô nhiễm cho môi trường dân cư xung
quanh, gây dư luận trong cộng đồng.
Bệnh viện đa khoa thành phố Thái Bình (BVĐKTPTB) là bệnh viện đa khoa hạng hai
chuyên đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân thành phố
Thái Bình nói riêng và người dân cả nước nói chung. Nhờ những nỗ lực phấn đấu không
ngừng đó mà bệnh viện đã đạt được nhiều thành quả đáng kể trong công tác khám chữa
bệnh, phòng bệnh và chăm lo sức khỏe cho người dân. Bên cạnh những thành tựu đạt
được thì, hiện nay, vấn đề nhức nhối tại bệnh viện là tình trạng Chất Thải Rắn Y Tế
(CTRYT) thải ra với khối lượng khá lớn, đa phần là chất thải nguy hại mà hệ thống quản
lý CTRYT còn nhiều thiếu sót.
Xuất phát từ mối nguy hại trực tiếp hoặc tiềm ẩn của CTRYT gây ra đối với môi
trường và con người, cần có những biện pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức của cộng
đồng nói chung và nhân viên y tế nói riêng về những nguy cơ đó, nâng cao năng lực tổ


7


chức, trách nhiệm và từng bước hoàn thiện hệ thống quản lý chất thải cũng như nâng cao
chất lượng cảnh quan vệ sinh cho bệnh viện.
Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả quản lý cụ thể hơn là CTRYT tại bệnh viện ĐKTPTB,
kết hợp với quá trình giám sát thực tế giúp tìm hiểu những thiếu sót còn tồn tại trong quy
trình quản lý hiện nay của bệnh viện, góp phần làm tăng hiểu biết và nâng cao ý thức
cũng như chất lượng điều trị, giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn và giảm rủi ro bệnh nghề nghiệp cho
nhân viên y tế. Từ đó, nâng cao chất lượng quản lý rác thải y tế tại bệnh viện nói riêng và
tại các phòng khám tư nhân, các trung tâm y tế nói chung hỗ trợ tốt hơn cho hệ thống
quản lý chất thải hiện nay của tỉnh.
Xuất phát từ thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài“Đánh giá hiện trạng quản lý chất
thải rắn y tế tại viện bệnh viên đa khoa thành phố Thái Bình và đề xuất một số biện
pháp nâng cao hiệu quả quản lý”.

2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
• Đánh giá tổng hợp hiện trạng môi trường và công tác quản lý CTRYT tại bệnh viện

ĐKTPTB.
• Đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả hơn trong hoạt động quản lý

CTRYT của bệnh viện.
3. NỘI DUNG THỰC HIỆN
Để đạt được các mục tiêu đề ra, đề tài cần thực hiện các nội dung sau:
− Tìm hiểu thông tin về tình hình khám chữa bệnh của bệnh viện ĐKTPTB.
− Tìm hiểu công tác bảo vệ môi trường tại bệnh viện thông qua tài liệu liên quan hiện có
và khảo sát, đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường chung tại bệnh viện.
− So sánh các yêu cầu của quy định (từ Bộ Y tế và Bệnh viện) và hiện trạng hiện nay

nhằm tìm ra các vấn đề còn bất cập.
− Đề xuất biện pháp quản lý CTRYT đối với bệnh viện dựa trên các vấn đề bất cập đã
phân tích ở trên.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Phương pháp chủ yếu được áp dụng để thực hiện đề tài này là:
• Phương pháp tổng hợp số liệu: Phương pháp này nhằm thu thập và xử lý số liệu một

cách tổng quan về tình hình quản lý CTRYT tại bệnh viện ĐKTPTB. So sánh, xác định
độ tin cậy của số liệu, xử lý và tổng hợp số liệu.
• Khảo sát thực địa: Khảo sát, thu thập các hình ảnh, số liệu ở bệnh viện ĐKTPTB.
• Khảo cứu tài liệu
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
8


− Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bệnh viện ĐKTPTB, Tỉnh Thái Bình
− Về phạm vi:
− Phạm vi: khu vực đường Trần Thánh Tông, phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái

Bình Tỉnh Thái Bình
− Thời gian:
− Lĩnh vực đề cập: thông tin về CTRYT
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
6.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài.

Báo cáo cung cấp số liệu điều tra thực tế về tình hình quản lý rác thải y tế tại bệnh
viện, thực trạng về hệ thống quản lý CTRYT trong khu vực bệnh viện. Trên cơ sở đó phân
tích những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống quản lý CTRYT, đồng thời đề xuất các
giải pháp quản lý phù hợp giúp cho các nhà quản lý có cơ sở khoa học để quản lý tốt hơn

vấn đề CTRYT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Đề tài cung cấp những dữ liệu liên quan đến hiện trạng quản lý môi trường và các
giải pháp như là một cơ sở để so sánh giữa các bệnh viện ở các khu vực khác nhau.

