Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Độ lập dân tộc và CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.33 KB, 3 trang )

ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CNXH
ĐLDT và CNXH là hạt nhân TTHCM, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình CMVN từ
khi có Đảng, là cơ sở để Đảng ta giải quyết đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược,
phương pháp CM trong CMĐTC cũng như trong CMXHCN, là nguồn gốc sức mạnh
bách chiến bách thắng của CMVN.
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, yêu cầu bức thiết của dân tộc là giải phóng
khỏi ách thống trị tàn bạo của CNĐQ và địa chủ phong kiến, xây dựng một chế độ xã
hội mới đảm bảo độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân. Để giành lại ĐLDT xây
dựng cuộc sống mới, phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên
tục, nhưng thiếu đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn. Các phong trào cứu nước trước
khi có ĐCSVN đều lần lượt thất bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có đường lối CM
đúng đắn và một tổ chức CM có khả năng lãnh đạo phong trào cứu nước đi đến thắng
lợi.
Qua tìm tòi, nghiên cứu nhiều cuộc CM từ nhiều nước trên thế giới, nhất là với CM
tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc mới đi đến kết luận: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS.
Sự ra đời của ĐCSVN là sự kết hợp CNMLN với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước, là hiện thân quan trọng nhất của sự kết hợp ĐLDT với CNXH.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định CMVN trải qua hai giai đoạn trước hết là
CMĐTC sau đó đi lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Tùy hoàn cảnh cụ
thể của từng giai đoạn CM, nhiệm vụ trọng tâm có khác nhau, nhưng trong suốt quá
trình lãnh đạo CMVN Đảng ta luôn luôn kết hợp hai nhiệm vụ ĐLDT và CNXH.
Trong thời kỳ 1930-1954, ĐLDT và CNXH được thể hiện qua nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, giành độc lập, còn CNXH là phương hướng tiến lên. Đây là thời kỳ thử thách
quyết liệt đầu tiên về vai trò nền tảng tư tưởng ĐLDT gắn liền với CNXH ở nước ta.
Trong thời kỳ 1954-1975, cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược CM. Trong thời
kỳ nầy sự kết hợp ĐLDT và CNXH thể hiện tập trung ở việc xác định nhiệm vụ mỗi
miền và việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai miền hướng tới mục tiêu
chung của CM cả nước: miền Bắc tiến hành CMXHCN, miền Nam tiến hành CM
DTDC. CM XHCN ở miền Bắc có vị trí quyết định sự nghiệp CM cả nước, CM miền
Nam có vị trí quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam, CM cả hai miền


đều nhằm mục tiêu chung là hoàn thành ĐLDT, thống nhất tổ quốc.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta đã bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ
hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên CNXH trong điều kiện đất nước
nghèo nàn lạc hậu, không qua CNTB, với hậu quả nghiêm trọng do chiến tranh để lại.
Do nhận thức đặc điểm dân tộc và quy luật CNXH không chuyển biến kịp với bước
ngoặt của CM nên trong lãnh đạo Đảng phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, thể hiện ở
cả hai mặt: vừa nóng vội vừa bảo thủ trì trệ, chủ nghĩa giáo điều và lạc hậu trong
nhận thức về lý luận của CNMLN. Đó là nguồn gốc của sai lầm, làm cho Đảng lúng
túng trong xác định những chủ trương, chính sách lớn và chỉ đạo chiến lược. Trong
giai đoạn nầy CM ở nước ta đứng trước những khó khăn và thách thức cực kỳ to lớn.
1
Ở trong nước, khó khăn lớn nhất là nền KT-XH lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Trên trường quốc tế, đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế cấu kết nhau lại
bao vây cô lập VN. Đồng thời trong giai đoạn này, nền kinh tế Liên xô và một số
nước XHCN Đông âu đã có những biểu hiện trì trệ khủng hoảng, và bước vào đầu
thập kỷ 80 của thế kỷ XX, quan hệ hợp tác giữa các nước XHCN đã có sự thay đổi.
Tuy nhiên, nhờ kiên định với mục tiêu ĐLDT và CNXH mà toàn Đảng và toàn dân
đã từng bước tìm tòi, thể nghiệm để phát hiện những hình thức, bước đi phương pháp
mới của con đường XHCN nhằm vượt qua khủng hoảng. Mốc chuyển biến nầy được
đánh dấu bằng Đại hội lần thứ VI của Đảng.
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới. Trong đó, Đảng phải
đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức;
đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Quá trình đổi mới
tư duy trên thực tế là quá trình đấu tranh về mặt lý luận và tư tưởng nhằm đạt đến
nhận thức mới về CNXH và về con đường đi lên CNXH ở VN.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và
triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng là tinh thần trách
nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc và đã mở ra thời kỳ mới của CM nước
ta trên con đường đi lên CNXH.
Cũng cần phải nói rõ, đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu XHCN mà làm

cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về
CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Trong quá trình thực thực hiện công cuộc đổi mới không phải lúc nào cũng dễ dàng
và thuận lợi. Nhất là vào cuối những năm 80, tình hình các nước XHCN có những
diễn biến phức tạp, nhiều nước XHCN lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và
nghiêm trọng, nhất là vào năm 1991 sự tan rã của Liên xô đã tác động sâu sắc đến
nước ta. Sự kiện đó đã làm cho một số cán bộ và nhân dân ta lo lắng, một số dao
động hoài nghi về tiền đồ của CNXH. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường
truyền thống bị đảo lộn. Một số thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất
ổn định chính trị và gây bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng trước thử thách
hiểm nghèo.
Trước tình hình đó, Đảng ta và nhân dân ta vẫn khẳng định đi lên CNXH là con
đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây
dựng nước VN XHCN là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta.
Kết quả sau 20 năm đổi mới, theo đánh giá của ĐH X của Đảng: Đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng
khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính
trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Thành công của công cuộc đổi mới mang lại đã tạo ra cho VN thế và lực phát triển
mới, là kết quả mang tính tổng hợp của đổi mới, có giá trị định hướng tương lai.
2
ĐLDT và CNXH một lần nữa được thực tiễn của CMVN và thế giới bổ sung làm
vững vàng thêm nhận thức của Đảng và nhân dân ta về lý luận, chính trị. Nhờ đó,
những âm mưu của kẻ thù không lay chuyển được con đường CMVN.
Thắng lợi của công cuộc đổi mới là nhờ Đảng ta luôn luôn giữ vững mục tiêu ĐLDT
và CNXH. Vì vậy, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh bài học chủ yếu là

"trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu ĐLDT và CNXH trên nền tảng
CNMLN và tư tưởng Hồ chí Minh".
Hiện nay, ĐLDT ở VN là vừa bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc, vừa giữ vững
chủ quyền, giữ vững bản sắc văn hóa VN, vừa tạo sức mạnh mới để xây dựng đất
nước trong mọi hoàn cảnh nhằm đạt tới dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân
chủ văn minh.
CNXH hiện nay phải xây dựng trên cơ sở của ĐLDT. CNXH mà chúng ta đang xây
dựng là của VN, mang bản sắc VN. Không thể nói ĐLDT ở VN mà không có CNXH;
không thể nói XHCN ở VN mà không có ĐLDT.
Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là CNH-HĐH đất nước để thực hiện dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đây cũng là vấn đề cơ bản của dân tộc,
của CNXH. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng do yêu cầu khách quan của ĐLDT và
CNXH đang ở tầm cao mới.
Mục tiêu ĐLDT và CNXH là tư tưởng chủ đạo của CMVN, là nguồn cổ vũ toàn dân
phát huy năng lực trí tuệ và lực lượng vật chất để tiếp tục đưa sự nghiệp CMVN đi
đến thắng lợi mới. Chính vì vậy, ĐH X của Đảng vừa diễn ra đã tiếp tục khẳng định:
"Kiên định CNMLN, TTHCM, mục tiêu ĐLDT và CNXH, vận dụng và phát triển
sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng."
3

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×