9


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CTRYT
1.1. Đặc trưng chất thải rắn y tế
1.1.1. Một số khái niệm về chất thải rắn y tế

Chất thải rắn(CTR) là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các hoạt
động kinh tế xã hội của mình (bao gồm các hoạt động sản xuất, các hoạt động sống và
duy trì sự tồn tại của cộng đồng...). Trong đó quan trọng nhất là các loại chất thải sinh ra
từ các hoạt động sản xuất và hoạt động sống.
Chất thải rắn y tế bao gồm tất cả các loại chất thải có chứa các vật chất của cơ thể
sống của người hoặc động vật, phát sinh từ các lĩnh vực chăm sóc bệnh nhân, giải phẫu,
nghiên cứu, các phương tiện chuyên chở hoặc y tế hoặc các công việc khám nghiệm, xử
lý tử thi, giải phẫu học, bệnh lý học, các công việc khám chữa bệnh về răng miệng cũng
như khám chữa bệnh thú y....
Chất thải rắn y tế nguy hại là những chất có chứa các thành phần như: máu, dịch cơ
thể, các chất bài tiết, các bộ phận của cơ thể, bơm kim tiêm và các vật sắc nhọn, dược
phẩm, hóa chất, và các chất phóng xạ dùng trong y tế. Là những chất thải có chứa các yếu
tố nguy hại cho sức khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng
xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có những đặc tính nguy hại khác. Nếu như những chất
thải này không được tiêu hủy sẽ nguy hại cho môi trường và sức khỏe con người.
Quản lý chất thải rắn y tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành y tế và
các ngành khác có liên quan nhằm bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khỏe cho bản thân

thầy thuốc,nhân viên y tế, người bệnh và cộng đồng. Là hoạt động quản lý việc phân loại,
xử lý, thu gom, vận chuyển, lưu trữ, tái chế, tái sử dụng...
1.1.2. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế

Chất thải rắn y tế phát sinh ngày càng gia tăng ở hầu khắp các địa phương, xuất phát
từ một số nguyên nhân như: gia tăng số lượng cơ sở y tế và tăng số giường bệnh, tăng
cường sử dụng các sản phẩm dùng một lần trong y tế; dân số gia tăng, người dân ngày
càng được tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế.

10


Bảng1.1. Nguồn phát sinh các loại CTR đặc thù từ hoạt động y tế
STT

Loại CTR

Nguồn tạo thành

Chất thải sinh hoạt

Các chất thải ra từ nhà bếp, các khu nhà hành chính, các
loại bao gói,...

2

Chất thải chứa các vi
trùng gây bệnh

Các phế thải từ phẫu thuật, các cơ quan nội tạng của

người sau khi mổ xẻ và của các động vật sau quá trình
xét nghiệm, các gạc bông lẫn máu mủ của các bệnh
nhân...

3

Chất thải bị nhiễm bẩn

Các thành phần thải ra sau khi dùng cho bệnh nhân, các
chất thải từ quá trình lau cọ sàn nhà...

Chất thải đặc biệt

Các loại chất thải độc hại hơn các loại trên, các chất
phóng xạ, hóa chất dược...từ các khoa khám, chữa bệnh,
hoạt động thực nghiệm khoa dược...

1

4

(Nguồn: Báo cáo môi trường Quốc gia, 2011)
Tính riêng cho 36 bệnh viện thuộc Bộ Y tế quản lý, theo khảo sát năm 2011, lượng
CTR phát sinh tăng trung bình khoảng 10% mỗi năm, tổng lượng CTR y tế phát sinh
trong một ngày là 31,68 tấn, trung bình là 1,53 kg/giường/ngày. Lượng CTR y tế phát
sinh trong ngày khác nhau giữa các bệnh viện tùy thuộc vào số lượng giường bệnh, bệnh
viện chuyên khoa hay đa khoa, các thủ thuật chuyên môn được thực hiện tại bệnh viện, số
lượng vật tư tiêu hao được sử dụng...

11



Bảng 1.2.Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Tổng lượng chất thải phát sinh
(kg/giường/ngày)

Tổng lượng chất thải nguy hại
(kg/giường/ngày)

BV
TW

BV
Tỉnh

BV
Huyện

BV
TW

BV
Tỉnh

BV
Huyện

Bệnh viện

0.97


0,88

0,73

0,16

0,14

0,11

Khoa hồi sức cấp
cứu

1,08

1,27

1,00

0,30

0,31

0,18

Khoa nội

0,64


0,47

0,45

0,04

0,03

0,02

Khoa nhi

0,50

0,41

0,45

0,04

0,05

0,02

Khoa ngoại

1,01

0,87


0,73

0,26

0,21

0,17

Khoa sản

0,82

0,95

0,74

0,21

0,22

0,17

Khoa mắt/TMH

0,66

0,68

0,34


0,12

0,10

0,08

Khoa cận lâm sàng

0,11

0,10

0,08

0,03

0,03

0,03

Trung bình

0,72

0,7

0,56

0,14


0,13

0,09

Khoa

Trung
bình

0,86

Trung
bình

0,14

(Nguồn: Quy hoạch quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế, 2011)
Trong CTR y tế, thành phần đáng quan tâm nhất là dạng CTNH, do nguy cơ lây
nhiễm mầm bệnh và hóa chất độc cho con người. Lượng CTNH y tế phát sinh không
đồng đều tại các địa phương, chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn như: Tp. Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Đồng Nai, Khánh Hòa...
Lượng CTNH y tế phát sinh khác nhau giữa các loại cơ sở y tế khác nhau. Các nghiên
cứu cho thấy bệnh viện tuyến trung ương và tại các thành phố lớn có tỉ lệ phát sinh CTNH
y tế cao nhất. Tính trong 36 bệnh viện thuộc Bộ Y tế, tổng lượng CTNH y tế cần được xử
lý trong một ngày là 51,22 kg, chiếm 16,2% tổng lượng CTR y tế. Trong đó, lượng CTNH
y tế tính trung bình theo giường bệnh là 0,25kg/giường/ngày. Chỉ có 4 bệnh viện có chất
thải phóng xạ là bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế, bệnh viện Đa
Khoa Trung ương Thái Nguyên và bệnh vện K. Các phương pháp xử lý đặc biệt với
CTNH y tế đắt hơn rất nhiều so với các chất thải rắn sinh hoạt, do vậy đòi hỏi việc phân
loại chất thải phải đạt hiệu quả và chính xác

Phân loại chất thải rắn y tế

12


Căn cứ vào đặc điểm lý học, hóa học, sinh học và tính chất nguy hại, chất thải trong
các bệnh viện được Bộ Y tế phân thành 5 nhóm theo quy chế quản lý chất thải y tế chung
trên toàn quốc:
a. Chất thải lây nhiễm

Theo quy định của Bộ Y tế, chất thải lây nhiễm được chia thành các nhóm sau:
Nhóm A: chất thải bị nhiễm khuẩn, chứa mầm bệnh với số lượng, mật độ đủ gây bệnh, bị
nhiễm khuẩn bởi vi khuẩn, virut, kí sinh trùng, nấm...bao gồm các vật liệu bị thấm máu,
thấm dịch, chất bài tiết của người bệnh như gạc, bông, găng tay, bột bó gãy xương, dây
truyền máu.
Nhóm B: là các vật liệu sắc nhọn: bơm tiêm, lưỡi, cán dao mổ, mảnh thủy tinh vỡ và mọi
vật liệu có thể gây ra các vết cắt hoặc chọc thủng, dù chúng có được sử dụng hay không
sử dụng.
Nhóm C: chất thải có nguy cơ lây nhiễm phát sinh từ phòng xét nghiệm: găng tay, lam
kính, ống nghiệm, bệnh phẩm sau khi xét nghiệm, túi đựng máu...
Nhóm D: là các mô cơ quan người-động vật, mô cơ thể ( nhiễm khuẩn hay không nhiễm
khuẩn), chân tay, bào thai, nhau thai...
b. Chất thải hóa học nguy hại
Chất thải hóa học bao gồm các hóa chất có thể không gây nguy hại như đường, axit
béo, axit amin, một số loại muối...và hóa chất nguy hại như formaldehit, hóa chất quang
học, các dung môi, hóa chất dùng để tiệt khuẩn y tế và dung dịch làm sạch, khử khuẩn,
các hóa chất dùng trong tẩy uế, thanh trùng...
Chất thải hóa học nguy hại gồm:
• Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng
• Formaldehit: đây là hóa chất thường được sử dụng trong bệnh viện, nó được sử dụng


để làm vệ sinh, khử khuẩn dụng cụ, bảo quản bệnh phẩm hoặc khử khuẩn các chất thải
lỏng nhiễm khuẩn. Nó được sử dụng trong các khoa giải phẫu bệnh, lọc máu, ướp xác...
• Các chất quang hóa: các dung dịch để cố định phim trong khoa Xquang
• Các dung môi: các dung môi dùng trong cơ sở y tế gồm các hợp chất của halogen,như
metylclorit, chlorform, các thuốc mê bốc hơi như halothane; các hợp chất không chứa
halogen như xylene, axeton, etyl axetat...
• Các chất hóa học hỗn hợp: bao gồm các dung dịch làm sạch và khử khuẩn như phenol,
dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh...

13


• Các chất gây độc tế bào: như vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính thuốc gây

độc tế bào và các chất tiết từ người bệnh được điều trị bằng hóa trị liệu
• Chất thải chứa kim loại nặng: thủy ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế thủy ngân vỡ, chất
thải từ hoạt động nha khoa) cadimi (Cd) (từ pin,ắc quy), chì ( từ tấm gỗ bọc chì hoặc
vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn tia xạ từ các khoa chuẩn đoán hình ảnh, xạ trị)
c. Chất thải phóng xạ
• Tại các cơ sở y tế, chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, hóa trị
liệu và nghiên cứu. Chất thải phóng xạ gồm: dạng rắn, lỏng, khí.
• Chất thải phóng xạ rắn bao gồm: các vật liệu sử dụng trong các xét nghiệm, chuẩn
đoán, điều trị như ống tiêm, bơm tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ, giấy thấm, gạc sát
khuẩn, ống nghiệm, chai lọ đựng chất phóng xạ...
• Chất thải phóng xạ lỏng bao gồm: dung dịch có chứa chất phóng xạ phát sinh trong quá
trình chuẩn đoán, điều trị như nước tiểu của người bệnh, các chất bài tiết, nước súc rửa
và các dụng cụ có chất phóng xạ...
• Chất thải phóng xạ khí bao gồm: các chất khí thoát ra từ kho chứa chất phóng xạ...
d. Các bình chứa khí nén có áp suất

Nhóm này bao gồm các bình chứa khí nén có áp suất như bình đựng oxy, CO 2, bình
gas, bình khí dung, các bình chứa khí sử dụng một lần...Đa số các bình chứa khí nén này
thường dễ nổ, dễ cháy, nguy cơ tai nạn cao nếu không được tiêu hủy đúng cách.
e. Chất thải thông thường

Chất thải thông thường là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hóa học, nguy hại,
phóng xạ, dễ cháy, nổ, bao gồm:
• Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly)
• Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ thủy tinh, chai

huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gãy xương kín. Những chất thải
này không dính máu, dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại
• Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật liệu đóng gói,
thùng cat-tong, túi nilon, túi đựng phim.
• Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh trong bệnh viện.
1.1.3. Thành phần của chất thải rắn y tế
a. Thành phần vật lý

Thành phần vật lý của CTRYT bao gồm các loại sau:
• Bông vải sợi: gồm băng bông, gạc, quần áo, khăn lau, vải trải...
• Giấy: hộp đựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh...

14


• Nhựa: hộp đựng, bơm tiêm, dây chuyền máu, túi đụng hàng.
• Thủy tinh: chai lọ, ống tiêm, bơm tiêm thủy tinh, ống nghiệm.
• Kim loại: dao kéo mổ, kim tiêm.

b. Thành phần hóa học

Thành phần hóa học gồm 2 loại như sau:
• Vô cơ: hóa chất, thuốc thử...
• Hữu cơ: đồ vải sợi, phần cơ thể, thuốc...

c. Thành phần sinh học: máu, bệnh phẩm, bộ phận cơ thể bị cắt bỏ...
1.2. Tác hại của chất thải rắn y tế
1.2.1. Đối với môi trường

a. Đối với môi trường đất
Khi chất thải y tế được xử lý giai đoạn trước khi thải bỏ vào môi trường không đúng
cách thì các vi sinh vật gây bệnh, hóa chất độc hại, các vi khuẩn có thể ngấmvào môi
trường đất gây nhiễm độc cho môi trường sinh thái, các tầng sâu trong đất,sinh vật kém
phát triển...làm cho việc khắc phục hậu quả về sau lại gặp khó khăn.
b. Đối với môi trường không khí
Chất thải bệnh viện từ khi phát sinh đến khâu xử lý cuối cùng đều gây ra những tác
động xấu đến môi trường không khí. Khi phân loại tại nguồn, thu gom, vận chuyển chúng
phát tán bụi rác, bào tử vi sinh vật gây bệnh, hơi dung môi, hóa chất vào không khí. Ở
khâu xử lý (đốt, chôn lấp) phát sinh ra các khí độc hại HX, NO x, đioxin, furan...từ lò đốt
và CH4,NH3,H2S...từ bãi chôn lấp. Các khí này nếu không được thu hồi và xử lý sẽ gây
ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của cộng đồng dân cư xung quanh.
c. Đối với môi trường nước
Khi chôn lấp chất thải y tế không đúng kỹ thuật và không hợp vệ sinh. Đặc biệt là
chất thải y tế được chôn lấp chung với chất thải sinh hoạt có thể gây ô nhiễm nguồn nước
ngầm.
1.2.2. Đối với sức khỏe
1.2.2.1.
Đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp CTRYT

Tất cả các cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có nguy cơ
tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ sở y tế, những người ở ngoài các

cơ sở y tế làm nhiệm vụ vận chuyển các chất thải y tế và những người trong cộng đồng bị
15


phơi nhiễm với chất thải do hậu quả của sự sai sót trong khâu quản lý chất thải. Dưới đây
là những nhóm chính có nguy cơ cao:





Bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện.
Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc ngoại trú.
Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh nhân.
Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho các cơ sở khám chữa

bệnh và điều trị, chẳng hạn như giặt là, lao công, vận chuyển bệnh nhân...
• Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại các bãi đổ rác thải, các lò đốt
rác thải) và những người bới rác, thu gom rác...
1.2.2.2.
Tác động từ CTRYT
a. Từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn
Các vật thể trong thành phần của CTRYT có thể chứa đựng một lượng rất lớn bất kỳ
tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào. Một mối nguy cơ rất lớn hiện nay đó là
virut gây hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV) cũng như các virut lây qua đường máu như
viêm gan B, C có thể lan truyền ra cộng đồng qua con đường rác thải y tế. Những virut
này thường lan truyền qua vết tiêm hoặc các tổn thương do kim tiêm có nhiễm máu người
bệnh. Các tác nhân gây bệnh này có thể xâm nhập vào cơ thể người thông qua các cách
thức sau:






Qua da (qua một vết thủng, trầy xước hoặc vết cắt trên da)
Qua các niêm mạc (màng nhầy)
Qua đường hô hấp(do xông, hít phải)
Qua đường tiêu hóa.

b. Từ loại chất thải hóa chất và dược phẩm.
Nhiều loại hóa chất và dược phẩm được sử dụng trong các cơ sở y tế là những mối
nguy cơ đe dọa sức khỏe con người ( các độc dược, các chất gây độc gen, chất ăn mòn,
chất dễ cháy, các chất gây phản ứng, gây nổ...). Các loại chất này thường chiếm số lượng
nhỏ trong chất thải y tế, với số lượng lớn hơn có thể tìm thấy khi chúng quá hạn, dư thừa
hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ. Những chất này có thể nhiễm độc khi tiếp xúc cấp tính và
mãn tính, gây ra các tổn thương như bỏng, ngộ độc. Sự nhiễm độc này có thể là kết quả
của quá trình hấp thụ hóa chất hoặc dược phẩm qua da, qua niêm mạc, qua đường hô hấp
hoặc qua đường tiêu hóa. Việc tiếp xúc với các chất dễ cháy, chất ăn mòn, các hóa chất
gây phản ứng (formandehit và các chất dễ bay hơi khác) có thể gây nên những tổn thương

16


tới da, mắt hoặc niêm mạc đường hô hấp. Các tổn thương phổ biến hay gặp nhất là các vết
bỏng.
c. Từ chất thải gây độc hại tế bào
Đối với các nhân viên y tế chịu trách nhiệm tiếp xúc và xử lý loại chất thải gây độc
gen, mức độ ảnh hưởng của những mối nguy cơ bị tri phối bởi sự kết hợp giữa bản chất
của chất độc và phạm vi, khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình tiếp xúc với
các chất độc trong công tác y tế có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hoặc trong quá trình điều

trị bằng các thuốc đặc biệt hoặc bằng hóa trị liệu. Những phương thức tiếp xúc chính là
hít phải dạng bụi hoặc dạng phun sương qua đường hô hấp; hấp thụ qua da; qua đường
tiêu hóa do ăn phải thực phẩm nhiễm thuốc, hóa chất hoặc chất bẩn có tính độc. Việc
nhiễm độc qua đường tiêu hóa là kết quả của những thói quen xấu chẳng hạn như dùng
miệng để hút pipet trong khi định lượng dung dịch. Mối nguy hiểm có thể xảy ra khi tiếp
xúc với các loại dịch thể và các chất bài tiết của những bệnh nhân đang được điều trị bằng
hóa trị liệu.
d. Từ các chất thải phóng xạ
Loại bệnh gây ra do chất thải phóng xạ được xác định bởi loại chất thải và phạm vi
tiếp xúc. Nó có thể là đau đầu, hoa mắt chóng mặt, buồn nôn và nhiều bất thường khác.
Bởi chất thải phóng xạ, cũng như loại chất thải dược phẩm, là một loại chất thải độc hại
cho gen, nó cũng có thể ảnh hưởng đến các yếu tố di truyền. Tiếp xúc với các nguồn
phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như các nguồn phóng xạ của các phương tiện chuẩn đoán
(máy Xquang, máy chụp cắt lớp...), có thể gây ra một loạt các tổn thương (chẳng hạn như
phá hủy các mô, từ đó đòi hỏi phải dẫn đến việc xử lý loại bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ
thể).
1.3.

Quản lý CTRYT

Quản lý chất thải rắn y tế bắt đầu ngay từ quá trình sinh ra chất thải đến quá trình xử
lý, và khâu cuối cùng là thải bỏ chất thải. Khi phát sinh chất thải, chúng ta nghĩ đến các
biện pháp để giảm lượng phát thải chất thải nguy hại nhất. Sau xử lý, lượng chất thải thực
sự phải thải bỏ cuối cùng cần được giải quyết để đảm bảo vệ sinh và an toàn.
1.3.1.

Giảm thiểu tại nguồn

Phương pháp làm giảm thiểu chất thải hiện đang được áp dụng là các hoạt động tái
sinh, tái chế cũng như giảm thiểu tại nguồn. Giảm thiểu tại nguồn là giảm về số lượng

17


hoặc độc tính của bất kỳ một chất thải y tế nào đi vào dòng chất thải trước khi tái sinh, xử
lý hoặc đưa vào môi trường. Những cải tiến căn bản trong giảm thiểu tại nguồn là:
• Chọn nhà cung cấp hậu cần cho bệnh viện mà sản phẩm của họ ít phế thải hay giảm

lượng CTRYT nguy hại phải xử lý đặc biệt.
• Sử dụng các biện pháp khử trùng tẩy uế cơ lý học nhiều hơn các biện pháp hóa học sẽ
giảm thiểu chất thải nguy hại.
• Giảm thiểu chất thải, nhất là trong công tác phân loại và khử trùng tẩy uế.
 Quản lý và kiểm soát ở bệnh viện
Việc quản lý và kiểm soát chất thải ở bệnh viện được thực hiện như sau:
• Tập trung quản lý thống nhất các loại thuốc, hóa chất nguy hại.
• Giám sát sự luân chuyển lưu hành hóa chất, dược phẩm ngay từ khâu nhận, nhập kho,

sử dụng, tiêu hủy và thải bỏ.
 Quản lý kho hóa chất, dược chất
Việc quản lý kho hóa chất và những dược phẩm cụ thể là:
• Thường xuyên nhập hàng từng lượng nhỏ hơn là nhập hàng quá nhiều một đợt dễ dẫn

tới thừa hay quá hạn.
• Sử dụng các lô hàng cũ trước, hàng mới dùng sau.
• Sử dụng toàn bộ thuốc, dược chất vật tư trong đợt, rồi mới chuyển sang đợt mới.
• Thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng của các loại thuốc, dược chất, vật tư tiêu hao ngay
từ khi nhập hàng cũng như trong quá trình sử dụng
1.3.2. Thu gom, phân loại và vận chuyển[1]
• Tách – phân loại
Điểm chủ yếu của biện pháp này là phân loại và tách ngay từ đầu một cách chính xác
chất thải y tế nguy hại và chất thải rắn thông thường. Việc tách và phân loại chính xác

chất thải y tế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp theo như quá trình vận chuyển và
lưu giữ tại bệnh viện hay quá trình vận chuyển tới nơi tiêu hủy và quá trình tiêu hủy.
Việc tách và phân loại CTRYT đòi hỏi phải có thùng chứa, túi lót trong thùng chứa
được buộc chặt chẽ, hộp đựng vật sắc nhọn. Yêu cầu màu sắc phải thống nhất theo quy
định để dễ quản lý chất thải y tế đã được phân loại thu gom trong suốt quá trình lưu thông
Bảng 1.3. Phân loại và thu gom chất thải bệnh viện

18


Thùng
kháng
thủng

Loại chất thải

19

Túi
màu
vàng

Túi
màu
đen

Túi
màu
xanh



1.Kim tiêm
X
2.Kim bướm
X
3.Lưỡi dao mổ
X
4.Lưỡi dao cạo
X
5.Kim chọc dò
X
6.Các vật sắc nhọn khác
X
7.Pipet, ống mao dẫn, lam kính
X
8.Ống xét nghiệm
X
9.Mọi chất thải thấm máu
X
10.Mọi chất thải phát sinh từ khoa thận nhân tạo
X
11.Mọi chất thải phát sinh từ các buồng cách ly
X
12.Bộ dây truyền máu, truyền plasma (bao gồm cả
X
túi đựng máu và plasma)
13.Bông băng thấm máu
X
14. Giẻ lau thấm máu
X

15.Găng y tế
X
16.Catheter tĩnh mạch bàng nhựa
X
17.Ống hút đờm, ống thông tiểu, ống thông dạ dày
X
18.Các ống dẫn lưu
X
19.Lọ, ống thuốc và các vật dụng khác sử dụng
X
trong liệu pháp hóa học
20.Các bệnh phẩm thừa hoặc chất thải động vật
X
thí nghiệm
21.Các vật dụng nuôi cấy, lưu giữ các tác nhân lây
nhiễm và những thiết bị sử dụng trong việc cấy
X
chuyển, tiêm chủng hoặc các môi trường nuôi cấy
22.Bất kỳ loại nào trong số những loại trên phát
X
sinh từ khoa phóng xạ
23.Bông băng không thấm máu
X
24.Giẻ lau
X
25.Mũ, mạng dùng một lần
X
26.Phần dây truyền dịch, túi dịch truyền không
dính máu
X

27.Bình, lọ không dính dịch cơ thể
X
28.Đồ vải không thấm dịch cơ thể
X
29.Chất thải sinh ra từ nhà ăn, đồ ăn thừa nói
chung
X
30.Giấy, bao bì và các chất thải sinh hoạt khác
X
(Nguồn: Quy chế quản lý chất thải, Bộ Y tế)
• Thu gom tại phòng khoa

20


Nhân viên y tế phân loại, tách chất thải y tế ngay trong quá trình khám chữa bệnh như
thay băng, tiêm, truyền. Hoạt động này phải duy trì thường xuyên liên tục.
Nhân viên chịu trách nhiệm thu gom chất thải y tế từ các khoa chuyên môn tập trung
về thùng lưu chứa tập trung, sau đó vận chuyển về khu lưu giữ chất thải y tế nguy hại của
bệnh viện.
Chất thải phải được thu gom hàng ngày và chuyển về nơi lưu giữ chất thải của bệnh
viện.
Thùng túi đã chứa đầy chất thải, khi vận chuyển đi phải có nhãn ghi rõ chất thải từ
khoa, bệnh viện, ngày giờ.
Phải có ngay thùng, túi chứa rác đặt ngay vào vị trí khi đã chuyển thùng cũ đi.
• Vận chuyển trong cơ sở y tế

Chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường phát sinh tại các khoa, phòng phải
được vận chuyển riêng về nơi lưu giữ chất thải của cơ sở y tế ít nhất một lần một ngày và
khi cần.

Cơ sở y tế phải quy định đường vận chuyển và giờ vận chuyển chất thải. Tránh vận
chuyển qua cá khu vực chăm sóc người bệnh và các khu vực sạch khác.
Túi chất thải phải buộc kín miệng và được vận chuyển bằng xe chuyên dụng, không
được làm rơi, vãi chất thải, nước thải và phát tán mùi hôi trong quá trình vận chuyển.
• Lưu chứa:

Khu lưu giữ chất thải y tế xây dựng riêng, tách biệt với khu vực khám chữa bệnh của
bệnh viện.
Chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường phải lưu giữ trong các buồng riêng
biệt.
• Thời gian lưu chứa như sau:

Tốt nhất là vận chuyển CTRYT nguy hại đi xử lý ngay trong ngày. Thời gian lưu giữ
chất thải trong các cơ sở y tế không quá 48 giờ.
Lưu giữ chất thải trong nhà bảo quản lạnh hoặc thùng lạnh: thời gian lưu giữ có thể
đến 72 giờ.

21


• Vận chuyển ngoài cơ sở y tế

Xe vận chuyển chất thải phải đảm bảo các tiêu chuẩn: có thành, có nắp, có đáy kín,
dễ cho chất thải vào, dễ lấy chất thải ra, dễ làm sạch, dễ tẩy uế, dễ làm khô.
1.3.3.

Các phương pháp xử lý CTRYT[1]
 Phương pháp chôn lấp:

Phương pháp này đẽ làm ít tốn kém tuy nhiên chiếm nhiều diện tích xây dựng. Bãi

chôn lấp thường từ 10-15ha nhưng phương pháp chôn lấp không giải quyết được triệt để
rác thải và chất thải còn có thể bị thấm xuống đất gây ô nhiễm môi trường đất và nguồn
nước của những vùng xung quanh…
 Phương pháp sinh học:

Phương pháp này phân hủy các chất hữu cơ trong rác thải nhờ vào các sinh vật kỵ
khí hay hiếu khí. Phương pháp này đơn giản, đẽ làm nhưng lại mất thời gian dài mà
không có khả năng phân hủy chất độc vô cơ.
 Phương pháp đốt:

Phương pháp này sử dụng các lò đốt chuyên dụng để đốt các loại rác thải y tế đạt hiệu quả
cao. Phương pháp đốt an toàn về mặt sinh học, làm giảm tới 90% thể tích rác thải, không
đòi hỏi mặt bằng lớn, ít gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên phương pháp này chi phí còn
quá cao và nếu không lắp đặt hệ thống xử lý khí thì gây ảnh hưởng đến khu vực xung
quanh.
1.4.
Hiện trạng quản lý CTRYT tại Việt Nam và ở Thái Bình
1.4.1. Tại Việt Nam

Theo thống kê của Cục quản lý môi trường (Bộ Y tế), hiện cả nước có khoảng 13000
cơ sở y tế có giường bệnh và phòng khám tư nhân, hơn 200 công ty, xí nghiệp sản xuất
thuốc. Theo đó, mỗi ngày, các bệnh viện thuộc tuyến trung ương thải ra khoảng hơn 7 tấn
rác, bệnh viện địa phương 38 tấn rác. Tổng lượng chât thải phát sinh từ các cơ sở y tế
khoảng 450 tấn/ngày, trong đó 40,5 tấn/ ngày là CTNH.
Phần lớn các bệnh viện ở Việt Nam được xây dựng trong giai đoạn đất nước còn chưa
phát triển, nhận thức về vấn đề môi trường chưa cao nên các bệnh viện đều không có hệ
thống xử lý chất thải đúng quy trình kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật để xử lý triệt để các

22



loại chất thải độc hại còn bị thiếu thốn. Bên cạnh đó, công tác quản lý còn lỏng lẻo và
chưa có quy trình xử lý triệt để.
Mặt khác, số lượng bệnh viện và các cơ cở khám chữa bệnh rất lớn, lại thiếu vốn, nên
số lượng bệnh viện đạt tiêu chuẩn môi trường còn rất ít. Bảo vệ môi trường tại các bệnh
viện không chỉ là vấn đề của riêng các bệnh viện mà cần có sự quan tâm của Chính phủ
và toàn xã hội.
 Quản lý chất thải rắn

Hầu hết chất thải rắn ở bệnh viện không được xử lý trước khi chôn lấp hoặc đốt. Một
số ít bệnh viện có lò đốt rác y tế song quá cũ, hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường.
 Phân loại rác thải y tế

Đa số các bệnh viện thực hiện phân loại chất thải ngay từ nguồn nhưng việc phân loại
còn phiến diện và kém hiệu quả do nhân viên chưa được đào tạo. Việc phân loại chất thải,
tất cả bệnh viện đều làm theo quy chế quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế ban hành theo
quyết định số 43/2007/QĐ-BYT.
 Thu gom chất thải y tế

Theo quy định, chất thải y tế và chât thải sinh hoạt đều được các hộ lý và y công thu
gom hàng ngày tại các khoa phòng. Các đối tượng khác như bác sĩ, y tá còn chưa được
huấn luyện để tham gia vào hoat động quản lý chất thải y tế. Tình trạng chung là các bệnh
viện không có đủ áo bảo hộ và các phương tiện bảo hộ khác cho nhân viên trực tiếp tham
gia vào thu gom, vân chuyển và tiêu hủy chất thải.
 Lưu giữ chất thải

Hầu hết các điểm tập trung rác đều nằm trong khuôn viên bệnh viện, vệ sinh không
đảm bảo, có nhiều nguy cơ gây rủi ro do vật sắc nhọn rơi vãi, nhiều côn trùng xâm nhập
ảnh hưởng đến môi trường bệnh viện. Một số nhà lưu giữ rác không có mái che, không có
rào bảo vệ, vị trí gần nơi đi lại, những người không có nhiệm vụ dễ xâm nhập.

 Vận chuyển chất thải ngoài cơ sở y tế

Hiện nay, hầu hết lượng CTR ở Việt Nam đều được thu gom bởi công ty môi trường
đô thị. Chất thải bệnh viện sau khi được thu gom tới khu tập trung sẽ được Công ty Môi
trường đô thị thu gom tiếp trong khoảng thời gian một đến hai ngày một lần và được vận

23


chuyển đến bãi rác của thành phố để xử lý. Tại đây, CTR sinh hoạt được chôn lấp,
CTRYT sẽ được thiêu đốt tại lò đốt đặt ở bãi rác.
1.4.2. Tại Thái Bình

Toàn thành phố có 08 bệnh viện tuyến tỉnh, 12 bệnh viện đa khoa huyện. Đối với
khối y tế dự phòng có 01 trung tâm y tế dự phòng tỉnh; 12 trung tâm y tế huyện. Đối với
trung tâm chuyên khoa và các đơn vị trực thuộc có 15 đơn vị. Ngoài ra có 286 trạm y tế
xã, phường, thị trấn và 13 trung tâm Dân số và Kế hoạch hóa gia đình quận, huyện .
1.4.2.1.

Khối lượng chất thải y tế phát sinh từ các cơ sở y tế

Theo khảo sát của Sở Y tế năm 2012 tổng số giường bệnh trên địa bàn tỉnh Thái
Bình có hơn 3845 giường bệnh,khoảng hơn 100 tấn rác thải tại các bệnh viện mỗi tháng,
52.000 kg chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh hàng tháng (như: kim tiêm, băng bông, mô
bệnh phẩm, găng tay cao su, gạc thấm máu, xác động vật xét nghiệm...) và biện pháp xử
lý chủ yếu cũng chỉ là khử nhiễm khuẩn, đốt (không qua lò đốt chất thải y tế đúng tiêu
chuẩn) và chôn lấp. Nhiều bệnh viện do khó khăn về kinh phí đã chôn lấp chất thải y tế
ngay trong khuôn viên bệnh viện, không đúng quy trình và đảm bảo an toàn vệ sinh.
1.4.2.2.
Xử lý chất thải rắn y tế

• Mô hình xử lý tại chỗ

Chủ yếu các cơ sở y tế nhỏ như trạm xá xã, phường hay một số bệnh viện tuyến
huyện nhỏ xử lý bằng lò đốt thủ công hoặc chôn lấp tại chỗ. Với lò đốt thủ công, gây ô
nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng đến sức khỏe của các Y bác sĩ, bệnh nhân và
người nhà bệnh nhân. Thiết bị lò đốt rác thải y tế, nếu vận hành đúng quy trình thì khí thải
có thể đạt tiêu chuẩn, khi lượng rác cho vào nhiều sẽ sinh ra nhiều khói đen, mùi khó chịu
hiệu quả xử lý không cao gây ảnh hưởng cho khu dân cư và môi trường không khí xung
quanh.
• Mô hình xử lý tập trung

Ngoài các cơ sở đã xử lý tại chỗ trên thì tất cả cơ sở y tế khác đều hợp đồng thuê
vận chuyển và xử lý với một số công ty môi trường như: Công ty cổ phần Môi trường
công nghiệp An Huy, công ty Cổ phần công nghệ môi trường An Sinh, công ty cổ phần
môi trường và công trình đô thị tỉnh Thái Bình, Công ty Cổ phần Môi Trường Xanh Thái
Bình để xử lý chất thải nguy hại và tiêu hủy chất thải thông thường. Hiện tại, Công ty Cổ
phần Môi Trường Xanh Thái Bình hoạt động trong lĩnh vực xử lý môi trường, chuyển
24


giao công nghệ xử lý môi trường và xây dựng. Hiện nay, Công ty đang triển khai dự án
đầu tư xây dựng nhà máy đốt rác phát điện công suất 300 tấn/ngày đầu tiên ở Việt Nam tại
Thành phố Thái Bình theo công nghệ hiện đại Martin của Cộng hòa Liên bang Đức và
đầu tư lĩnh vực xây dựng khu đô thị.
Vận chuyển chất thải y tế ra ngoài cơ sở y tế
Chất thải thông thường : Trên địa bàn thành phố Thái Bình công ty cổ phần môi trường và
công trình đô thị tỉnh Thái Bình chịu trách nhiệm vận chuyển chất thải thông thường từ
các cơ sở y tế đi xử lý tại bãi rác tập trung của thành phố, Công ty có đăng ký giấy phép
hành nghề, có phương tiện vận chuyển chuyên dụng, đúng quy cách.
Chất thải nguy hại: Các cơ sở y tế hợp đồng với các công ty môi trường Công ty cổ phần

Môi trường công nghiệp An Huy, công ty cổ phần công nghệ môi trường An Sinh, công ty
cổ phần môi trường và công trình đô thị tỉnh Thái Bình, Công ty Cổ phần Môi Trường
Xanh Thái Bình để thu gom, vận chuyển và tiêu hủy. Tuy nhiên quá trình lưu trữ, vận
chuyển vẫn còn chưa đúng quy cách như thời gian vận hành theo từng đợt, tần số vận
chuyển của các cơ sở này cũng không theo dõi và kiểm soát được. Các bệnh viện lại chỉ
có các nhà lưu giữ rác mà không có thiết bị bảo quản nên khó đảm bảo trong khâu lưu
giữ, vận chuyển rác thải nguy hại.
1.4.2.4.
Tiêu hủy sau cùng chất thải rắn y tế
1.4.2.3.
-

-

Hiện tại, với các bệnh viện xử lý chất thải bằng lò đốt thủ công thì sau khi xử lý tro
lò đốt sẽ được chôn lấp tại chỗ. Đối với các bệnh viện có lò đốt, tro lò đốt được đem đi
chôn lấp hoặc được chuyển tới các bãi rác chung của huyện để đổ. Còn với các bệnh viện
khi thuê các công ty môi trường xử lý, rác thải được đốt tại lò đốt rác của đơn vị rồi đem
đi chôn lấp tại bãi rác tập trung của thành phố. Một số bãi rác trên địa bàn thành phố chỉ
là những bãi chứa rác. Tại đây rác được chôn lấp một cách đơn thuần. Cách xử lý này
không đủ đảm bảo chất thải vệ sinh môi trường trong khu vực bãi, gây ô nhiễm môi
trường không khí khu vực xung quanh và phát sinh nhiều vi trùng gây bệnh.
Như vậy, việc tiêu hủy sau cùng chất thải rắn y tế hầu như không được kiểm soát.
Chất thải rắn y tế nguy hại ở các phòng khám tư nhân vẫn còn được thu gom, vận chuyển,
tiêu hủy chung với chất thải thông thường. Tro của lò đốt ở các bệnh viện có lò đốt được
vận chuyển chung với chất thải thông thường tới bãi rác của địa phương để chôn lấp mà
không có biện pháp tiêu hủy đảm bảo. Các chất thải được phép tái chế như nhựa, giấy bìa
được bán cho cá nhân cơ sở thu mua tái chế.

25



×